Sau ngày đó ra khỏi Tuyết Phương rồi đến Cẩm Phong tham quan một hồi, Tạ Lực nói với Đường Cạnh hắn không có ý định quay lại Mĩ nữa.
“Chung quy chẳng phải đất của mình.” Hắn cảm thán vậy.
Từ hồi còn ở Mĩ, Đường Cạnh đã nghe hắn nói câu này mấy lần rồi.
Nói đến thân thế của Tạ Lực thì chẳng biết phải tính từ đợt di dân thứ nhất hay thứ hai nữa. Bảy, tám tuổi hắn đã theo mẹ xuất phát từ Quảng Đông đi nương cậy người cha lao động ở Mĩ, mười tuổi đã đổ máu đổ mồ hôi làm công cho nhà máy đến phát sợ rồi đến phố người Hoa kiếm sống, nằm gai nếm mật không ít, thành ra vóc dáng vạm vỡ, đầu óc linh hoạt, bái nhập An Lương Đường có thể nói là lựa chọn tốt nhất của hắn khi ấy.
Thực ra ở đây cũng chẳng phải đất của mình, Đường Cạnh rất muốn nhắc nhở, song nghĩ lại thì cũng không thể coi là đất của Tây. Lính tuần không thể chấp pháp vượt ranh giới, nếu không nhờ bang phái thì lãnh đạo tô giới đừng hòng mà bắt được một tên trộm cướp nào, phạm tội ở tô giới Pháp thì chạy sang tô giới chung là được, cùng lắm thì đi Hoa giới. Mà bang phái không có lãnh đạo nâng đỡ thì cũng chẳng có khả năng phát triển đến mức này. Nói là tự thành một nước chẳng bằng nói là cái gánh tạp kĩ, anh vừa xướng xong hắn lại lên đài.
Đường Cạnh không biết cặp xanh mập đỏ gầy ở Tuyết Phương kia dính dáng bao nhiêu đến quyết định này của Tạ Lực, cũng chẳng quan tâm lắm. Nói thẳng ra thì kỳ thực anh cũng có tư tâm, anh đích xác cần một người hoàn toàn là của mình. Người này cần cách trở một tầng với ngõ Cẩm Phong, nhưng vẫn hiểu được quy định bang phái. Tạ Lực rất vừa vặn.
Anh biết Trương Lâm Hải đa nghi, không muốn dẫn ra suy nghĩ xa xôi kiểu như anh nuôi tư binh, bèn dứt khoát đặt lên mặt bàn, mở miệng thương lượng với Trương soái.
“Chuyện như vậy mà cậu lại tới hỏi tôi à?” Trương Lâm Hải hỏi vặn lại, cảm thấy hết sức nực cười, “Thưa hỏi tử tế với bên Tư Đồ tiên sinh đi, còn lại cậu tự quyết là được.”
Thế là, bên này đánh một bức điện báo vượt biển gửi sang, bên kia phúc đáp, Tạ Lực liền ở lại.
Đường Cạnh sắp xếp cho hắn trọ ở ngõ Cẩm Phong, không khác gì những môn đồ khác. An Lương Đường thuộc Hồng Môn, Tạ Lực không tiện đầu quân sang Thanh Bang nhưng ít nhất cũng nằm dưới mí mắt người ta.
Chớp mắt đã là Chủ Nhật, Đường Cạnh y hẹn gọi Tô Cẩm Linh đi khách.
Anh điện tới tỏ rõ mục đích, má mì Tuyết Phương kinh ngạc đến hồi lâu không hoàn hồn được, nhưng cũng chẳng dám nói gì thêm, thả cho Cẩm Linh đi.
Một chiếc xe ba gác chở Cẩm Linh đến khách sạn Richard, Đường Cạnh nhanh chóng đuổi đầy tớ đi theo đi rồi thuê xe đưa cô đến công ty minh tinh.
Advertisement
Đợi đến khi thử vai xong trở về thì đã xâm xẩm tối, Cẩm Linh nói với Đường Cạnh: “Bên kia toàn con gái nhà có điều kiện, đạo diễn bảo họ khóc mà chẳng ai khóc nổi ra trò, với em thì lại đơn giản quá.”
Đường Cạnh nghe lời này mà như nếm ra chút vị chua xót, song Cẩm Linh lại rất đắc ý, có điều, thành công hay không thì hãy chưa biết. Hai người tán gẫu thêm đôi câu, Cẩm Linh nhớ tới mấy lời nhơ nhuốc má mì nói lúc rời khỏi Tuyết Phương, ít nhiều cũng thấy áy náy với Đường Cạnh.
Đường Cạnh lại tự giễu, người như anh nào quan tâm đến chuyện nhiều thêm một hai tội danh? Nhưng trông thấy nụ cười nhàn nhạt của Cẩm Linh thì lại cảm giác thế cũng đủ nhiều rồi.
Mấy ngày sau đó, báo chí Trung Tây ở đất Hỗ đều đưa tin về vụ án Haru Maru.
Đầu tiên là phòng điều tra mang thi thể về, lập án điều tra, lấy được kết luận gần như nực cười…
Người chết Tôn Quế làm nghề ăn trộm, thường lấy danh nghĩa bán quà vặt rượu Tây lên các tàu đánh cắp tiền của. Ngày đó Haru Maru mất trộm một chiếc đồng hồ vàng, hai thủy thủ Toma và Kido tìm ra trong người Tôn, đang định báo cảnh sát bắt giữ thì Tôn sợ tội muốn trốn, hoảng loạn cất bước, va phải đồ sắt mạn thuyền, vỡ sọ chết.
Sau đó thì đến vợ người chết nộp đơn kêu oan, lời khai báo lại là một câu chuyện khác hoàn toàn trái ngược.
Chồng thị Tôn Quế, bốn mươi chín tuổi, bán quà vặt trên tàu mưu sinh, vì đòi tiền khất mà xảy ra tranh chấp, bị đánh đập dã man đến chết. Có người báo án với lính tuần sông, nhân viên được phái đi điều tra phát giác là thủy thủ Nhật gây họa thì rắp tâm ném xác xóa dấu. Thủ đoạn hắn độc ác, hành sự tàn nhẫn, khiến người căm phẫn. Khẩn cầu viện trợ rửa nỗi oan khiên.
Sau nữa thì đủ các loại tổ chức như Hội Liên hiệp Bến tàu Hoa Sạn, Hội Đồng hương Phố Đông hô hào điều tra chân tướng để bình ổn sự phẫn nộ của người dân. Thậm chí còn có người liên tưởng đến người hi sinh trong cuộc đại bãi công ở nhà máy sợi Nhật Bản vào năm ngoái, nhất thời ai nấy lấy bút làm vũ khí, lên án hết bài này đến bài khác.
Nhưng tác dụng lại chỉ đến thế, từ đầu đến cuối không có một nhân chứng thực sự nào đứng ra giải thích chân tướng, nếu có cũng chỉ là suy đoán và tin đồn trên phố. Mà hai thủy thủ Nhật có liên quan đến vụ án kia thì được lãnh sự quán thao tác, lấy quyền tài phán lãnh sự ra bảo hộ, ít ngày nữa sẽ bị áp giải xuất cảnh.
Không biết tại sao, Đường Cạnh lại có phần thất vọng.
Trước đó nghe Polly nói Ngô Dư Bồi đã nhận vụ án này, bây giờ lại chẳng thấy có động thái gì. Anh không hiểu nổi rốt cuộc tên ngụy quân tử kia đang làm gì nữa, vốn tưởng chỉ là mua danh chuộc tiếng, hiện tại xem ra đến bản lĩnh mua danh chuộc tiếng cũng không có.
Đến một buổi trưa nọ, Đường Cạnh rời khỏi văn phòng, bắt gặp Ngô Dư Bồi bị phóng viên cản lại giữa đường dưới cao ốc Hardoon.
Nửa là thiện tâm nửa là hiếu kì, anh lái xe tới, quay cửa sổ xe xuống thò người ra gọi với lên vỉa hè: “Luật sư Ngô, đi ăn đi.”
Ngô Dư Bồi ngoảnh lại nhìn thấy anh, thoạt tiên hơi giật mình. Đường Cạnh luôn cảm thấy trong thần sắc đó ít nhiều đều có phần chán ghét, nhưng có lẽ là bị truy đuổi phát phiền nên cuối cùng luật sư Ngô vẫn kéo cửa ra lên xe của anh, mặc phóng viên vỗ thân xe bên ngoài.
Lần này, đến lượt Đường Cạnh bất ngờ. Anh tăng tốc chạy một đoạn về phía trước rồi mới hỏi Ngô Dư Bồi: “Anh muốn đi đâu?”
Mặt Ngô Dư Bồi lạnh tanh, hỏi ngược lại anh: “Không phải nói là đi ăn à?”
Đường Cạnh cười, bỗng cảm thấy kỳ thực người này cũng chẳng nhàm chán như mình nghĩ.
Anh bèn đưa Ngô Dư Bồi đến một nhà hàng Bạch Nga1, để tránh trao đổi nước bọt. Hai người mỗi người gọi một suất ăn nhẹ, ngồi xuống đối diện nhau.
1 Người Nga ủng hộ chế độ cũ, di cư ra nước ngoài sau cuộc Cách mạng Nga năm 1917 được gọi là Bạch Nga (tiếng Anh: White Russian Émigree).
Vừa ăn vừa kiếm chuyện tán gẫu câu được câu chăng, chẳng hạn như học ở đâu, từng làm việc ở đâu.
Thực ra, luật sư người Hoa đi du học nghiêm chỉnh trở về trong tô giới tổng cộng cũng chỉ có mấy mống, đã sớm biết rõ lai lịch của nhau.
Ngô Dư Bồi biết sau lưng Đường Cạnh là Thanh Bang, Đường Cạnh cũng biết Ngô Dư Bồi xuất thân con nhà thư hương, từng học ở Đại học Pháp chính Thượng Hải, sau đó giành được học bổng của Pháp, đến Paris học thẳng lên tiến sĩ, sau khi tốt nghiệp thì thi đỗ bằng luật sư Pháp, còn từng làm việc cho ngân hàng ở Pháp, có thể nói là xuất thân trong sạch, làm rạng rỡ tổ tông. Nhưng xem lí lịch của anh ta thì hẳn quen thuộc với thương nghiệp Pháp hơn mới phải, vụ án hình sự trước mắt không phải sở trường của anh ta.
Trò chuyện loanh quanh như vậy hồi lâu, chờ đến lúc đã ăn gần hết, Đường Cạnh mới không nhịn được hỏi: “Ban nãy phóng viên đến là vì vụ Haru Maru à?”
Advertisement
Ngô Dư Bồi gật đầu: “Đây là án công tố, thực ra tôi cũng không có quyền giải quyết, chỉ lấy thân phận luật sư thay mặt người nhà thương lượng với các nơi mà thôi, trước mắt đi đâu cũng gặp thái độ trì hoãn, tôi chỉ có thể nói bốn chữ không thể trả lời.”
“Sao có thể?” Đường Cạnh không hiểu, “Bên ngoài đồn đại rất nhiều về vụ án này, luật sư Ngô cứ lấy đó ra làm văn là được mà.”
Anh biết Ngô Dư Bồi đã đầu tư rất nhiều công sức vào đó, thực ra việc cấp bách là nhân lúc vụ án này đang nổi, giương giọng ca bài dân tộc đại nghĩa, nắm chắc cơ hội kiếm thanh danh. Mà có thanh danh rồi thì các thể loại giấy mời cố vấn pháp luật sẽ lập tức bay tới như tuyết rơi. Đây vốn là lĩnh vực của Chu Tư Niên, nhưng dù sao luật sư Chu cũng đã có tuổi, còn là một tay ham chơi, thời gian đi kĩ viện, phòng nhảy, cưỡi ngựa còn nhiều hơn là ở văn phòng, cũng nên có nhân tài mới xuất hiện, kế thừa cái ghế đại luật sư đứng đầu của thương hội.
Nào hay Ngô Dư Bồi lại bảo: “Tôi là luật sư, không phải văn sĩ, không có chứng cứ làm nền thì không nói được.”
“Vậy anh định làm thế nào? Cứ nhìn người Nhật áp giải nghi phạm xuất cảnh vậy thôi à?” Đường Cảnh cảm thấy người này thật sự bảo thủ đến đáng yêu, lại hơi tức giận khi thấy y không phấn đấu, nghĩ bụng chẳng lẽ không muốn thanh danh thì đổi được chân tướng chắc?
Ngô Dư Bồi cúi đầu nhìn dao nĩa trong đĩa, lại cười: “Thế nên hôm nay mới ăn cơm với luật sư Đường đây.”
“Là sao?” Đường Cạnh không hiểu.
“Là có chuyện muốn nhờ.” Ngô Dư Bồi đáp.
Đường Cạnh bật cười, vốn là mình trêu chọc người ta nên mới lôi người ta đi ăn cơm, cuối cùng lại hóa tên ngụy quân tử này cố ý chờ anh vào tròng.
Ngô Dư Bồi không để ý anh phản ứng ra sao, vẫn ôn hòa nói tiếp: “Mấy ngày nay, tôi và cô Wallace đến bến Hoa Sạn mấy lần, đã điều tra rõ lời vợ Tôn Quế khai báo trong đơn kiện đích thực là nghe đồn, nhưng còn biết có hai xuất xứ.”
“Hai cái nào?” Đường Cạnh đã có dự đoán, nhưng giả vờ không hiểu.
Ngô Dư Bồi trả lời: “Phòng tuần bộ ven sông và hội đồng nghiệp chợ xanh.”
Lời nói đến đây đã thông suốt. Hai nơi này đều là thế lực của Thanh Bang, anh ta cần sự hỗ trợ của Đường Cạnh.
Yên lặng chốc lát, Đường Cạnh hỏi vặn: “Sao luật sư Ngô lại nhìn ra tôi giúp được?”
Ngô Dư Bồi cười, cũng rất thẳng thắn: “Thực ra là cô Wallace tin anh.”
Lòng Đường Cạnh khẽ động, nhưng anh không biểu hiện ra, chỉ giơ tay gọi phục vụ Tây tới thanh toán. Ngô Dư Bồi ngỏ ý muốn chia tiền với anh, anh chẳng buồn đếm xỉa, ném tiền xuống, nghênh ngang rời đi.
Trên đường trở về văn phòng, Đường Cạnh cứ nghĩ mãi, không phải nghĩ chuyện Tôn Quế chết trên Haru Maru mà là nghĩ đến trăng sáng và cống rãnh.
Đầu anh còn chưa kịp nghĩ ra nguyên cớ, chân đã bước vào văn phòng, nữ thư kí chuyển cho anh một lời nhắn điện thoại, là do nữ hiệu trưởng St. Andrew gọi tới, mời anh qua trao đổi về việc học của Châu Tử Hề.
Đường Cạnh nhìn, không nhịn được bật cười, thế này là thế nào? Không biết anh là côn đồ à? Sao người nào người nấy đều trông cậy anh làm những chuyện rõ là ly kì thế.
Ngoài cửa, hai phụ tá đi vào, thấy anh cầm giấy nhắn cười thì như gặp ma.
Nhưng Ngô Dư Bồi có thể mặc kệ, Châu Tử Hề lại nằm trong trách nhiệm của anh.
Không bao lâu sau, Đường Cạnh đã ngồi trong phòng hiệu trưởng trường St. Andrew, trong tay là bảng điểm của Châu Tử Hề.
“Em ở Mĩ bảy năm mà tiếng Anh được D?” Anh cực kì cạn lời.
Châu Tử Hề cụp mắt đứng bên cạnh, trả lời: “Thi Chaucer và Shakespeare, ở Mĩ bảy mươi năm cũng vô dụng.”
Hình như rất có lí, nhất thời Đường Cạnh không biết phải nói gì nữa.
“Em đã cố hết sức rồi.” Châu Tử Hề bồi thêm một câu.
Hiệu trưởng lạnh mặt nhìn hai người họ, tuy nghe không hiểu tiếng Trung nhưng cũng nhìn ra người giám hộ này nuôi mà không dạy, thế là giáo huấn một trận không văng tục tĩu, mắng cả Đường Cạnh vào.
“Tôi sẽ khuyên bảo em nó.” Nghe xong giáo huấn, Đường Cạnh cam đoan với hiệu trưởng.
Rời khỏi phòng hiệu trưởng, hai người đi ra sân trường. Đường Cạnh tự biết mình không tiện đến kí túc xá nữ sinh, bèn dẫn Châu Tử Hề đến chỗ anh đỗ xe.
Anh còn đang nghĩ xem phải khuyên nhủ thế nào thì Châu Tử Hề đã mở cửa xe ngồi vào ghế sau, cầm tờ báo trong xe lên mở ra đọc, tỏ thái độ chuyện không liên quan đến mình.
Advertisement
“Vụ Haru Maru anh thấy thế nào?” Nàng núp sau tờ báo, hỏi.
Đường Cạnh ngạc nhiên, không ngờ nàng ở đây cũng nghe được đến vụ kiện cáo này, đưa tay rút mất tờ báo trong tay nàng, đáp: “Không liên quan tới tôi, cũng không liên quan tới em.”
Châu Tử Hề cũng chẳng cố ép, lập tức đổi một chủ đề khác có liên quan: “Hiệu trưởng nói D thêm mấy lần nữa là có thể sẽ bị xóa tên khỏi trường học đấy.” Rõ ràng là một câu nói nên lo lắng nhưng ngữ khí nàng lại lộ rõ khấp khởi.
“Em yên tâm, đã nộp đủ học phí đến cuối tháng Sáu năm sau rồi.” Đường Cạnh thẳng thừng gạt bỏ suy nghĩ ấy của nàng.
“Nếu bị đuổi thật thì anh định làm gì?” Châu Tử Hề không tin, “Rút súng lục ra đập lên bàn hiệu trưởng chắc?”
Đường Cạnh thở dài, thật sự không muốn nói thêm gì nữa.
Châu Tử Hề vẫn muốn truy vấn: “Này, anh có súng không?”
“Không.” Anh lừa nàng, tuy anh là người tử tế duy nhất có bối cảnh thanh bạch trong ngõ Cẩm Phong nhưng dẫu sao, trong hộp găng tay trên ô tô vẫn cất một khẩu Browning.
“Không phải các anh đều có súng cả à? Tạ Lực có cơ mà.” Châu Tử Hề đương nhiên không tin.
Đường Cạnh không dài dòng với nàng, cố gắng nhớ lại hồi mình đi học từng được khích lệ thế nào, tựa hồ chỉ có mỗi mấy câu bút máy bạch kim, đồng hồ quả quýt tráng men, âu phục giày da, có xe đưa đón của mẹ. Đặt câu này vào Châu Tử Hề hiển nhiên là rất không hợp.
“Tôi kể cho em nghe một câu chuyện nhé.” Anh suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng cũng cất tiếng.
“Anh kể đi.” Châu Tử Hề làm bộ không có hứng thú nhưng nghe tạm cũng được.
“Trước đây có một đứa trẻ…” Anh vừa mở đầu.
“Là anh chứ gì?” Nàng đã đoán ra.
Đường Cạnh lúng túng, đành đổi cách nói khác, miễn cưỡng tiếp tục: “Có một mùa đông trời rất lạnh, người khác đều về nhà đón Giáng Sinh, trong kí túc xá chỉ còn mình cậu ta.”
“Kể tiếp đi kể tiếp đi!” Châu Tử Hề cổ vũ, điệu bộ đã đổi sang sẵn sàng nghe chuyện ma.
Đường Cạnh lại làm nàng thất vọng: “Quản lí kí túc ức hiếp cậu ta, tắt hệ thống sưởi. Cậu ta rét không chịu nổi, bèn ném hết sách vở vào lò đốt.”
“Sau đó thì sao?” Nàng truy vấn.
“Nghỉ lễ xong quay lại đi thi, cậu ta vẫn là người đứng nhất.” Đường Cạnh kể nốt phần cuối, chính anh cũng cảm thấy rất bất lực.
“Quả nhiên là anh.” Quả nhiên, nàng chẳng chút động lòng.
Đường Cạnh vỗ trán, triệt để từ bỏ.
Im lặng một chốc, Châu Tử Hề lại bắt đầu đọc báo.
Anh kéo một góc báo xuống, ôn hòa hỏi nàng: “Rốt cuộc vì sao phải như vậy?”
“Tại sao không như vậy?” Châu Tử Hề ngẩng đầu nhìn anh.
Đường Cạnh như hiểu ra điều gì, cũng nhìn nàng.
Lòng Đường Cạnh mềm xuống, muốn nói vài câu an ủi song không thể, vì chung quy, câu hỏi này không có lời giải.
Anh bèn đổi chủ đề, trả lại Châu Tử Hề câu nàng đề cập ban nãy: “Em thấy vụ Haru Maru thế nào?”
Châu Tử Hề không ngờ anh sẽ hỏi vậy, nhưng vẫn trả lời ngay: “Lời khai của cả hai bên đều không đáng tin.”
Đường Cạnh vốn chẳng hề chờ mong sẽ nghe được cao kiến gì ghê gớm từ nàng nhưng lúc này, thấy hai mắt nàng sáng bừng thì lại hơi bất ngờ.
“Sao lại nói vậy?” Anh hỏi tiếp.
Châu Tử Hề đĩnh đạc trả lời: “Kết luận của phòng điều tra là kết quả tra hỏi của phòng tuần bộ ven sông, mà đối tượng tra hỏi thì chắc chắn là thủy thủ Nhật Bản trên tàu Haru Maru, đương nhiên là ôm tâm thái gỡ tội cho người dính dáng đến vụ án, chỉ trích Tôn Quế trộm cắp trước, mưu đồ hướng sự kiện về phía ngoài ý muốn để chối bỏ trách nhiệm.”
“Thế đơn kiện của vợ Tôn Quế thì sao?” Đường Cạnh tiếp tục.
“Câu chuyện trong đơn kiện có vẻ hợp lí thường tình hơn,” Châu Tử Hề thoáng ngẫm nghĩ, “Nhưng vợ người chết hiển nhiên cũng không phải người trong cuộc, vậy thì chi tiết ‘đánh đập đến chết, rắp tâm ném xác’ kia rốt cuộc đến từ đâu? Nếu có thể chỉ rõ nhân chứng…”
Advertisement
Đường Cạnh thán phục logic của nàng, nhưng thấy nàng còn muốn nói tiếp thì lại cười lạnh ngắt lời: “Bảo sao tiếng Anh thi chỉ được D, cả ngày nghĩ cái gì đấy?”
“Thư viện trường cũng có báo mà.” Châu Tử Hề bĩu môi le lưỡi với anh, đang định nói tiếp thì lại thấy Đường Cạnh cúi đầu xem đồng hồ.
Trong đầu lại hiện lên hình ảnh tương tự, trường học, ô tô, người đàn ông nâng cổ tay lên xem đồng hồ.
“Anh mau đi đi.” Nàng cướp lời nói trước, giọng lạnh xuống, vứt mạnh tờ báo xuống ghế rồi xuống khỏi xe anh.
Đường Cạnh nhìn nàng, không biết mình sai chỗ nào mà chọc vị đại tiểu thư này không vui, lại chợt nảy lên một ý niệm.
“Không phải em hỏi thi được A thì thế nào à?” Anh nói, biết rõ mình chỉ đang nhất thời hứng khởi, có lẽ một giây sau sẽ lập tức hối hận, song vẫn không kìm được hỏi ra.
“Thì sao?” Châu Tử Hề hỏi lại.
“Nếu em thi được A một môn, tôi sẽ dẫn em đến bến tàu Hoa Sạn.” Anh hứa hẹn.
“Deal.” Nàng lạnh lùng đáp, đoạn xoay người rời đi, chỉ chừa cho anh một bóng lưng.
Nhưng trong chớp mắt khi nàng rời đi, anh đã nhìn thấy ánh sáng trong mắt nàng như mong muốn.
Sang đến tuần sau, trước Chủ Nhật, Đường Cạnh nhận được điện thoại của Châu Tử Hề gọi từ trường tới, nàng đắc ý báo với anh mình đã được điểm A anh giao hẹn.
“Tiếng Anh à?” Anh hỏi.
“Anh đâu có quy định là môn nào?” Nàng cãi bướng.
“Vậy rốt cuộc là môn nào?” Anh truy cứu.
“Thể dục…” Giọng nàng hạ xuống.
Anh phì cười, xoay ghế giám đốc qua đối diện cửa sổ, dây điện thoại kéo ra thật dài.
“A deal is a deal!” Nàng phản đối, rất chi là hùng hồn.
“Được rồi,” Anh thua nàng được chưa, cầm ống nghe gật đầu mà cũng chẳng nghĩ tới nàng sao nhìn thấy được, “A deal is a deal.”
Lúc xoay về cúp máy, anh vẫn đang cười. Bây giờ mà có ai đi ngang qua cửa thì chỉ e sẽ tưởng mình gặp ma.
Sáng Chủ Nhật, Đường Cạnh thực hiện lời hứa, đón Châu Tử Hề ra khỏi trường nữ sinh.
Nhưng có một việc anh chưa từng tính toán cẩn thận. Ngày đó, anh cũng nhận lời Tô Cẩm Linh gọi cô ra ngoài đi khách.
Ngoài dự liệu của anh, bận trước Cẩm Linh thử vai thành công, giành được một nhân vật nhỏ trong bộ phim mới của công ty minh tinh, đóng vai một bà bé xuất thân kĩ nữ, cũng xem như diễn đúng bản sắc. Để quay phim, trong khoảng thời gian tới, cô sẽ phải ra ngoài thường xuyên. Đường Cạnh tiễn Phật tiễn tới Tây Thiên nên cũng đành tiếp tục gánh tiếng xấu tuyên dâm giữa ban ngày.
Đương nhiên, nếu còn phải quay vào ban đêm thì cũng tức là hết ngày dài lại đến đêm thâu.
Thế là hôm đó, Đường Cạnh đón Cẩm Linh ở khách sạn Richard, lúc đuổi gã sai vặt Tuyết Phương phái đi theo cô đi, Châu Tử Hề đang ngồi trong con xe Austin bên kia đường nhìn họ.
Cẩm Linh nhận ra xe Austin của Đường Cạnh, thấy trong xe có người nhìn mình, bèn nhún người chào, còn nhàn nhạt cười mỉm như bình thường, cũng chẳng ngại ánh mắt người khác nhìn mình mang vẻ hờ hững xem nhẹ.
Cuộc gặp gỡ này chỉ cỡ mười lăm phút song vẫn khiến Đường Cạnh cảm nhận được có gì đó không ổn. Anh không ngại người ngoài nói anh ngày ngày gọi kĩ nữ, nhưng để Châu Tử Hề bắt gặp thì lại làm anh có cảm giác tội lỗi vi diệu mà chẳng rõ tại sao.
Trên đường ra bờ sông, anh tìm lí do cho mình. Có lẽ trong tiềm thức của anh, hai dạng phụ nữ này không nên gặp mặt.
Dù cho một thời khắc nào đó trong tương lai sau khi xuất giá, Châu Tử Hề sẽ không thể không đối mặt với một vài bà bé xuất thân đường Tứ Mã, với phẩm hạnh trong quá khứ của Trương Tụng Nghiêu, đó là chuyện vô cùng có khả năng xảy ra. Nhưng bất kể thế nào, chí ít vào lúc này, thế giới của nàng nên là không đen tức trắng, trong sáng hoàn mĩ.
“Người mới rồi là ai vậy ạ?” Châu Tử Hề cắt ngang dòng suy nghĩ của anh.
“Người hầu trong nhà.” Đường Cạnh đáp đại.
“Ha,” Châu Tử Hề cười nhạo, “Người hầu nhà anh mặc áo chẽn cổ trụ đi giày gấm thêu hoa cơ đấy.”
“Vậy em nói xem cô ấy là ai?” Đường Cạnh hừ lạnh, lười tìm lí do tiếp, chắc mẩm trong bụng một cô bé như nàng sẽ chẳng có mặt mũi mà nói hai chữ kia với một người đàn ông.
Advertisement
Ngờ đâu Châu Tử Hề xáp lại bên tai anh, thì thầm: “Cô ấy chẳng phải là…? Có phải hai người đã…?”
Kết quả lại thành anh không có mặt mũi, trượt tay đánh vô lăng, suýt nữa đâm phải xe ba gác bên đường.
“Ngồi xuống,” Đường Cạnh mắng, “Em nghe đâu ra những thứ này?!”
“Anh tưởng em chẳng hiểu gì sất hả?” Châu Tử Hề khịt mũi.
“Em thì hiểu cái gì?” Đường Cạnh khịt mũi to hơn.
Châu Tử Hề không phục, thách thức: “Anh cứ việc kiểm tra em đi.”
Đường Cạnh cứng họng, bảo anh kiểm tra thế nào cho được?
Lái xe đến bến đò, từ xa đã trông thấy Polly và Ngô Dư Bồi.
Đường Cạnh dẫn Châu Tử Hề xuống xe, chưa kịp giơ tay lên chào, hai người kia đã đi tới. Ngô Dư Bồi vẫn mặc âu phục nguyên bộ chỉnh tề như cũ, Polly thì gọn nhẹ hơn, sơ mi, quần tây, ống tay áo xắn lên, nom rất phong độ.
“Còn tưởng chỉ có hai chúng ta thôi chứ.” Châu Tử Hề bên cạnh bĩu môi.
Đường Cạnh liếc nàng, không hiểu lắm nàng nói vậy là có ý gì, nhưng trước mắt là Polly đang mỉm cười với anh, chuyện vụn vặt khác tạm gác lại hết đi.
“Tôi đã nói là cậu cũng có thể mà, chỉ cần cậu đồng ý.” Polly nói với anh.
Đường Cạnh lại đáp: “Tôi chỉ dẫn trẻ ra ngoại thành chơi, tiện đường gặp mọi người thì đi cùng thôi.”
Polly lại cười, gật đầu chấp nhận lời giải thích này.
Châu Tử Hề cũng cười nhưng là cười khẩy, đại khái là vì chữ “trẻ”.
Đường Cạnh tiếp tục ngó lơ, vung tay dẫn nhóm người xuống thuyền.
Khi ấy sông Hoàng Phố chưa có phà Xuân Giang, người dân đưa đò phần lớn là bằng thuyền chèo. Nhưng hôm nay họ lại có một con thuyền máy nhỏ, cũng là của Đường Cạnh thu xếp từ trước.
Tuy đã là cuối hè song hôm nay nắng hãy còn chói chang, nhìn bộ complet Ngô Dư Bồi mặc, Đường Cạnh nổi lòng chơi xấu, lấy cớ khoang thuyền hẹp, chỉ để hai cô gái ngồi trong còn mình thì kéo Ngô Dư Bồi lên boong thuyền đứng ngắm cảnh sông.
Không bao lâu sau, Ngô Dư Bồi đã bị ngốt buộc phải cởi áo khoác ra, còn rút một chiếc khăn tay trắng vuông vắn lau mồ hôi trên trán.
Đường Cạnh nhìn anh ta tức cười, cũng mong Polly bắt gặp cảnh nhếch nhác này, nhưng nhìn về phía khoang thuyền thì lại thấy hai cô gái đang kề đầu gối trò chuyện. Dường như Châu Tử Hề đã sớm quên cảm xúc không vui mới rồi, hợp cạ đến nói mà nhập tâm.
“Đang nói gì vậy?” Anh đi qua hỏi.
Châu Tử Hề ngẩng lên nhìn anh, đáp: “Mới biết chị Wallace là phóng viên ‘China Press’ nên em đang hỏi quan điểm của chị ấy về hôn nhân sắp đặt.”
Quả nhiên, Đường Cạnh nghĩ thầm, con bé này thật đúng là có cơ hội nào tóm ngay cái đấy. Nhưng anh rất hiểu Polly, đã liệu trước được rằng Châu Tử Hề sẽ không nhận được câu trả lời mong muốn.
“Vậy chị Wallace đã trả lời thế nào?” Anh bèn hỏi.
Châu Tử Hề đưa mắt nhìn Polly rồi tổng kết: “Hôn nhân là một âm mưu của xã hội phụ quyền.” Thần sắc như hiểu như không nhưng lại rất tán thành.
Đường Cạnh cười xòa, cũng chẳng lo lắng. Anh từng hẹn hò mấy bữa với Polly, đã biết từ sớm rằng người phụ nữ này hoàn toàn không tin vào chuyện kết hôn bất kể là có tự do hay không, cũng đủ năng lực tự lập thực hành. Nhưng đối với phụ nữ Anh Mĩ, quan niệm như vậy vẫn còn là viển vông, huống gì Châu Tử Hề. Cô bé như nàng thế nào cũng sẽ phải tìm người kết hôn, không phải người này thì là người kia, dẫu có chống đối mối hôn ước này thì vẫn còn cả một dòng họ Châu thị đang chờ làm chủ thay nàng.
Anh dứt khoát đọc một điều luật hòng chứng minh suy nghĩ của nàng là tham vọng ngông cuồng: “Bản dự thảo luật dân sự hoàn thiện lần thứ nhất cuối Thanh đã viết rõ, ‘Kết hôn cần có sự cho phép của cha mẹ’, bản dự thảo luật dân sự lần thứ hai vào năm 1925 cũng vẫn vậy, ‘Thành viên trong gia đình muốn kết hôn, bất kể là con ruột hay con thừa tự, đều cần có sự đồng ý của gia trưởng’.”
Nào ngờ Ngô Dư Bồi nóng quá không chịu nổi cũng nhân cơ hội lại gần, vừa mở miệng đã đổ dầu vào lửa: “Nhưng quan niệm tự do hôn nhân cũng đã có ảnh hưởng đáng kể, đồng thời còn có án lệ, chẳng hạn như lúc giải thích các vấn đề về pháp luật vào năm 1915, Đại lý viện đã đề cập hôn nhân chỉ cần người trong cuộc đồng ý. Án lệ số 1009 năm 1922 cũng có một giải thích tương tự – Hôn nhân cần tôn trọng ý kiến của người trong cuộc, con cái không đồng ý thì không thể cưỡng chế thực hiện.”
Đường Cạnh nhất thời nghẹn lời, thấy Châu Tử Hề nhìn anh có phần hả hê thì suýt tức hộc máu.
Ngô Dư Bồi vẫn chưa xong: “Tôi quen một nữ luật sư họ Trịnh, là tiền bối của tôi hồi học ở Paris, chị ấy chuyên giúp phụ nữ tố tụng ly dị, còn làm giảng viên ở Đại học Pháp chính nữa, có cái nhìn rất riêng về hôn nhân sắp đặt, nếu em có hứng thú, có thể đi nghe tọa đàm của chị ấy.” Đoạn tiện tay lấy danh thiếp của mình ra, viết tên quý bà Trịnh Ánh Ngọc và địa chỉ Đại học Pháp chính ra mặt trống đằng sau.
Châu Tử Hề vội cảm ơn, vừa ngoan ngoãn đứng một bên xem Ngô Dư Bồi viết chữ, vừa như có như không liếc Đường Cạnh.
Đường Cạnh chỉ muốn cười lạnh, nghĩ thầm Trịnh Ánh Ngọc rất hay tự xưng là nữ luật sư đầu tiên của đất Hỗ, vừa vặn cũng là một ngụy quân tử khác trong mắt anh, quả nhiên tuệ nhãn của anh nhìn người không lầm được, con mẹ ngụy quân tử đó còn là đồng môn cùng trường với Ngô Dư Bồi nữa kia.
Không bao lâu sau, thuyền máy cập bờ.
Ngô Dư Bồi và Polly đi đằng trước, Đường Cạnh xuống thuyền, quay lại định đỡ Châu Tử Hề thì thấy nàng hãy còn đang nghiên cứu tấm danh thiếp kia.
“Đẹp thế cơ à?” Anh lạnh lùng giễu cợt.
Châu Tử Hề chẳng để tâm, đứng trên thuyền cao nhìn xuống anh đánh giá một phen, nói: “Cùng là luật sư mà xem ra Ngô tiên sinh ra dáng hơn anh nhiều.”
Đường Cạnh cáu tiết, ngại Ngô Dư Bồi ở không xa phía trước, đành hạ giọng hỏi vặn: “Hắn ra dáng hơn tôi? Vì hắn trắng hơn tôi hay vì hắn cận thị?”
Châu Tử Hề nhìn anh cười không đáp, chỉ cất danh thiếp đi, duỗi tay vịn cánh tay anh, thoăn thoắt nhảy khỏi mạn thuyền.
Đợi bốn người rời thuyền lên bờ, Tạ Lực đã đứng đây chờ từ lâu, gương mặt dài phơi dưới nắng đỏ ửng. Hiện hắn đã được coi như nhân viên tạm thời của văn phòng luật Baldwin, làm việc cho Đường Cạnh, lĩnh lương hằng tháng.
Chuyến đi đến bến tàu Hoa Sạn này là chuyến công tác đầu tiên của Tạ Lực ở đây, kể cũng không phụ sự kì vọng, thu xếp rất đâu vào đấy.
Mỗi tội, hội đồng nghiệp chợ xanh chỉ toàn người xã Thập Bát Gian huyện Phố Đông, ít ai nói được tiếng phổ thông, dẫu có cũng rất nặng giọng địa phương, giao tiếp với Tạ Lực dân Quảng Đông chính gốc chẳng khác nào ông nói gà bà nói vịt, càng nói càng không hiểu. Trái lại, phòng tuần bộ và quản lí người Anh ở bến tàu Hoa Sạn còn dễ trao đổi hơn.
Tạ Lực bèn dẫn bốn người đến phòng tuần bộ ven sông trước, thủ lĩnh Thanh Bang ở Thượng Hải vốn xuất thân là hoa thám trưởng1 của tô giới, thế nên lẽ tự nhiên, sở cảnh sát này cũng là thiên hạ của bang phái, tuần trưởng trực ban nơi đây nhìn người đến từ ngõ Cẩm Phong cũng bằng một con mắt khác.
1 Chức vụ cao nhất của một cảnh sát người Hoa trong hệ thống trị an tô giới.
Polly và Ngô Dư Bồi đến bến tàu mấy lần mà đây mới là lần đầu tiên xem được bản ghi chép thẩm vấn gốc. Polly lấy máy ảnh ra định chụp, một gã lính Tây bên cạnh trông thấy, toan ngăn cản thì Đường Cạnh đã ra hiệu cho Tạ Lực dúi gã ít tiền. Gã Tây vui vẻ nhận lấy, xoay người ra ngoài hút thuốc, coi như mắt điếc tai ngờ.
Nhưng nhìn lại bản ghi chép này cũng chỉ có mấy dòng, tường thuật trong đó cũng nhất trí với báo cáo của phòng điều tra – “Tôn Quế ăn trộm bị bắt, sợ tội bỏ trốn, vô tình tự gây thương tích chí tử.” Tóm lại là rất sơ sài, được chăng hay chớ.
Đang thấy thất vọng thì Ngô Dư Bồi đưa tay chỉ vào mục “Người báo án”, ấy vậy mà lại trống không.
Đường Cạnh hiểu ý, đi mấy bước ra ngoài gọi gã tuần trưởng kia vào, hỏi: “Các anh lên tàu nửa đêm là vì nhận được báo án của thuyền viên Haru Maru à?”
“Không phải,” Tuần trưởng lắc đầu, thấy họ chú ý đến sơ hở trong ghi chép cũng chẳng lo lắng, chỉ thuận miệng giải thích, “Đêm ấy có tuần bờ bên kho hàng tới báo cáo, cập rập quá nên quên ghi người báo án.”
“Báo cáo chuyện gì?” Đường Cạnh lại hỏi.
“Nói là trên Haru Maru cất giấu vũ khí nóng.” Dường như tuần trưởng cũng cảm thấy hơi buồn cười.
“Vũ khí nóng?” Ngô Dư Bồi ngạc nhiên.
“Phải, giấu ở đâu cũng báo rất cặn kẽ.” Tuần trưởng nói tiếp, chừng như nổi hứng.
“Thế là giấu ở đâu?” Đường Cạnh bèn tỏ vẻ kinh ngạc theo.
“Buồng đốt,” Tuần trưởng đáp, “Còn nói phải đề phòng người Nhật thả xuống sông Hoàng Phố chôn vùi chứng cứ, bảo chúng tôi phái hai con xuồng đi qua canh chừng ở đầu đuôi tàu trước rồi hẵng phái người lên tàu điều tra.”
“Kể kĩ càng thế mà lính tuần bờ lại không ghi người báo án à?” Ngô Dư Bồi nhíu mày hoài nghi.
Tuần trưởng sầm mặt lắc đầu, cảm thấy người này chẳng biết nể mặt nhau gì cả, cứ tóm khư khư một sơ hở không buông.
“Chỉ là việc nhỏ thôi,” Đường Cạnh nhanh chóng giải vây, lại đánh mắt ra hiệu cho Tạ Lực dúi tiền, “Vị tuần bờ hôm đó là ai vậy? Chúng tôi qua hỏi một tiếng là biết ngay thôi.”
Tuần trưởng vò đầu bứt tai, còn chưa nhớ ra được cái tên thì sau lưng đã có người nói: “Số 753, Nghiêm Ngũ.”
Giọng nghe non mềm, Đường Cạnh ngoái đầu, quả nhiên nhìn thấy Châu Tử Hề ló đầu vào.
Cô nhóc này chẳng biết đã chạy ra ngoài xem bảng chia ca dán trên tường từ lúc nào, đêm hôm vụ án phát sinh, lính tuần bờ trực ở bến tàu Hoa Sạn quả thật là một tay lính Hoa tên Nghiêm Ngũ mang số hiệu 753.
Lại xem bảng chia ca hôm nay, tay tuần bờ Nghiêm Ngũ ấy được nghỉ, không có ở kho hàng.
Đường Cạnh bèn hỏi thăm tuần trưởng chỗ ở của y, kể cũng khéo, người này sống ngay cạnh chợ Thập Bát Gian, vừa hay nằm trong điểm đến đã vạch sẵn của họ.
Rời khỏi phòng tuần bộ ven sông, Tạ Lực gọi mấy chiếc xe ba gác tới chở nhóm người đến chợ xanh.
Thời đó, Phố Đông không có lấy một con đường cái xây công nào, khác biệt trời vực với vành đai thành thị được viền bằng kiến trúc Tây Dương bên kia sông. Cũng chỉ có khu vực bến tàu là nhộn nhịp hơn chút, đường sông chen chúc, ven bờ kho hàng mọc san sát, ngẫu nhiên có một chợ cóc tự họp. Xa hơn là đồng ruộng, phóng mắt nhìn mà mênh mông như không bờ, chỉ thấy chim rừng chao liệng trên không, bay về phía mặt sông mờ mịt hơi nước.
Đường ngập cát bụi, Polly lấy khăn lụa bọc tóc, đeo kính râm lên. Châu Tử Hề đã lâu không ngồi xe ba gác, lại cảm thấy mới mẻ cực kì. Đường Cạnh thấy nàng ngồi trên xe hết nhìn đông lại nhìn tây, có vẻ rất hớn hở, thì cũng cảm thấy chuyện đi này đáng giá, chỉ mong sau khi trở về ít nhất nàng cũng chịu yên thân một thời gian, không gây chuyện nữa.
Xe ba gác chạy đến chợ, họ hỏi thăm được nhà họ Nghiêm, lần mò qua tìm. Nào ngờ Nghiêm Ngũ kia lại không ở nhà, trong nhà chỉ có một mẹ già, vợ y dẫn con gái ra bến đò ven sông giặt quần áo, nghe họ hỏi chồng mình thì đáp chắc là ra ngoài uống rượu rồi.
Cả nhóm bèn kéo nhau sang quán rượu trong chợ, vẫn chẳng tìm thấy Nghiêm Ngũ đâu. Đường Cạnh dứt khoát làm chủ, chiếm lấy một bàn tròn ngồi xuống, bảo Tạ Lực đi mời những người liên quan khác tới hỏi chuyện trước.
Tạ Lực cũng rất cơ trí, giật đầu cá vá đầu tôm mà cũng đã sàng lọc được sơ sơ vài người, chỉ là đầu nguồn phát tán tin đồn kia ở đâu thì hãy còn chưa biết. Trong lúc đợi hắn lĩnh mệnh đi làm, bốn người còn lại gọi trà nước, lẳng lặng ngồi chờ.
Nơi này cách sông Phố cũng không xa, nghe được tiếng còi hơi vang lên của tàu thuyền qua lại phía bến tàu, đặc biệt là âm thanh phát ra từ những con tàu lớn, trầm lắng mà xa xăm như băng hết vạn dặm, vượt qua thời gian.
Nghe tiếng còi hơi kia, Đường Cạnh lại nghĩ đến một vấn đề.
“Anh là người ở đâu?” Anh hỏi Ngô Dư Bồi.
“Nghi Hưng, Giang Tô.” Ngô Dư Bồi đáp.
Đường Cạnh cười, nói ngôn ngữ ở đây không giống trong thành, có lẽ họ phải tìm phiên dịch, giống như Tạ Lực vậy, tìm một thủy thủ bản địa quanh năm chạy tàu biết nói tiếng phổ thông mới không đến nỗi nghe không hiểu.
“Em nghe hiểu này,” Châu Tử Hề lại bảo, “Khi còn bé ở Thượng Hải, trong nhà có rất nhiều tôi tớ người Phố Đông, chị gái chuyên chăm sóc cho em chính là người xã Thập Bát Gian này đấy, học thuộc thơ Đường với em đều dùng tiếng Phố Đông. Lúc đó em rất hay nhại lại giọng chị ấy trêu chọc, không ngờ về sau mình cũng nhiễm khẩu âm đó không đổi được. Gia sư tức muốn chết, phạt bọn em đứng góc tường.”
Đường Cạnh bật cười, không ngờ dẫn nàng tới lại thành vô tình cắm liễu như vậy. Anh không nhịn được giễu cợt cô bạn tiếng Anh được D này: “Thế em còn biết viết chữ Tàu không?”
“Các anh cứ hỏi của các anh đi, em đảm bảo sẽ ghi lại toàn bộ, rồi anh xem xem em có biết viết chữ Tàu không.” Châu Tử Hề cũng không phục.
Đường Cạnh còn muốn khích nàng nữa nhưng Ngô Dư Bồi bên cạnh đã gật đầu nói: “Cũng được.” Ngay sau đó lấy từ trong cặp ra một cuốn sổ ghi, đưa cho Châu Tử Hề.
Đường Cạnh ngậm miệng, bụng bảo dạ tên này thật đúng là đi đâu cũng phải chống đối anh mới chịu.
Châu Tử Hề liếc Đường Cạnh, đắc ý nhận lấy, giở đến một trang thì thấy có kẻ bảng, ô để trống ô kín mít chữ. Nàng vốn tưởng chỉ cần ghi tên nhân chứng và lời họ nói là được, giờ xem lại nhất thời ngớ ra.
“Đây là…?” Nàng hỏi mà mù mờ, chẳng biết bắt đầu từ đâu.
Ngô Dư Bồi bèn rút một cây bút máy ra chỉ bảo, giải thích cặn kẽ cho nàng nghe: “Mỗi nhân chứng một cột, hàng ngang là thời gian. Ghi như thế, so dọc xuống là có thể xâu chuỗi sự kiện từ đầu đến cuối, so ngang…”
“Là có thể nhìn ra chỗ sai lệch trong lời kể của các nhân chứng khác nhau vào cùng thời gian đó.”
Ngô Dư Bồi gật đầu, bỗng cảm thấy cô bé này rất thông minh, vừa chỉ đã hiểu.
“Biện pháp này hay thật đó.” Châu Tử Hề cũng hết sức sùng bái nhìn luật sư Ngô.
Đường Cạnh bàng quan thì lại cười khẩy, ai học luật mà chẳng rút ra được phương pháp ghi chép cho riêng mình. Ngô Dư Bồi chỉ tình cờ khoe ra được với tờ giấy trắng Châu Tử Hề này thôi.
Nhưng nghĩ lại cũng hơi chột dạ, sau khi tốt nghiệp đến giờ anh đã chẳng còn làm cái việc đan xen đối chiếu lời chứng thế này nữa, trái lại vô cùng quen thuộc với sự vụ trên thị trường chứng khoán, miễn là mua vào bán ra, sản nghiệp khổng lồ trong tay anh cũng có thể xé chẵn thành lẻ, xoay chuyển càn khôn.
Anh nhớ tới câu Châu Tử Hề nói: Cùng là luật sư mà xem ra Ngô tiên sinh ra dáng hơn anh nhiều.
Thoạt nghe, thấy không phục. Nghĩ lại, cũng có lí.
Giữa lúc nói chuyện, Tạ Lực đã lục tục dẫn người vào, trong đó có tiểu thương như Tôn Quế, cũng có côn đồ trong chợ, còn có cu li khiêng hành lí ở bến tàu, thậm chí là quản kho người Anh, cùng với ông chủ ngày nay mở quán rượu này khi xưa từng bán buôn ven sông.
Đường Cạnh kéo Tạ Lực tới một góc vắng, nhỏ giọng hỏi: “Trong đó có môn đồ Thanh Bang không?”
“Có.” Tạ Lực đáp.
“Anh có cảm thấy là có người bảo họ im miệng không?” Anh hỏi tiếp.
Tạ Lực lắc đầu.
Đường Cạnh cũng kinh ngạc, hiện tại các tờ báo lớn đều đang triệu tập nhân chứng, song từ đầu đến cuối vẫn không có một ai giống nhân chứng đứng ra nói chuyện. Sở dĩ Ngô Dư Bồi tìm anh hỗ trợ cũng là bởi cảm thấy có lẽ bên trong có bang phái cản trở, nhưng bây giờ xem xét lại thấy không giống.
Ngô Dư Bồi và Polly thay nhau đặt câu hỏi, Đường Cạnh chỉ uống trà quan sát ở một bên, thấy hai người này một xem từ góc độ kí giả, một nghĩ từ góc độ luật sư, hai bên đối chiếu cho nhau cũng vô cùng thú vị.
Lại nhìn Châu Tử Hề, đang bò ra bàn múa bút thành văn, đúng là biết viết chữ Tàu thật, chỉ là nửa văn viết nửa văn thoại, thỉnh thoảng còn chèn bừa tiếng Anh vào. Đọc kĩ xuống thì phát hiện ra nàng bỏ sót mấy chỗ, anh không lên tiếng, chỉ đưa tay trỏ.
Châu Tử Hề lập tức đầu đầy mồ hôi, tưởng là mình làm hỏng rồi. Đường Cạnh nhìn mà cười nhạt, chỉ vào mấy chỗ đấy, ghé vào tai nàng nhẹ giọng nhắc, ngay cả phương ngôn không hiểu lắm cũng bắt chước thuật lại.
Châu Tử Hề cười một tiếng cảm kích, vội ghi vào, quả thật cũng phải nhìn lại anh với cặp mắt khác xưa.
Đường Cạnh không lắm lời, bụng nói, chẳng có gì cả, chỉ là trí nhớ tốt thôi.
Hỏi xong tất cả nhân chứng thì đã là đầu giờ chiều, phải đến khi bụng Tạ Lực kêu rột rột to tới độ bàn bên cạnh cũng có thể nghe thấy, bấy giờ bốn người còn lại mới nhận ra mình cũng đã đói ngấu.
Họ bèn gọi vài món điểm tâm, lại chạy sang một quán mì cùng phố mua mì vịt kho về làm bữa trưa. Tuy bát đũa thô sơ nhưng lại ăn như gió cuốn mây tan.
Đường Cạnh rất thích xem Polly dùng đũa, nếu không phải tóc vàng mắt xanh thì thực sự không thể tin nổi cô là người nước ngoài. Polly nói cô được một bậc thầy quốc học chỉ bảo, cô luyện mất hồi lâu mới được. Đường Cạnh lại cứ phải phê bình tư thế cô không đúng mới chịu, bảo là ngón giữa phải làm trục xoay giữa hai chiếc đũa thì mới phát huy được tốt nhất hiệu quả. Polly thử mấy lần theo lời anh, mãi vẫn chưa nắm được trọng điểm. Anh thở dài, tay nắm tay uốn nắn, rất là thừa dịp chấm mút người ta. Bên này ngón tay hai người còn đang quấn nhau, bên kia Châu Tử Hề đã khinh bỉ ra mặt. Đường Cạnh chỉ làm như không thấy, lờ tịt đi.
Mà Ngô Dư Bồi thì thoát tục siêu phàm, đang ăn mà vẫn còn lật sổ Châu Tử Hề ghi, xem lại một lượt những gì mọi người kể ban nãy, càng xem càng nhíu mày.
Kỳ thực Đường Cạnh đã đoán được anh ta nghĩ gì, lời những người này nói có chỗ chứng thực cho nhau nhưng cũng có chỗ mâu thuẫn lẫn nhau, nếu cầm lên tòa án thì có khả năng sẽ bị chỉ trích là quá nhiều sơ hở.
Anh nhìn Ngô Dư Bồi trái lo phải nghĩ, chỉ cảm thấy lề mề phát mệt, giật phắt cuốn sổ lại, lấy bút gạch chữ viết trên đó đi.
“Ớ! Anh làm gì đấy?!” Châu Tử Hề thấy anh gạch cả bầu tâm huyết của mình đi thì không khỏi hô lên.
Nhưng Đường Cạnh chẳng buồn nhìn nàng, tiếp tục cầm bút gạch, vừa gạch vừa giải thích: “Vụ việc này đã ngâm quá lâu, lời chứng của mỗi một người đều có thể có một phần chứng kiến tận mắt, một phần tin đồn, cũng có phần là phỏng đoán…”
Châu Tử Hề vẫn đang nguýt, hãy còn đau lòng đống chữ mình viết kia.
Polly thì đã hiểu ý, gật đầu nói: “Đến hôm nay, kể lại câu chuyện này đã là một hành vi quần thể.”
Đường Cạnh nghe vậy rất ư hài lòng, đây mới là cô gái mình ưng chứ.
Lại chẳng ngờ Ngô Dư Bồi bên cạnh cũng tỉnh ngộ theo: “Thế nên, chúng ta chỉ có thể giữ lại phần đã được xác thực là tận mắt chứng kiến…” Nói rồi xáp lại gạch theo anh.
Sự tâm linh tương thông này lại khiến Đường Cạnh cảm thấy quái quái, vội ném sổ lên bàn, dịch sang một bên nhường, nói thầm, Ai là “chúng ta” với anh?
Đã có Ngô Dư Bồi lo việc viết lách, Đường Cạnh yên tâm ăn mì. Đợi anh ăn hết bát mì, Ngô Dư Bồi cũng đã chỉnh lí xong xuôi lời chứng.
Không phải người ở chợ xanh không muốn đứng ra làm chứng mà ngược lại, nhân chứng rất đông nhưng đều chỉ thấy một thời khắc nào đó của ngày vụ án xảy ra ấy.
Hai giờ chiều, tiểu thương đồng nghiệp A trông thấy Tôn Quế lên Haru Maru bán quà vặt. Tôn Quế nói với A là thủy thủ Toma trên Haru Maru nợ tiền mua đồ, hôm nay định đi đòi lại.
Hai giờ rưỡi, cu li bến tàu B làm việc xong, thấy Tôn Quế trên boong tàu cãi cọ cùng một thủy thủ Nhật (tuổi ngoài ba mươi, để râu, nghi là Toma liên quan đến vụ án). Sau đó thủy thủ dẫn Tôn Quế vào khoang tàu, lúc ấy có mấy người nghe tiếng xúm vào, ngó về phía cửa sổ mạn tàu thì lại bị một thủy thủ khác trên tàu (hai mươi mấy tuổi, nghi là Kido cũng liên quan đến vụ án) xua đi.
Khoảng ba giờ, một cu li C khác trông thấy hai thủy thủ Nhật (nghi là Toma và Kido) kéo Tôn Quế từ trong khoang tàu ra, trên đầu trùm bao tải, tứ chi bị trói, đẩy tới buồng đốt tầng dưới. C biết buồng đốt rất nóng, sợ Tôn Quế gặp nạn, quýnh lên xuống tàu đến chợ xanh báo cho ông chủ D của quán rượu. D biết sơ tiếng Anh, lập tức đến ban quản lí kho hàng nhờ vả cai bến (quản lí kho hàng người Anh) lên tàu hỏi thăm.
Khoảng bốn giờ, cai bến lên tàu hỏi thăm, nhận được câu trả lời bên tàu rằng chỉ là tranh chấp vặt, đã thả Tôn Quế đi, đồng thời mở buồng đốt ra cho kiểm tra. D thấy trong đó quả thật chỉ có than đá thì mới cùng quản lí kho rời đi.
Khoảng sáu giờ, mặt trời lặn, ba người A B C lần lượt đến chợ, phần chứng kiến của mỗi người truyền đi trao đổi khắp nơi thông qua miệng người qua đường.
Bảy giờ, A về nhà, trên đường gặp vợ Tôn Quế, biết được Tôn Quế chưa về nhà, liên tưởng đến tin đồn trong chợ, bèn đến chốt tuần bờ bến tàu báo cáo. Tuần bờ đáp: Liên quan đến tàu thủy, không dám tự tiện hành động, cần đợi tuần trưởng chủ trì.
Sáu giờ sáng hôm sau, mọi người quay lại bến tàu làm việc, nghe đêm qua phòng tuần bộ ven sông phái người lên tàu, thủy thủ Nhật kể là Tôn Quế ăn trộm tự gây thương tích mà chết, vân vân.
Đến đây, kể từ lúc Tôn Quế lên thuyền đến lúc tiểu thương A báo án với tuần bờ, quá trình ở giữa đã rõ ràng. Nguyên nhân xảy ra tranh chấp cũng có thể suy đoán đại khái, nhưng rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra trong buồng đốt thì vẫn chưa ai biết. Hơn nữa, sự việc báo án vị tuần bờ kia nhận được rõ ràng là tàu thủy giam cầm hiếp đáp đồng bào, nhưng báo lên tuần trưởng thì lại thành cất giấu vũ khí nóng, giữa chừng đã phát sinh cái gì?
Nhất thời, mấu chốt giải đáp nghi vấn lại quay về Nghiêm Ngũ.