Lần đầu tiên Đường Cạnh gặp Châu Tử Hề là ở bến tàu viễn dương.
Khi ấy anh hai mươi sáu tuổi, tốt nghiệp đại học Yale chuyên ngành luật pháp và chính trị, nhận chứng chỉ luật sư do bộ tư pháp Trung Hoa Dân Quốc ban hành vừa tròn một năm. Còn nàng thì mười bảy tuổi lẻ hai tháng, đi tàu từ Mĩ về chịu tang anh trai Châu Tử Huân.
Đường Cạnh nhớ hôm ấy trời rất nóng, còn chưa tới chín giờ mà nắng đã gắt gỏng chiếu mui xe Austin của anh bỏng rẫy. Anh ngồi trong xe, âu phục vải lanh mặc mà bức bối, cởi khuy cổ áo sơ mi ra, quay cửa kính xe xuống, dõi mắt ra xa ngó tàu khách cập bờ, thủy thủ Nam Á da đen nhẻm qua lại như con thoi bên sườn tàu, từ từ hạ cầu thang mạn xuống.
Boong tàu đông đúc hành khách đứng đợi xuống tàu, Châu Tử Hề cũng ở trong đó, đi theo nàng là một cặp nam nữ, người phụ nữ ăn bận như vú em, người đàn ông thì Đường Cạnh biết, đệ tử của An Lương Tổng Đường1 ở New York, tên là Tạ Lực. Nơi Đường Cạnh đặt chân đến đầu tiên khi đi du học ngoại quốc năm xưa chính là New York. Khi ấy, anh còn chưa tròn hai mươi tuổi, được Tạ Lực dẫn ra ngoài uống rượu đánh lộn, chuyện hoang đường nào cũng làm.
1 An Lương Đường được thành lập vào tháng 11 năm 1893 ở New York, là một tổ chức của cộng đồng Hoa kiều ở Mĩ, bảo vệ và chi phối thương nghiệp ở các khu phố người Hoa.
Chính nhờ manh mối ấy mà Đường Cạnh trông thấy Châu Tử Hề, nàng mặc một bộ váy vải vạt chéo màu trắng, đầu đội mũ cói chóp bằng, mái tóc đen tết bím lỏng, rủ xuống một bên vai. Nhìn từ bờ sang, mặt mày nàng giấu trong bóng râm vành mũ, thấp thoáng không rõ. Anh chỉ thấy hình ảnh nàng hiện ra với chỗ trắng cực trắng mà chỗ đen thì cực đen, cho người ta một ấn tượng gần như trong suốt, tưởng chừng chớp mắt là sẽ biến mất không nhìn thấy nữa, khiến đôi mắt anh phải khóa chặt lấy không buông.
Đường Cạnh bèn mở cửa xuống xe, đi về phía cửa ra dành cho hành khách khoang hạng nhất.
“Luật sư Đường!” Tạ Lực cũng trông thấy anh, giơ tay gọi một tiếng, vẫn là khẩu âm đặc sệt giọng Quảng, cách gọi thì có thay đổi. Mấy năm trước, Tạ Lực còn khinh miệt gọi anh là thằng nít ranh còi ốm. Đây hẳn là sức mạnh của trí thức mà một văn nhân nào đó từng nói.
Nghĩ đến đây, Đường Cạnh cười tự giễu, lại thấy ánh mắt Châu Tử Hề sau lưng Tạ Lực cũng đang đậu lên mình. Một đường đi dọc theo cầu thang mạn tàu lại, nàng nhìn xuống anh từ trên cao như thần tiên giáng trần săm soi bụi bặm dưới chân. Cho đến khi hai người rốt cuộc cũng mặt đối mặt, Đường Cạnh mới nhớ ra nàng chẳng qua chỉ là một cô nhóc, vốn nên là anh cúi đầu xuống nhìn nàng mới phải.
“Anh là người giám hộ của em ạ?” Nàng hỏi anh, trong mắt chập chờn nét cười.
Đường Cạnh gật đầu, nhưng trong lòng lại không vui khó hiểu, đây không phải tình cảnh mà anh dự liệu. Tàu thủy chờ cập bến ngoài Ngô Tùng Khẩu, muộn mất một ngày mới vào cảng, thực ra anh đã đợi nàng hai ngày. Trong hai ngày này, anh vẫn tưởng rằng sẽ gặp được một nữ sinh ngờ nghệch, trán li ti mụn trứng cá, khi đứng trước mặt anh, hai mũi chân sẽ chụm vào với nhau, nhút nhát cúi đầu, chẳng dám nhìn anh lấy một cái. Những chi tiết khác khỏi phải lắm lời, nói chung là chắc chắn không phải như bây giờ.
“Châu tiểu thư…” Cách đám đông, có người gọi Châu Tử Hề.
Châu Tử Hề chẳng cần quay đầu cũng biết đó là Hà Thế Hàng quen được trên tàu. Trôi nổi trên biển hai tháng, nàng đã có một cuộc tình trao thư với người nhận chính là anh chàng Hà Thế Hàng này.
“Em có thể nói mấy câu với bạn không ạ?” Nàng hỏi Đường Cạnh, ngữ điệu cung kính song giọng nói lại mang vẻ khôi hài như thể nể mặt anh lắm mới hỏi câu này. Nếu anh muốn ra oai, cáu kỉnh không đồng ý, nàng cũng chẳng hề gì.
“Đi đi.” Đường Cạnh lại gật đầu, muốn xem xem nàng còn thế nào được nữa.
Hà Thế Hàng tưởng Đường Cạnh chỉ là người làm nhà họ Châu, lịch sự cười chào hỏi rồi kéo Châu Tử Hề sang một bên, vội vàng nói với nàng: “Em phải nhớ cho kĩ đấy, là trường nữ sinh Hoằng Đạo.”
Châu Tử Hề đã nghe đi nghe lại câu này rất nhiều lần, khi hai người trao đổi thư từ trên tàu, ngay từ đầu nàng đã thành thật nói với anh ta mình đã có hôn ước, chỉ là chưa gặp vị hôn phu bao giờ. Hà Thế Hàng nghe xong bèn khích lệ nàng tự do yêu đương, tranh thủ cơ hội tiếp tục đi học, chẳng hạn như vào trường nữ sinh tên Hoằng Đạo này. Nàng cảm ơn anh ta, trong lòng hiểu rõ cũng chẳng phải ngôi trường này tốt đẹp thế nào mà chỉ bởi vì em gái anh ta học ở đây, đến lúc đó có thể chuyển thư cho anh ta.
Khi ấy, nàng chẳng tỏ thái độ gì, bây giờ cũng vậy, hơi cúi đầu, như ưng thuận lại cũng giống chỉ đang thẹn thùng, không đợi đối phương phân biệt rõ rốt cuộc là loại nào thì đã xoay người quay trở về chỗ Đường Cạnh.
Hà Thế Hàng làm người có mấy phần thanh cao, chưa từng đề cập đến gia thế của mình với nàng, nhưng xem lối sống xa hoa của anh ta, trên tàu ở khoang hạng nhất, sớm tối đều đút tiền cho phục vụ người Tây truyền thư thay họ, ắt cũng chẳng quá tệ. Còn có chỗ nào hữu dụng với nàng hay không thì chưa biết. Ai cũng nói con cái thế gia là vô dụng nhất, nhưng cái dạng để tình yêu mê muội đầu óc thì chưa chắc.
Châu Tử Hề vừa đi vừa suy nghĩ, ánh mắt lại chạm vào Đường Cạnh. So với Hà Thế Hàng, người đàn ông trước mắt lại khiến nàng đoán không thấu. Trước khi gặp anh ta, nàng vẫn cho rằng người giám hộ của mình sẽ là một ông già giảo hoạt, đầu hói, trên sống mũi bắc một cặp kính mắt tròn. Ấy vậy nhưng người đứng trước mặt giờ phút này lại sừng sững cao lớn, hai cánh tay cường tráng, nom giống côn đồ, còn tiếc chữ như vàng, trầm lặng như một kẻ kiếm cơm bằng nghề mở miệng cất tiếng.
Anh ta sẽ đối xử với nàng thế nào? Trong lòng có chút xíu thương hại nào không? Nàng hoàn toàn không đoán được mảy may.
Cơ mà, chuyện này cũng nằm trong dự liệu, cò mồi thuộc hạ của thủ lĩnh bang phái mà có thể để một cô bé như nàng nhìn thấu thì chắc hẳn đã sớm chết mấy lần rồi, còn đâu ra mạng mà đứng trước mặt nàng?
Cùng lúc đó, Đường Cạnh cũng đang nhìn nàng, tự dưng nhớ lại thời mình đi du học, luôn lấy việc có bạn gái ngoại quốc làm vinh, cảm thấy bất kể là về dung mạo hay phong tình họ cũng hơn con gái gốc Hoa một bậc. Mãi đến giờ phút này gặp Châu Tử Hề, mỗi một người đàn bà Hoa Kì ăn mặc thời thượng chung quanh đều như con búp bê xoàng xĩnh sực nức mùi nhựa, son phấn trên mặt chỉ chực nhòe nhoẹt, dưới nách ướt đầm mồ hôi. Mà nàng thì như món đồ sứ nung kĩ trong lò ngự, đứng dưới nắng gắt vẫn mơ hồ mát lạnh.
Tạ Lực làm cửu vạn, khuân mấy kiện hành lí xuống. Đường Cạnh cũng từng đi tàu thủy vượt biển, từng chứng kiến cảnh phô trương của đám quý bà quý cô. So ra, đồ đạc của Châu Tử Hề quả thực chẳng đáng lấy làm kinh ngạc, tổng cộng chỉ vỏn vẹn vài cái vali da và rương hòm, có lẽ là do còn nhỏ tuổi, cũng có lẽ là bị anh trai bạc đãi, không chắc được.
Xếp hành lí xong xuôi, bốn người rời khỏi bến tàu, xe về dinh họ Châu vẫn do Đường Cạnh lái. Đó là một căn biệt thự ba tầng trên đường Columbia khu vực phía tây tô giới, tòa nhà được xây dựng rất chỉn chu, vườn hoa cũng bề thế, nhìn từ ngoài đường vào chỉ trông thấy bãi cỏ, rừng cây và dãy nhà hông dành cho đầy tớ ở, nhà chính thì làm sao cũng không soi ra.
Chiếc Austin chạy thẳng vào trong theo con đường đá vụn xám trắng, vòng qua bể phun nước, đỗ lại ở cửa. Nhóm người xuống xe, hòm xiểng để lại cho người hầu thu dọn, Đường Cạnh dẫn Châu Tử Hề đi viếng Châu Tử Huân trước.
Linh đường dựng ở sảnh hông, một chiếc bàn dài bằng gỗ lim kê sát tường, bên trên bày bài vị và đèn nhang, chẳng ăn nhập gì với nội thất trang hoàng kiểu Âu chung quanh, thoạt nhìn như thời không hỗn loạn. Thực ra, hiện giờ làm vậy đã xem như trung hòa. Châu thị vốn là thế gia vọng tộc, nhà tổ dưới quê còn cả một tông tộc đồ sộ như thế, nếu theo quy định trong tộc thì quan tài gỗ lim phải quàn trong nhà ba năm mới được nhập thổ. Nhưng đây là giữa Thượng Hải, còn là tô giới, mùa hè năm nay nóng nực ngốt người, không thể bảo tồn được thi thể, chẳng kịp đợi người thân duy nhất trở về đã gấp gáp hồi hương an táng. Lúc này chỉ còn lại một bức di ảnh treo trên mặt tường phía sau bài vị.
Đường Cạnh đảm nhiệm chức vụ cố vấn pháp luật cho nhà họ Châu đã sắp tròn một năm, trong kí ức, Châu Tử Huân luôn mang vẻ tiều tụy, dẫu là người lạ cũng nhìn cái biết ngay đây là một con nghiện. Ảnh này do tộc trưởng trong Châu thị chọn, chụp vào khoảng năm, sáu năm trước, Châu Tử Huân khi ấy khí phách đường đường, gương mặt rất trẻ, mắt mày có mấy phần na ná Châu Tử Hề, nhưng ấn tượng để lại cho người ta thì không giống nhau.
Đường Cạnh là người biết nội tình, Châu Tử Huân có thể nói là tự tìm đường chết, còn cô bé trước mặt thì không giống hạng ngu dốt, chỉ cần xem biểu cảm sao cũng được trên mặt nàng thôi là biết, nếu đổi vị trí cho anh trai, nàng sẽ vẫn sống rất tốt.
Cũng chẳng biết xuất phát từ đâu mà khi nhìn bóng lưng Châu Tử Hề, anh lại nảy ra suy nghĩ như vậy một cách khó hiểu, có lẽ là vì nàng không khóc, đến giả vờ nức nở cũng chẳng buồn làm, chỉ đan hai bàn tay vào nhau nắm lại, cụp mắt đứng trước bài vị một lúc lâu.
“Xin hãy nén bi thương.” Anh nói với nàng, cũng chỉ là một câu thuận miệng theo lệ.
Quả nhiên, nghe tiếng, nàng quay đầu, trên mặt nở một nụ cười nhợt nhạt, nhìn anh phản vấn: “Bi thương gì cơ? Hồi cha qua đời, em mới mười tuổi đã bị anh ấy gửi vào trường nội trú. Bảy tám năm liền chẳng gặp được một lần, với anh ấy cùng lắm chỉ là người xa lạ mà thôi.” Nói đoạn xoay người ra ngoài, rảo bước đi thẳng lên cầu thang xoắn ốc, vừa đi vừa phân phó người hầu chuẩn bị nước, mở vali, phục vụ mình rửa ráy tắm giặt.
Đường Cạnh nhìn nàng, không khỏi nghĩ bụng, mới tí tuổi đầu mà giỏi làm bộ làm tịch ghê.
Thấy Châu Tử Hề đi rồi, Tạ Lực hoạt bát hơn hẳn, ở trên tàu hắn đã bứt rứt hơn tháng trời, nay lên bờ, “hàng hóa” vận chuyển đến cảng rời tay, tâm trạng đã khoan khoái bay xa, muốn Đường Cạnh làm chủ khoản đãi mình thật hậu.
“Làm việc chính trước đã.” Đường Cạnh chỉ ném cho hắn một câu như vậy rồi vào thẳng thư phòng như đang ở nhà mình, gọi điện thoại đến ngõ Cẩm Phong.
Người nghe máy là thư kí Kiều Sĩ Kinh. Mới mấy tháng trước, chủ quản của ngõ Cẩm Phong Trương Lâm Hải vừa được nhận chức thiếu tướng tham nghị suông của chính phủ Quốc dân, xuất thân vẫn là xuất thân đó, đi buôn vẫn buôn những thứ đó, người vẫn là đời chữ “Thông” thuộc Thanh Bang1 đó, nhưng biểu hiện ngoài mặt thì đã sớm khác hẳn lúc trước, đến tay thư kí này cũng là đào góc tường của nhà quan rước về, làm việc ngăn nắp lề lối, đám trợ tá chỉ xứng so với phường đầu đường xó chợ biết lõm bõm vài chữ còn khuya mới sánh bằng.
1 Thanh Bang là một bang hội giang hồ có thế lực lớn ở Bến Thượng Hải vào những năm cuối Thanh – đầu Dân quốc, tương truyền có lịch sử lâu đời hơn 300 năm kể từ thời Ung Chính, chia ra làm 24 thế hệ, mỗi thế hệ lấy một chữ trong “Thanh tĩnh đạo đức văn thành phật pháp năng nhân trí tuệ bản lai tự tính nguyên minh hưng lý đại thông ngộ học” làm hiệu.
“Luật sư Đường.” Kiều Sĩ Kinh gọi, biết Đường Cạnh rất được coi trọng nên trước nay đều rất khách khí.
“Đã đón được Châu tiểu thư về, hiện đang ở dinh nhà họ Châu,” Đường Cạnh cho hay, “Làm phiền Kiều tiên sinh hỏi ý Trương soái xem có cần gặp mặt không?”
Kiều Sĩ Kinh đặt ống nghe xuống đi xin chỉ thị, đợi chốc lát, đầu dây bên kia truyền tới tiếng người. Lần này là đích thân Trương Lâm Hải, hạ thấp giọng nói với Đường Cạnh: “Không cần dẫn tới đâu, cậu làm việc tôi rất yên tâm, người của Tư Đồ tiên sinh bên An Lương Đường thì phải chiêu đãi cho tử tế vào đấy.”
Đường Cạnh nhận lời, cũng đoán ra được ý ngầm, chỉ cần Châu Tử Hề còn sống, còn hít thở, lông tóc lành lặn, là đủ rồi.
Cúp máy, anh phái hai cậu đàn em trong bang nán lại dinh, bấy giờ mới dẫn Tạ Lực đi tắm gội uống trà, buổi chiều tới văn phòng của anh ngồi chơi một lúc.
Văn phòng nằm trong cao ốc Hardoon trên đường Nam Kinh, anh cộng tác mở cùng một người Mĩ họ Baldwin. Vốn cổ phần mỗi người một nửa, ngoài cửa lại chẳng hề treo tên Đường Cạnh. Không đề tên không phải là vì Baldwin đè đầu cưỡi cổ anh mà thực chất, là ý của chính Đường Cạnh. Chung quy, làm việc thay bang phái vẫn nên im hơi lặng tiếng thì hơn.
Hai người cộng tác gặp nhau lần đầu là ở sòng bạc Phúc Hề thuộc ngõ Cẩm Phong. Luật sư Baldwin đến từ Mĩ mới tới Thượng Hải thích chơi poker, trong một đêm đã thua hết năm ngàn đồng bạc trên bàn bài, suýt nữa mông trần lên chuyến tàu gần nhất về nước, hơn nữa chỉ có thể đi vé hạng bét nằm giường ghép kho đáy mà về. May mà gặp được Đường Cạnh, ra mặt xóa nợ bài bạc thay gã, hoàn toàn không nhắc nhỏm gì đến chuyện thiếu nợ, chỉ nói cùng là đồng nghiệp, kiếm tiền chẳng dễ. Baldwin đương nhiên cảm động rơi nước mắt, hai người trò chuyện hợp nhau, rất nhanh đã thỏa thuận xong chuyện hùn vốn.
Đường Cạnh đã quen mặt với người đất này, vừa đạt thành thỏa thuận đã chớp mắt lo liệu đâu ra đấy, thuê phòng làm việc rồi thuê phụ tá, thư kí và nhân viên giao dịch, đăng quảng cáo lên báo chí tiếng Trung tiếng Tây, bảo là văn phòng chúng tôi nhận ủy nhiệm của cả Tây lẫn Tàu, thay mặt tiến hành tố tụng dân sự hình sự, kháng cáo hành chính và các sự vụ tư pháp phi kiện tụng khác, tóm lại, chỉ có việc không nghĩ ra chứ không có việc không làm được.
Về sau, bình tĩnh suy nghĩ lại, Baldwin cũng từng hoài nghi chuyện đêm đó, rốt cuộc là thực sự quá đen hay là do nhà cái tác quái? Sự xuất hiện của Đường Cạnh hình như cũng quá đúng lúc. Nhưng dù sao, văn phòng này cũng đã mở rồi. Đường Cạnh nhìn trúng thân phận người Mĩ của Baldwin mà luật sư Baldwin thì nhìn trúng thế lực và tiền tài đằng sau Đường Cạnh. Hai bên đều lấy được cái mình muốn, song kiếm hợp bích, hành nghề luật sư ở Bến Thượng Hải quả thật rất trôi chảy.
Đường Cạnh vừa đến văn phòng, một phụ tá đã đưa công văn viết sẵn cho anh xem qua và kí tên. Lần này Tạ Lực rất biết điều, lẳng lặng đợi một bên, chờ anh xong việc mới cảm khái.
“Có nhớ cái bữa say rượu đó không? Cậu nói tương lai muốn mở một văn phòng ở Thượng Hải, bàn làm việc gỗ anh đào, ghế giám đốc da bò, âu phục giày da, có xe đưa đón. Lúc đó tôi còn cười cậu, không ngờ cậu lại nói được làm được thật.”
Đường Cạnh cười khẽ, anh đã sớm chẳng nhớ bữa đó là bữa nào, nhưng lí tưởng này thì không quên. Nguyên thoại không chỉ có mấy câu Tạ Lực nhớ mà còn có bút máy bạch kim và đồng hồ quả quýt tráng men. Mẹ vẫn thường nhắc mãi những thứ lặt vặt này, lải nhải từ lúc anh bắt đầu có kí ức cho đến năm anh bảy tuổi. Có lẽ còn sớm hơn, từ hồi anh chưa nhớ được cái gì đã bắt đầu rồi.
“Biết không?” Tạ Lực nói tiếp, “Môn đồ trong tổng đường bây giờ phàm có con trai học được ít sách vở là đều lấy cậu ra làm tấm gương đấy.”
Đường Cạnh nghe lại càng buồn cười hơn, chưa từng ngờ rằng ở bờ bên kia đại dương, mình sẽ được tưởng nhớ như thế, ngẫm lại có hơi hoài niệm, thật ra đôi lúc anh cũng thấy lạ lùng, Bến Thượng Hải có luật sư người Hoa là chuyện chỉ mới mười mấy hai mươi năm, người như mẹ sao lại nghĩ được đến nghề này mà tâm tâm niệm niệm nhắc mãi bên tai anh vậy nhỉ, chẳng biết lấy gương từ ai nữa.
“Tư Đồ tiên sinh có khỏe không?” Trong lòng anh quanh co vài vòng, hỏi ra lại chỉ có câu này.
“Lại chẳng khỏe?” Tạ Lực đáp, “Ông lớn mở lời bảo là chỉ cần có đứa nào được sao Văn Khúc nhập mệnh như cậu là ông ấy sẽ đưa hết vào Yale, nuôi ăn nuôi học đến khi đội mũ vuông tiến sĩ, tương lai vào quốc hội tham nghị, để bọn Tây kia không dám xem thường chúng ta nữa.”
Đường Cạnh gật đầu, song không muốn tiếp tục đề tài này nữa. Anh có được ngày hôm nay là nhờ Trương Lâm Hải cung cấp học phí trong suốt quá trình, hơn nữa còn nhờ có Tư Đồ tiên sinh trợ giúp, nhưng suy cho cùng vẫn là nhờ một mạng của mẹ. Anh sẽ không bao giờ quên.
Chập tối cuối hè trời vẫn nóng bức, đợi màn đêm khoan thai buông xuống mới mát mẻ hơn chút.
Đường Cạnh dẫn Tạ Lực ra khỏi văn phòng, định tìm một chỗ ăn cơm. Hai người vào thang máy, đi xuống một tầng thì có người ở bên ngoài kéo cửa lưới sắt ra đi vào. Đó là một người đàn ông tuổi xấp xỉ Đường Cạnh, mặt mũi nhã nhặn, đeo một cặp kính, tay vắt tấm áo com-lê cũng bằng vải lanh.
“Luật sư Ngô.” Đường Cạnh cất tiếng chào.
“Luật sư Đường.” Người nọ đáp lời rồi xoay lưng lại quay mặt ra cửa, không nói thêm câu thứ hai.
Phỏng chừng Tạ Lực cũng cảm nhận được không khí không bình thường, bèn tìm lời hỏi Đường Cạnh: “Bây giờ đi đâu?”
“Ngõ Hội Nhạc.” Đường Cạnh trả lời, là quyết định đột xuất.
“Ngõ Hội Nhạc là chỗ nào?” Tạ Lực không rõ tình hình.
“Lầu xanh.” Đường Cạnh đáp, vô cùng thẳng thắn. Lời vừa ra khỏi miệng thì thấy bóng lưng vị luật sư họ Ngô trước mặt chợt banh thẳng, cũng chẳng biết có phải ảo giác không, chỉ là trong lòng thấy buồn cười.
Thang máy đến tầng một, ba người đi ra ngoài.
Đợi họ Ngô đi xa rồi, Tạ Lực mới hỏi Đường Cạnh: “Người mới rồi là ai thế?”
“Tên là Ngô Dư Bồi, cũng là một luật sư, mở văn phòng ngay tầng dưới.” Đường Cạnh trả lời.
Tạ Lực “ồ” một tiếng, chỉ cho là họ cùng nghề không vừa mắt nhau. Đường Cạnh cũng không giải thích thêm, thật ra trong lòng anh biết rõ, anh không thù không oán với Ngô Dư Bồi, chỉ là đó giờ không giao lưu. Anh cảm thấy Ngô Dư Bồi ngụy quân tử, mà Ngô Dư Bồi thì chắc là cảm thấy anh quá lưu manh, chỉ thế mà thôi.
Xe rời đi, trời đã tối hẳn.
Đường Nam Kinh thời bấy giờ lát gạch gỗ vấp Ấn Độ, hai công ty lớn Tiên Thi và Vĩnh An đứng sóng đôi một nam một bắc. Rẽ sang đường Tứ Mã, hai bên chỉ toàn là nhà xây kiểu thạch khố môn1 mới tân trang lại. Đi vào cổng tò vò đều là một sảnh hai chái, tầng dưới cùng xây nhà bếp, muốn bày mấy bàn rượu cũng được. Kể từ khi tô giới Pháp đặt lệnh cấm lầu xanh, kĩ viện trường tam2 bèn dời tới đây làm ăn, đèn cửa thắp sáng từng ngọn trong đêm tối, có tròn có vuông, cái lục lăng cái bát giác, bên trên viết đủ kiểu quảng cáo sến súa ướt át.
1 Một kiểu kiến trúc đặc trưng rất phổ biến ở Thượng Hải vào thế kỉ XIX – XX, kết hợp giữa đặc điểm truyền thống của Trung Quốc và văn hóa của phương Tây, với khung cửa bằng đá và cánh cửa bằng gỗ dày đặc ruột sơn đen.
2 Kĩ viện trường tam hay còn gọi là thư ngụ trường tam là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ viện cao cấp ở Thượng Hải vào đầu thế kỷ 20. Bản thân từ “trường tam” cũng được dùng để chỉ những kỹ nữ cao cấp, thường có địa vị và danh tiếng cao trong các kỹ viện. Họ không chỉ nổi bật về nhan sắc mà còn tinh thông nhiều kỹ năng nghệ thuật như ca hát, múa, chơi nhạc cụ và thơ ca, nhằm phục vụ tầng lớp thượng lưu và giới quý tộc.
Tạ Lực đã quen lăn lộn ở phố Hoa Kiều, đi một quãng đường dài tới đây, trông thấy một tòa thành đồ sộ như vậy, Tây Tàu kết hợp, xa hoa trụy lạc, cũng có phần bị chấn động.
“Ở đây gọi lầu xanh là thư ngụ, phụ nữ trong đó gọi là tiên sinh.” Hắn tới lần đầu nên Đường Cạnh khó tránh nhắc nhở một câu.
“Ồ, ý là ở đây bán nghệ không bán thân ấy à?” Tạ Lực chế giễu.
Đường Cạnh không đáp, chỉ cười khẽ. Sao có thể? Đừng nói là thân, bất kể cái gì đến đây cũng mua được, chỉ cần thuận mua vừa bán, dẫu là tính mạng cũng khả thi.
“Vậy trường tam nghĩa là gì?” Tạ Lực lại hỏi.
Trúng tủ Đường Cạnh rồi, anh giải thích kĩ càng: “Uống trà ba đồng, hầu rượu ba đồng, ngủ lại cũng ba đồng, thế nên gọi là trường tam.”
“Đồng bạc hả?” Tạ Lực chứng thực.
“Ừ.” Anh gật đầu.
Thế là đắt hay rẻ thì Tạ Lực mới đến không biết. Dù sao ba đồng cũng chỉ là cách nói thông thường mà thôi, ở đây mở một bữa nhậu nhẹt gái gú, chi phí có lên vài trăm vài ngàn đồng cũng chẳng lạ.
Trong lúc nói chuyện, Đường Cạnh đã gõ mở cổng nhà số bảy “Tuyết Phương”, đầy tớ mở cửa nhận ra anh, vội vã mời vào, hô vào trong một tiếng “Có khách”.
“Cậu tới đây thường xuyên lắm à?” Thấy anh quen cửa quen nẻo, Tạ Lực không nhịn được cười trêu, “Tôi nhớ hồi ở Mĩ cậu còn nói sẽ không dính vào mấy cái này mà.”
Đường Cạnh không giải thích, chỉ cười, cúi đầu tháo mũ phớt xuống, đưa cho người hầu, dẫn Tạ Lực men theo thềm đá đi vào. Mặt tiền không rộng nhưng bên trong là chốn động tiên khác. Hai người còn ở sân trước, má mì đã ra đón, sắp xếp cho họ vào ngồi trong một gian phòng nhỏ, chuẩn bị rượu thịt, lại dẫn hai cô ả tới, một người mặc màu đỏ một người mặc màu xanh cho Tạ Lực thích chọn ai thì chọn.
Đường Cạnh mặc kệ hết thảy, chỉ uống trà một bên. Thấy thế, Tạ Lực hơi bối rối, đang băn khoăn không biết chọn ai thì bên ngoài lại có người vào.
Người còn chưa tới giọng đã lọt tai: “Má mì, cô cũng đừng giấu giếm vậy chứ, còn không mau gọi Cẩm Linh ra đây. Hai cái đứa tàn hoa bại liễu này cô bảo Tiểu Đường người ta chọn sao cho đặng?”
Nghe giọng, Đường Cạnh đã biết là Chu Tư Niên. Ban nãy lúc đi vào, anh đã trông thấy con xe Rolls Royce màu sữa phô trương của Chu Tư Niên đỗ ven đường cái ngoài ngõ. Giờ đây ngước mắt lên nhìn, quả nhiên đúng là y, thân bận trường sam vải đay trắng, tay phe phẩy chiếc quạt xếp, bên cạnh là Mộc Tiên xưa nay bầu bạn, áo váy xa-tanh mỏng xanh lơ, hai cánh tay ngọc ngà giấu trong ống tay áo thùng thình, nom rất tiêu dao.
Chu Tư Niên là tiền bối trong nghề của Đường Cạnh, cắt đuôi sam đi học luật ở Yale từ lâu, còn sớm hơn lứa du học sinh Bồi thường Canh Tý1 đầu tiên mấy năm, xách cặp về nước rồi thì treo bảng hành nghề ở Thượng Hải, có một văn phòng mở trên đường Markham.
1 Năm 1900, liên quân tám nước xâm lược Trung Quốc, nhà Thanh bị buộc kí Hiệp ước Tân Sửu với tám nước, trong đó, điều khoản thứ sáu quy định nhà Thanh phải bồi thường chiến tranh cho “các nước bị hại”, được gọi tên là khoản Bồi thường Canh Tý. Khoản tiền này quá lớn, nhà Thanh không thể xoay sở được nên sau nhiều biến cố, đến năm 1904, nhà Thanh đã cấp tốc triển khai du thuyết, quốc hội Mĩ thông qua nghị định, trả lại một phần tiền bồi thường, xóa nợ cho Trung Quốc, thay vào đó yêu cầu Trung Quốc mở trường chuyên đào tạo du học sinh đi Mĩ. Những du học sinh này được gọi là du học sinh Bồi thường Canh Tý.
Khi ấy vẫn còn là giai đoạn đầu của thời kì Dân quốc, làn gió luật pháp và chính trị mới nổi, trừ du học sinh đi nước ngoài về như y ra thì phần lớn chỉ toàn tay mơ học cấp tốc, mà chứng chỉ luật sư của bộ tư pháp chính phủ Quốc dân thì như trò trẻ con, miễn từng học luật đều có thể lấy được, đến thi cũng khỏi cần. Nhất thời, quả như nhà văn Bao Thiên Tiếu miêu tả, luật sư khắp thiên hạ như cá diếc qua sông, như bầy ong vỡ tổ.
Trong đó, để chứng tỏ giá trị của bản thân khác biệt, những người đi du học về bèn học Hồng Kông phân biệt bằng hai cách gọi “luật sư sa” (Solicitor) và “luật sư ba” (Barrister), tự quảng cáo mình là “đại luật sư”, còn nghề chính là kiện tụng hay sự vụ thì không nhất định. Chu Tư Niên là người nổi trội nhất trong số này, là đại luật sư hàng thật giá thật có thể hầu tòa. Y học thức xuất sắc, có tài ăn nói, xem như là người đầu tiên ra tòa bào chữa bằng tiếng Anh ở Công đường Hội thẩm1 tô giới. Hơn nữa còn xuất thân danh môn, sau lưng có chỗ dựa là thương hội Tô Chiết, tư bản công nghiệp trên đất này cứ năm nhà thì đến hai nhà có quan hệ họ hàng hang hốc với y. Hành nghề hơn mười năm tới nay, giới luật sư ở Bến Thượng Hải có y là bề thế nhất, không ai không biết không ai không hay.
1 Năm 1868, căn cứ theo “Quy định Bổ quan Hội thẩm Kênh Dương Kinh”, quan lại Thượng Hải và các lãnh sự Anh Mĩ đã thiết lập Công đường Hội thẩm ở tô giới Anh Mĩ (tiếng Anh là Mixed Court), quan tòa và nhân viên làm việc ở đây bao gồm cả người Hoa lẫn người Tây, chuyên giải quyết kiện cáo và vấn đề tư pháp cho người Tây và người Hoa ở tô giới; về sau khi tô giới dần mở rộng, Công đường Hội thẩm Anh Mĩ trở thành Công đường Hội thẩm chung của cả tô giới, quyền trọng tài thực tế nằm trong tay ban lãnh đạo hội thẩm, không được kháng án.
Người ngoài biết sau lưng Đường Cạnh là ngõ Cẩm Phong thì hoặc nịnh nọt hoặc khinh bỉ, nhiều hơn cả là xa lánh. Đại diện tiêu biểu nhất cho sự kính mà không thân này chính là tay Ngô Dư Bồi mở văn phòng cùng cao ốc Hardoon kia. Duy chỉ có Chu Tư Niên là không giống những người khác, chắc vì đều tốt nghiệp từ Yale ra, Chu Tư Niên lại trên Đường Cạnh mười bảy, mười tám khóa nên ngay từ lúc mới quen đã coi anh là tiểu sư đệ đồng môn, không chỉ có thái độ thân thiết mà còn luôn miệng đòi dẫn anh đi rượu chè bài bạc gái gú, dạy anh làm người.
Quay trở lại hiện tại, thấy Chu Tư Niên phá đám, má mì cười mắng: “Luật sư Chu đừng giả vờ khách khí nữa, đều là người thăm hỏi thường xuyên, ai mà chẳng biết luật sư Đường đó giờ không rờ vào đàn bà ngõ Hội Nhạc? Người ta có bạn gái là kí giả ngoại quốc, đời nào lọt mắt loại hàng họ bản địa chúng tôi?”
Chu Tư Niên nghe vậy cũng cười: “Phải, các cô cứ kệ nó đi, nó trẻ người non dạ, tôi thật muốn xem xem nó định làm bộ làm tịch đến khi nào.”
Đường Cạnh vẫn luôn bó tay trước Chu Tư Niên, cũng chỉ có thể đứng lên chắp tay cười giễu: “Luật sư Chu sành sỏi nhất ạ.”
Chu Tư Niên vui vẻ nhận câu này, phất trường sam ngồi xuống ôn lại chuyện năm xưa: “Hồi tôi ở Yale cũng chỉ biết hẹn hò với gái Tây, tên tiếng Anh của bốn đứa con gái bây giờ cũng đặt từ khi đó, nào Mary Jane, nào Josephine, nào Sue nào Bethany, mãi đến sau này…” Y bấm đầu ngón tay liệt kê từng cái, song nói đến một nửa lại thoáng dừng.
“Sau này thì sao ạ?” Mộc Tiên bên cạnh xáp lại.
Chu Tư Niên cắn tai Mộc Tiên, Mộc Tiên che miệng cười duyên, chỉ đợi Đường Cạnh không nhịn được truy hỏi.
Đáng tiếc, không khéo làm sao, gã sai vặt bên ngoài đi vào, ghé tai Đường Cạnh báo: “Có điện thoại của dinh họ Châu.”
Đường Cạnh không biết là chuyện gì, đứng dậy đi theo gã sai vặt ra ngoài nghe điện thoại.
Cầm ống nghe lên mới biết là đàn em Triệu Đắc Thắng anh để lại ở dinh họ Châu gọi tới báo tin, nghe thấy giọng anh, vừa mở miệng đã là: “Người biến mất rồi!”
“Đã xảy ra chuyện gì?” Đường Cạnh nhíu mày.
Triệu Đắc Thắng bên kia hấp tấp đáp: “Ban nãy nói là muốn đi tắm, cởi cả quần áo ra rồi, còn là trên tầng ba, tưởng rằng sẽ không sao, kết quả vừa không để ý đã nhảy cửa sổ chạy mất.”
“Thấy tận mắt là nhảy cửa sổ xuống hả?” Đường Cạnh nhớ lại thần sắc trên mặt cô bé kia, nghĩ hẳn là một kẻ liều lĩnh nhưng không tin có thể liều đến mức trần truồng nhảy xuống lầu. Người hầu trong dinh đều là mới thuê, sẽ không ai mạo hiểm trợ giúp nàng.
“Không phải, cửa sổ mở, người không thấy.” Triệu Đắc Thắng đáp xong lại hỏi, “Làm thế nào bây giờ? Có cần báo cho ngõ Cẩm Phong không, phái nhiều người hơn ra ngoài tìm?”
“Không cần,” Đường Cạnh ngăn cản, “Giữ nguyên hiện trường, canh chừng sân nhà, tôi tới ngay đây.”
Quay trở lại phòng, cuối cùng Tạ Lực cũng chọn được một người trong xanh gầy đỏ mập, thấy anh đi vào bèn hỏi: “Có chuyện gì à?”
“Không có gì,” Đường Cạnh nở một nụ cười bất đắc dĩ, “Văn phòng có việc, hơi rắc rối. Tôi đi trước, ngày mai sẽ tới đây đón cậu.”
Tạ Lực nghe vậy cũng cười. Hắn đã uống chút rượu, gương mặt dài đỏ gay.
Đường Cạnh không rề rà nữa, ra khỏi ngõ Hội Nhạc, lái xe rời đi.
Gương chiếu hậu phản chiếu ánh đèn mờ tối trong ngõ hẻm, như anh đã từng nghĩ vô số lần, đây là nơi nổi danh không thấy kẻ tóc bạc, đương nhiên cũng chẳng ai nhớ được anh là ai.
Trở lại dinh họ Châu, trong sân đèn đuốc sáng choang, đúng theo lời anh, vườn không nhà trống. Vào nhà chính, có người dẫn anh lên tầng ba, phòng ngủ của Châu Tử Hề ở đó. Lúc này, cửa phòng mở toang, hầu gái đứng ngoài hành lang, vú em đi cùng từ New York về cũng có mặt trong đó, đáng tiếc chỉ biết nói tiếng Quảng, giao tiếp không thông với những người khác.
Đường Cạnh vào phòng, đi tới bên cửa sổ nhìn xuống dưới, căn nhà kiểu Tây có ba tầng, ít nhất cũng cao mười mấy mét, bên dưới là thảm cỏ trong sân và vườn hoa, đất trồng hoa ẩm xốp nhưng không hề có dấu vết thay đổi.
Triệu Đắc Thắng bên cạnh nói: “Trên tường nhiều thứ lồi lõm như vậy, phỏng chừng lấy làm thang leo xuống, đằng kia còn có cây…”
Đường Cạnh trở tay đóng cửa sổ lại, quay đầu phân phó: “Được rồi, các cậu xuống dưới hết đi, ra sân tìm, xem xem là đi từ cửa nào.”
Nghe anh nói vậy, hai đàn em trong bang xoay người đi ra ngoài, kêu gọi đầy tớ trong hành lang cùng tìm giúp. Đám đông tản đi, chỉ còn lại Đường Cạnh chậm rãi theo sau. Ra khỏi phòng, bên ngoài chính là hành lang, một bên là lan can thang gác, bên kia là tường ngăn ghép ván, vây kín từ sàn lên trần, trong bóng tối không thấy rõ được hoa văn chạm trổ bên trên, chỉ cảm thấy rườm rà ngột ngạt, tựa một cỗ quan tài khổng lồ chứa hết mọi người bên trong.
Đợi người hầu đàn em đi xa rồi, chung quanh rốt cuộc cũng yên ắng, giày da đạp lên sàn nhà phát ra những tiếng vang nhỏ vụn. Anh đi thẳng tới trước một tấm ván khắc lá chạm hoa, đưa tay mở ra, đằng sau tấm ván là thang máy chuyên dụng để vận chuyển đồ ăn trong dinh, Chu Tử Hề đang ôm đầu gối ngồi trong đó.
Hai người mặt đối mặt một giây, Đường Cạnh không lên tiếng, Châu Tử Hề cũng chẳng nhúc nhích, trái lại còn co người chặt hơn.
Đường Cạnh cười khẩy, thấy hai cánh tay trần của nàng ôm hai chân, đầu gối chống cằm thì đoán được trên người nàng tối đa chỉ có đồ lót, bèn cởi áo khoác của mình xuống.
Châu Tử Hề lại tưởng anh định động thủ, tức thì chui ra khỏi cái hốc đó, toan chuồn đi như thỏ, song cuối cùng vẫn chẳng thể chạy thoát, bị Đường Cạnh cầm áo bọc lấy, khiêng ngang cả người lên đi vào phòng.
Nàng vùng vẫy kêu la, dưới tầng có người nghe thấy động tĩnh chạy lại.
Đường Cạnh chẳng buồn quay đầu, chỉ cất cao giọng nói một câu: “Đã tìm thấy người, chớ đi lên.”
Tiếng bước chân tới gần lộn xộn trên cầu thang lặng bặt.
Châu Tử Hề biết kêu cứu vô dụng, thức thời ngậm miệng, mặc Đường Cạnh ném mình lên giường, quấn chặt áo khoác, mắt nhìn anh chằm chằm, muốn xem xem người đàn ông này dám làm gì mình. Nhưng bày dáng vẻ liều mạng này ra chỉ tổ phí công, Đường Cạnh chẳng mảy may để ý, chỉ mải ngó quanh, thấy trên mặt đất có cái vali da để mở thì vớ bừa trong đó ra một bộ quần áo ném lên người nàng.
Thấy vậy, Châu Tử Hề ngớ người, Đường Cạnh đã xoay lưng lại đi tới bên cửa sổ, móc bao thuốc lá ra, ngoái đầu hỏi một tiếng: “Do you mind?”
Châu Tử Hề lắc đầu, hai tay vẫn nắm chặt vạt áo khoác.
Đường Cạnh chỉ thấy buồn cười, quay đầu lại châm điếu thuốc, lại mở một cánh cửa sổ ra, mặc làn khói mảnh trắng xóa uốn lượn như rắn bay đi theo gió. Anh thèm mà nhìn nàng, có khác gì gốc rạ đâu, nhấc lên nhẹ như bỗng, hai bàn tay bóp cái là chết.
Bấy giờ Châu Tử Hề mới buông lỏng áo khoác, rút một chiếc váy ra tròng vào. Cũng không khéo thay, chiếc váy này có đến mười mấy cái khuy, nàng cài được một nửa, thấy không yên tâm bèn đưa mắt ngó, người trước cửa sổ quả thật chỉ chừa cho nàng cái bóng lưng.
“Anh thật sự là luật sư?” Nàng tò mò, vẫn cảm thấy người này giống côn đồ hơn.
Đường Cạnh gật đầu, không nói gì.
“Học luật ở đâu?” Nàng lại hỏi.
“Yale.” Anh đáp.
Nàng huýt sáo: “Vậy tại sao phải ở đây làm cái việc này?”
“Ở đây thì sao?” Anh hỏi vặn lại.
“Ở đây thì có luật pháp gì đáng nói?” Châu Tử Hề cũng hỏi vặn.
“Em nghĩ nơi này là đất hoang à?” Đường Cạnh bật cười, không kìm được thanh minh cho thành phố, “Tô giới Pháp thì theo dân luật, tô giới chung thì theo thông luật, khu người Hoa thì theo luật từ Đại Thanh đến Lục pháp toàn thư1. Nếu có hai người đánh nhau ven bờ Hoàng Phố, luật sư biện hộ phỏng chừng sẽ phải giở hết các bộ luật chính yếu trên thế giới ra tham khảo. Từ cổ chí kim chưa bao giờ có nơi nào nhiều luật pháp hơn nơi này. Có thể em sẽ cho là trò đùa, nhưng tôi lại cảm thấy làm luật sư ở đây rất có không gian phát triển.”
1 Hệ thống pháp luật do Quốc Dân đảng biên soạn và áp dụng vào thời kì Dân quốc ở Trung Quốc.
Nói được một nửa, anh loáng thoáng cảm thấy mình bị cô nhóc này dắt mũi, nguyên bản khi nhận vụ làm ăn này, anh đã quyết định không lắm lời với nàng, chỉ trông chừng kĩ càng là xong, nhưng giờ đây lại như đang khoe mẽ trước mặt nàng.
Châu Tử Hề chẳng hề hay biết, chỉ hừ lạnh, còn muốn tranh luận với anh: “Nhiều luật pháp như vậy nhưng em lại phải cưới một người chưa gặp mặt bao giờ.”
“Nhiều luật pháp như vậy nên em có thể chờ đến khi tròn mười tám tuổi.” Đường Cạnh thuận miệng an ủi, cũng không mấy thật lòng.
Châu Tử Hề cũng chẳng biết ơn, cười nhạt nói: “Thế nên em rơi vào tay anh.”
“Tôi chỉ nhận tiền của người tiêu tai cho người mà thôi.” Đường Cạnh ăn ngay nói thật.
Anh chỉ muốn yên bình cho hết mười tháng, từ sớm đã biết khoảng thời gian này chẳng có bao nhiêu ý nghĩa, cũng không phải có ai thật lòng lo nghĩ cho cô bé mồ côi này, chỉ là bởi trong tộc họ Châu cũng có người dòm ngó phần tài sản này, miễn cưỡng trích ra được một câu trong di chúc của cha nàng năm xưa: “Con gái thứ Tử Hề cần đủ mười tám tuổi mới kết hôn lập gia đình”, báo cáo lên tòa hội thẩm tô giới, bấy giờ mới có cái hạn mười tám tuổi và người giám hộ là anh đây.
Khi còn sống, Châu Tử Huân đã mời anh về làm luật sư, đột ngột qua đời, đứa trẻ mồ côi họ Châu này cũng rơi vào tay anh, hết thảy rành mạch hợp lí.
Trong lúc nói, Châu Tử Hề đã mặc xong quần áo, ngồi trên chiếc giường gỗ hồ đào cao ngất. Đường Cạnh liếc nàng, ấn điếu thuốc lên bệ cửa sổ bằng đá hoa cương, xoay người đi ra cửa.
“Em không trốn được đâu.” Anh mở cửa, quay lại nói với nàng.
“Nếu em thật sự nhảy từ đây xuống thì sao?” Nàng cũng nhìn anh.
“Có nhảy cũng ngã sống dở chết dở mà thôi, vẫn không trốn được.” Anh nhắc nhở.
Châu Tử Hề cứng họng, nhất thời ngơ ngác. Nàng biết anh nói đúng, trừ phi chết đi mới chạy thoát khả thi, nhưng hiện giờ nàng không muốn chết.
Đây là lần đầu tiên Đường Cạnh trông thấy thần sắc nàng bất lực, quả thật chỉ là một cô bé. Anh hơi không đành lòng, nhưng cũng chỉ yên lặng đi ra ngoài, xoay người định đóng cửa lại.
Châu Tử Hề đi theo qua, chợt hỏi: “Anh ta là người thế nào?”
Đường Cạnh biết nàng hỏi ai, hơi khựng lại, đắn đo câu từ: “Hăm sáu tuổi, du học ở Mĩ, nhà giàu, bố là thiếu tướng tham nghị trong chính phủ Quốc dân, tướng mạo tuổi tác tương xứng với em, môn đăng hộ đối.”
Châu Tử Hề vẫn nhìn anh, song không nói gì nữa, đóng cửa phòng lại trước mặt anh.
Lúc rời khỏi dinh họ Châu thì đã không còn sớm, Đường Cạnh lái xe về khách sạn Richard. Ở đó, anh có một căn phòng thuê trường kì, từ khi trở lại Thượng Hải đã vào trọ trong đó. Giá phòng không rẻ nhưng anh trả được, cũng chưa từng có ý định thành gia lập thất ở đây. Sở dĩ anh về nước vừa là để trả nợ mà cũng là bởi ở đây dễ kiếm tiền. Đợi đến lúc kiếm đủ rồi, không muốn kiếm thêm nữa thì sẽ đi. Nhưng bao giờ đi? Có thể chờ đến ngày ấy hay không? Không ai biết.
Trước khi ngủ, anh rửa ráy trong phòng tắm, cởi bộ âu phục vải lanh ra mới phát hiện trên đó loáng thoáng vương hơi thở xa lạ, như mùi hương một loài hoa không biết tên nào đó, đăng đắng rồi lại ngòn ngọt. Ngửi kĩ thì không tìm thấy nữa. Anh chợt thấy bức bối, bụng nghĩ rốt cuộc mình đang làm gì, bèn vo áo khoác lại, ném vào ngăn gỗ ngoài cửa, đợi phục vụ đến đem đi giặt là.
Thoáng chốc, trong đầu lại hiện lên bóng người ngồi co ro ôm đầu gối, trắng trẻo, nhỏ nhắn, trong bóng tối, đôi mắt trắng đen rõ ràng, khiến tim anh khẽ nảy lên một cái. Nhưng theo đó lại có một suy nghĩ khác trồi lên – trong thang máy vận chuyển thức ăn không có tay cầm điều khiển đóng mở, nếu chỉ có một mình thì vào rồi sẽ không ra được. Thế nên, nàng có người tiếp ứng.
Nghĩ đến đây, Đường Cạnh lập tức gọi điện đến dinh họ Châu, tìm Triệu Đắc Thắng xác nhận lại: “Người hầu trong dinh đều là thuê mới phải không?”
“Vâng.” Đắc Thắng đáp rất quả quyết.
“Châu tiểu thư có đặc biệt gọi người hầu nào tới không?” Đường Cạnh lại hỏi.
Bên kia nghĩ ngợi rồi đáp: “Không ạ.”
Đường Cạnh biết Triệu Đắc Thắng trước nay làm việc rất đắc lực, không tới nỗi đến một chuyện đơn giản như vậy cũng không xong, nhưng anh khó tránh khỏi nghĩ nhiều: “Nhà bếp có người ngoài ra vào không?”
Triệu Đắc Thắng hơi chần chừ: “Có vài người đến giao hàng.”
“Giao những cái gì?” Đường Cạnh tiếp tục.
“Rau, mì, gạo,” Đắc Thắng nhớ lại, “Còn có… bánh ngọt Châu tiểu thư chỉ đích danh muốn ăn của một hàng ven đường, bà quản gia bèn gọi điện tới đặt.”
“Là quản gia gọi điện thoại?”
“Mới đầu là bà quản gia gọi, nhưng ông chủ đằng ấy là người ngoại quốc nên sau đó vẫn phải nhờ Châu tiểu thư tự nói.”
Trong lòng Đường Cạnh giật giật, lại hỏi: “Người giao bánh ngọt tới trông như thế nào?”
“Chuyện đó… Em không nhìn thấy…” Đến đây, Triệu Đắc Thắng nín thít.
Tuy cũng xem như hỏi ra được gì đó nhưng Đường Cạnh lại cảm thấy vô nghĩa, mình cứ như một tên lính coi ngục mặt mày thô bỉ, dán mắt theo dõi nhưng chi tiết vặt vãnh vậy.
“Được rồi, tạm thế đã.” Anh bèn vứt lại câu này rồi cúp máy, trong đầu đã có biện pháp giải quyết đơn giản minh bạch nhất – Chỉ cần ngày mai gửi cô nhóc kia vào trường nội trú là có thể giản lược được mọi phiền toái.
Cùng lúc đó, trong khuê phòng tầng ba dinh họ Châu, Châu Tử Hề đã ngủ.
Trong mơ, nàng phát hiện mình đứng trong bóng tối, chỉ có một tia ánh đèn ở chỗ cực xa phía trước, loáng thoáng văng vẳng tiếng người và tiếng nhạc từ nơi đó, như cách một màn nước, nghe không rõ. Nàng chạy về phía đó, dưới chân bị vấp, suýt nữa ngã sấp xuống, vươn tay ra chạm đến tấm ván khắc hoa bên cạnh, xúc cảm lồi lõm y như trong trí nhớ, bấy giờ mới biết là hành lang trong nhà, nhưng chẳng rõ tại sao lại dằng dặc và tối tăm đến vậy. Nàng đi tiếp, chỗ có ánh sáng vọng lại tiếng phụ nữ cười, còn chưa kịp nhìn ra cái gì thì nghe thấy một tiếng gọi khẽ – “Tụng Nghiêu…”
Nàng choàng tỉnh, mở mắt, mọi thứ trong phòng đều quen thuộc, ánh trăng lãng đãng hơi ẩm đêm hè vạch ra một đường thô ráp.