“Hôm nay em đã nhìn thấy Arya đấy!” Tessa mở lời trước để xua đi bầu không khí tĩnh mịch trong xe.
Jem mỉm cười “Cái cô gái kì lạ mặc đồ nam mới đến sao?”
“Anh biết sao?” Tessa ngạc nhiên “Em nhớ là lúc đó anh đang tĩnh dưỡng”
“Ừ, Will kể cho anh” Nụ cười vẫn hiện hữu trên môi, anh nói.
Cô bĩu môi “Anh ấy nhanh miệng đấy!”
Jem không đáp chỉ cười bù cho qua.
Tessa nhanh nhảu kể“Arya ấy, cô ấy thình lình xuất hiện trên cửa sổ và cũng biến mất hệt như ma vậy. Mà đó là lầu ba đấy!”
Nét ngạc nhiên xuất hiện trên gương mặt Jem. Tessa thỏa mãn vì câu chuyện
của mình đã thu hút được anh, cô tiếp tục “Thậm chí Arya còn không thèm
ngắm mà phi thẳng con dao vào hồng tâm nữa cơ. Nếu là anh thì có làm như vậy được không?”
Môi anh cong lên “Chắc được, và nó sẽ cắm thẳng lên trần nhà.”
“Còn Will?”
“Cậu ấy thì có lẽ được.” Jem nói “Will là tay phi dao tài ba đấy nhé.”
“Chắc vậy.” Cô lảng đi.
Tessa để rèm cửa sổ mở và nhìn ra ngoài ô cửa kính trong lúc cỗ xe ngựa men
theo đường Fleet chạy về đồi Ludgate. Màn sương vàng nhạt thêm dày và cô chẳng thấy được gì mấy ngoài những bóng người đang rảo bước đi lại, dăm ba áp phích quảng cáo nhòe nhoẹt vẽ bên các chái nhà. Vào những lúc
hiếm hoi sương tản ra, cô thoáng thấy rõ gì đó: một cô gái ôm những bó
oải hương héo rũ đang kiệt sức đứng dựa vào tường; một gã thợ mài dao
kéo rệu rã đẩy xe về nhà; áp phích quảng cáo của hãng diêm Bryant and
May’s Lucifer đột nhiên lù lù hiện ra giữa màn sương.
“Đồ bỏ xó,” Jem nói. Anh ngồi dựa lưng trên chiếc ghế đối diện, đôi mắt
sáng lấp lánh trong bóng tối. Cô tự hỏi liệu anh có dùng chút thuốc
phiện nào trước khi lên đường không, và nếu có thì là bao nhiêu. “Sao
ạ?”
Anh mô
phỏng hành động quẹt một que diêm, thổi tắt rồi ném que diêm tàn ra sau. “Ở đây người ta gọi diêm như thế – đồ bỏ xó, vì em ném nó đi sau khi
dùng xong. Họ cũng dùng từ đó để chỉ các nữ công nhân làm diêm.” Tessa
nghĩ tới Sophie, người rất có thể sẽ trở thành một trong số những “đồ bỏ xó”, nếu Charlotte không tìm thấy cô ấy. “Nói nghe tàn nhẫn quá.”
“Chúng ta sắp đến vùng tàn nhẫn của thành phố đây. East End, khu ổ chuột.” Anh nhoài người trên ghế. “Em nhớ phải cẩn thận, và ở gần anh.” “Anh biết
Will làm gì ở đó không?” Tessa hỏi, nhưng lại có phần sợ đáp án. Họ đang đi qua nhà thờ St. Paul hùng vĩ, sừng sững phía trước họ như nấm mồ
bằng đá cẩm thạch lấp lánh chôn một gã khổng lồ.
Jem lắc đầu. “Anh không biết nữa. Anh chỉ cảm nhận được – một hình ảnh
thoáng qua về con phố – nhờ phép theo dấu. Nhưng anh phải nói, chỉ có
vài lý do vô hại để giải thích việc một quý ông tới khu el sau khi trời
tối thôi.”
“Chắc anh ấy đi đánh bạc...” “Có thể,” Jem đồng ý, nhưng bằng giọng anh thì có vẻ chính anh cũng không tin lắm.
“Anh nói anh cảm nhận được. Ở đây.” Tessa đặt tay lên tim. “Nếu anh ấy gặp
chuyện. Có phải vì anh là parabatai của Will không?” “Ừ.”
“Vậy parabatai không đơn giản là thề bảo vệ nhau. Nó có gì đó... huyền bí.”
Jem mỉm cười, một nụ cười như ánh sáng đột nhiên bừng lên trong mọi căn
phòng của tòa nhà. “Bọn anh là Nephilim. Mọi điều trong quãng đời của
bọn anh đều có vài yếu tố huyền bí – chào đời này, rồi chết này, hay kết hôn, mọi sự kiện trọng đại đều được đánh dấu bằng nghi lễ. Một nghi lễ
sẽ được cử hành khi em muốn là parabatai của ai đó. Tất nhiên, trước
tiên em phải hỏi ý kiến người kia. Đó không phải chuyện nhỏ...”
“Anh hỏi Will,” Tessa đoán. Jem lắc đầu và vẫn mỉm cười. “Will hỏi anh,” anh nói. “Hoặc đúng hơn là cậu ấy bảo anh thế. Khi đó, bọn anh đang luyện
dùng trường kiếm trong phòng tập. Will hỏi và anh bảo rằng không, rằng
cậu ấy nên chọn một parabatai có thể sống lâu, có thể bảo vệ cậu ấy cả
đời. Will cược với anh rằng nếu Will có thể tước kiếm của anh, vậy anh
phải đồng ý làm anh em kết nghĩa của cậu ấy.”
“Và Will tước được kiếm của anh?” “Trong chín giây,” Jem cười thành tiếng.
“Ghim anh vào tường. Chắc Will luyện lúc anh không biết, vì nếu biết cậu ấy dùng trường kiếm thành thạo, còn lâu anh mới tham gia vụ cược đó.”
Anh nhún vai. “Hồi đó bọn anh mười ba tuổi. Họ cử hành nghi lễ khi bọn
anh mười bốn. Đã ba năm trôi qua kể từ đó và anh không thể tưởng tượng
sẽ thế nào nếu không có parabatai.”
“Sao anh không muốn là parabatai của Will?” Tessa hỏi có phần lưỡng lự. “Hồi đó đó?” Jem lùa một bàn tay qua mái tóc bạc. “Nghi lễ ràng buộc em,”
anh nói. “Nó giúp em mạnh hơn. Em có thể dùng sức mạnh của người kia. Nó giúp em ý thức được vị trí của người kia nhằm phối hợp hoàn hảo trong
lúc chiến đấu. Có một vài chữ rune bắt buộc em phải là parabatai của ai
đó thì mới dùng được. Nhưng... cả đời em chỉ được chọn một parabatai. Em không thể chọn thêm ai khác, kể cả nếu người kia đã chết. Anh không
nghĩ mình là lựa chọn hoàn hảo.”
“Đó có vẻ là một luật lệ hà khắc.” Sau đó Jem nói gì đó bằng ngôn ngữ cô không hiểu, nghe như “khalepatakala.”
Cô nhíu mày. “Không phải tiếng Latinh thì phải?” “Tiếng Hy Lạp,” anh nói.
“Nó có hai nghĩa. Một là những gì đắt giá – lòng tốt, sự khoan dung,
vinh quang, và sự cao thượng – đều khó đạt được.” Anh nhoài tới gần cô
hơn. Cô có thể ngửi thấy mùi ngòn ngọt của thuốc phiện nơi anh, và mùi
cơ thể anh thoảng qua nữa. “Nó còn có một ý nghĩa khác.”
Tessa nuốt khan. “Là gì?” “Là ‘Đẹp cũng là hà khắc.’”
Cô nhìn xuống tay anh: Thon dài, móng cắt cụt và sẹo ngang dọc các mấu
tay. Liệu có Nephilim nào không có sẹo không? “Câu đó có ý nghĩa đặc
biệt gì với anh không?” Cô khẽ hỏi. “Đó là ngôn ngữ chết. Sao anh lại
học chúng?” Anh đã nhoài gần tới độ cô cảm nhận được hơi ấm từ hơi thở
anh trên má mình. “Anh không chắc nữa,” anh nói, “dù anh nghĩ chắc do
anh cảm nhận được sự tường minh trong đó. Tiếng Hy Lạp, tiếng Latinh,
tiếng Phạn, chúng chứa đựng chân lý, còn ngôn ngữ chúng ta sau này lại
đầy những từ vô nghĩa.”
“Thế còn ngôn ngữ của anh,” cô dịu dàng nói. “Tiếng mẹ đẻ của anh ấy?” Môi
anh cong lên. “Anh nói được cả hai ngôn ngữ, tiếng Anh và tiếng Trung
Quan Thoại,” anh nói. “Bố anh nói tiếng Anh, còn nói tiếng Trung thì dở
ẹc. Sau khi gia đình anh chuyển tới Thượng Hải, tiếng Trung của nhà anh
lại còn dở hơn. Người nói tiếng Quan Thoại chẳng mấy hiểu được phương
ngữ ở đó đâu.”
“Thế anh nói gì bằng tiếng Quan Thoại đi,” Tessa cười đề nghị. Jem nói liến
thoắng gì đó, nghe có vẻ có rất nhiều nguyên âm bật hơi và phụ âm nối
vào nhau, giọng lên bổng xuống trầm. “Ni hen piao liang.”
“Anh vừa nói gì thế?” “Anh nói tóc em bị tuột ra kìa. Chỗ đó đó,” anh nói và đưa tay vén một lọn tóc xoăn bị xổ ra ra sau tai cô. Hai má Tessa nóng
bừng, và cô mừng vì trong xe tối. “Em nên cẩn thận,” anh nói và từ từ
rụt tay lại, những ngón tay nấn ná một thoáng nơi má cô. “Đừng để kẻ thù tóm được gì đó.”
“À... vâng... tất nhiên.” Tessa vội nhìn ra ngoài cửa sổ – và trố cả mắt. Tuy màn sương vàng vọt phủ dày trên phố sá, nhưng cô vẫn thấy rất rõ. Họ
đang khua bánh trên một đại lộ hẹp – có lẽ vẫn được tính là rộng theo
chuẩn Luân Đôn. Không khí oi nồng, nhớp nháp vì bụi than cùng sương mù,
và trên phố thấp thoáng những bóng người. Những con người bẩn thỉu, rách rưới ấy ngồi sụp bên những bức tường của các căn nhà xiêu vẹo, mắt dõi
theo chiếc xe ngựa đi qua như đàn chó đói chăm chăm nhìn khúc xương.
Tessa thấy một người đàn bà quấn khăn choàng, một tay đeo cái làn hoa,
có một đứa bé quấn trong góc khăn choàng áp mặt vào vai bà ta. Mắt nó
nhắm, còn da thì bệch bạc như màu sữa đông; trông nó như bị ốm, hoặc đã
chết. Đám trẻ đi chân trần, bẩn thỉu như lũ mèo hoang, chơi cùng nhau
trên đường phố; đám phụ nữ ngồi dựa vào nhau ở các hiên nhà, rõ ràng đã
say xỉn. Trông đám nam giới là tệ hơn cả: họ ngồi sụp bên các chái nhà,
áo gi-lê và mũ bẩn thỉu, vá chằng vá đụp, và vẻ tuyệt vọng trên gương
mặt họ trông như hình khắc trên bia mộ. “Giới thượng lưu của Luân Đôn
sống ở Mayfair và Chelsea thích đi du ngoạn lúc nửa đêm qua những vùng
như thế này,” Jem nói bằng giọng nhuốm màu cay đắng. “Họ gọi đó là vi
hành xóm liều.”
“Họ có dừng lại và... và giúp gì không?” “Hầu như là không. Họ chỉ muốn tới xem rồi về nhà và kể lại chuyến phiêu du vào bữa tiệc trà tiếp theo,
rằng họ đã thấy ‘quân lường gạt’ và ‘lũ đĩ điếm’ hay ‘Shivering
Jemmy’(*) thật sự. Hầu hết bọn họ đều không hề bước xuống xe ngựa.”
(*) Nguyên văn: mug-hunter, dollymop, Shivering Jimmy. Đây là những từ lóng của người Anh thời Victoria. “Shivering Jemmy là gì?”
Jem nhìn cô bằng đôi mắt bạc. “Kẻ ăn mày rách rưới đang chịu đói chịu rét,” anh nói. “Một kẻ có thể sẽ chết cóng.” Tessa nghĩ tới những tờ giấy bìa bịt các kẽ hở cửa sổ căn hộ của cô tại New York. Nhưng chí ít cô cũng
có phòng ngủ, có chỗ để ngả lưng, và có dì Harriet nấu cho cô một bát
xúp nóng hay pha một tách trà ấm. Cô thật may mắn.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT