“Vậy anh sẽ không giúp tôi,” Will đều đều nói.
Magnus làm phép nhóm lửa trong lò sưởi. Dưới anh sáng nhảy nhót, pháp sư có thể thấy rõ những đường nét nơi Will – mái tóc đen xoăn ở gần cần
cổ, đôi gò má tinh tế và xương hàm rõ ràng, bóng long mi phủ rợp. Anh
khiến Magnus nhớ tới ai đó; một kí ức chợt lóe lên nhưng không rõ ràng.
Sau bao nhiêu năm sống trên cõi đời, lắm lúc anh không thể nhớ từng kí
ức riêng lẻ, kể cả về người anh từng yêu. Magnus không còn nhớ mặt mẹ
mình, dù anh biết mình giống người mẹ mang nét đẹp lai giữa dòng máu Hà
Lan của ông và Indonesia của bà. “Nếu ‘giúp’ của cậu bao gồm đưa cậu tới xứ quỷ như ném một con chuột vào cái hố đầy chó săn, vậy không, tôi sẽ
không giúp cậu.” Magnus nói. “Đấy là trò điên. Về nhà ngủ đi cho tôi
nhờ.”
“Tôi
không say.” “Trông cậu giống say lắm.” Magnus lùa cả hai bàn tay vào mái tóc dày và bỗng ngẩn ngơ nghĩ về Camille. Và hài lòng. Trong căn phòng
này với Will, anh đã trải qua gần hai giờ không hề nhớ đến nàng. Coi bộ
cũng tiến bộ đấy. “Cậu nghĩ mình là người duy nhất mất người thân
chắc?”
Will cau mặt. “Đừng nghĩ nỗi buồn của tôi như của bao người bình thường. Không
phải đâu. Người ta nói thời gian sẽ chữa lành mọi vết thương, nhưng có
lẽ nguồn cơn của nỗi đau thì còn đó. Thế đấy. Ngày nào vết thương cũng
như mới.” “Đúng,” Magnus nói và dựa lưng vào đệm. “Đay quả là một lời
nguyền ma mãnh.”
“Nếu tôi bị nguyền tôi yêu ai thì kẻ đó sẽ chết là một nhẽ.” Will nói. “Như
thế tôi có thể buộc mình không được yêu. Ngăn những người khác quan tâm
đến tôi – chuyện ấy thật kì quặc, mệt mỏi.” Magnus nghĩ Will nói nghe
mệt mỏi và chất chứa niềm xúc cảm sâu sắc hơn so với một chàng trai tuổi mười bảy. Anh cũng nghi ngờ Will khi Will bảo có thể ngăn bản thân sa
lưới tình, nhưng hiểu vì sao chàng thiếu niên kia muốn huyễn hoặc mình
như thế. “Ngày nào tôi cũng phải vào vai một người khác – tôi phải làm
một kẻ cay độc, ngoa ngoắt,...” “Tôi thích cậu như vậy hơn. Và đừng bảo
rằng cậu không chút thích thú khi vào vai kẻ quỷ quyệt chứ, Will
Herondale.”
“Người ta bảo óc hài hước sâu cay được di truyền,” Will nói và nhìn ngọn lửa.
“Ella có. Cecily cũng vậy. Tôi chưa từng nghĩ mình có tới khi tôi thấy
mình cần nó. Tôi đã học được cách làm ngưới ta ghét mình. Nhưng tôi có
cảm giác như đang đánh mất bản thân…” Anh tìm từ. “Tôi thấy mình như
đang biến mất, nhiều phần trong tôi bị cuốn vào bóng tối, đó là lòng
tốt, tính thật thà và nhân cách thật của tôi – nếu anh trốn tránh bản
thân quá lâu, anh có đánh mất mình hoàn toàn không? Nếu không còn ai
trên thế giới này quan tâm đến ta, liệu ta có thật sự tồn tại không?”
Will nói câu cuối cùng khẽ quá làm Magnus phải căng tai ra mới nghe
được. “Cậu nói vậy là sao?”
“Không có gì. Tôi từng đọc được nó thôi.” Will quay sang Magnus. “Đưa tôi tới
Xứ Quỷ là anh đang giúp đỡ tôi. Tôi có thể tìm thấy con quỷ mà mình muốn tìm. Đây là cơ hội duy nhất của tôi – không có cơ hội đó, cuộc đời tôi
sẽ chẳng có ý nghĩa gì với tôi nữa.” “Ở tuổi mười bảy, con người nói
nghe mới dễ làm sao.” Magnus nói, không chút lạnh lùng nào. “Cậu đang
yêu và cậu nghĩ đó là cả thế giới. Nhưng thế giới này lớn hơn cậu, Will
ạ, và có lẽ nó cần cậu. Cậu là Thợ Săn Bóng Tối. Cậu sống vì mục đích
cao cả hơn. Cuộc đời cậu không mặc cho cậu ném đi.”
“Vậy tôi chẳng có gì hết,” Will nói, và rời khỏi chỗ đứng bên lò sưởi, bước
đi lảo đảo như người say. “Nếu tôi ngay cả cuộc đời của mình còn chẳng
có…” “Ai dám nói ta sống chỉ vì hạnh phúc của bản thân mình?” Magnus nói khẽ, và trong đầu anh hiện lên ngôi nhà thời thơ bé, mẹ anh tránh xa
anh và sợ hãi nhìn anh, còn chồng bà, người không phải bố anh, đùng đùng giận dữ. “Thế còn hạnh phúc của người khác thì sao?”
“Tôi đã cho họ tất cả rồi,” Will nói và cầm cái áo khoác vắt trên lưng ghế
lên. “Họ đã có đủ, và nếu đó là điều anh phải nói với tôi, vậy anh nói
xong rồi đấy – pháp sư.” Anh gằn những từ cuối như thể đó là lời nguyền. Hối hận vì sự khắc nghiệt của mình, Magnus định đứng dậy, nhưng Will
lách qua anh để đi ra, đóng sầm của lại. Một lát sau, qua ô cửa sổ
trước, Magnus thấy Will vừa đi vừa gắng mặc áo khoác, đầu cúi gằm tránh
cơn gió ào ào thổi tới.
Tessa ngồi trước bàn trang điểm, mặc áo choàng ngủ và đang mải xoay cái cúc
áo nhỏ trong tay. Cô xin phép được ở một mình lúc thực hiện yêu cầu của
Charlotte. Đây không phải lần đầu tiên cô biến thành đàn ông; Chị Em Hắc Ám đã buộc cô làm vậy hơn một lần, và dù nó khiến cô có cảm giác kì
quặc, nhưng đó không phải là nguyên do khiến cô ngần ngại. Nguyên nhân
là do sự u ám cô thấy trong mắt Starkweather, niềm kiêu hãnh rồ dại
trong giọng lão khi nói về những chiến lợi phẩm. Bản thân cô không hề
muốn biết những suy nghĩ trong đầu lão. Mình không phải làm chuyện này,
Tessa nghĩ. Cô có thể bước ra ngoài và nói mình đã cố nhưng không thành. Nhưng Tessa biết ngay khi suy nghĩ đó mới lóe lên trong đầu rằng mình
không làm thế nổi. Không hiểu sao cô có cảm giác mình được ràng buộc với những Thợ Săn Bóng Tối của Học Viện vày. Họ đã bảo vệ cô, chăm lo cô,
cho cô biết rất nhiều về con người cô, họ có cùng chung chí hướng với cô – tìm và tiêu diệt Mortmain. Cô nghĩ tới anh mắt dịu dàng Jem dành cho
cô: kiên định, bàng bạc và ngập tràn lòng tin. Hít một hơi sâu, cô nắm
chặt cái cúc.
Bóng tối ùa tới cuốn lấy cô trong sự im lặng dễ chịu. Tiếng lửa chảy lách
tách, tiếng gió thổi vào cửa sổ, tất cả đều biến mất. Quanh cô chỉ có
bóng tối và im lặng. Cô cảm nhận được cơ thể đang Biến Hình: Tay cô to
ra và sung phù, thi thoảng lại nhói đau do chứng viêm khớp. Lưng cô đau, đầu nặng trịch, chân đau nhói từng cơn, còn mồm miệng thì đắng nghét.
Răng sâu, cô nghĩ. Cô thấy ốm yếu, ốm yếu tới độ cô phải buộc đầu óc trở về với bóng tối quanh mình, tìm kiếm ánh sáng, sự kết nối. Nó tới,
nhưng không giống thứ ánh sáng đều đặn như đèn hiệu thông lệ. Nó tới
theo những mảnh vụn, như thể cô đang nhìn vào một tấm gương bị rạn. Mỗi
mảnh giữ một hình ảnh lao vun vút qua cô, nhanh đáng sợ. Cô thấy hình
ảnh con ngựa lồng lên, ngọn đồi đen đúa phủ tuyết, phòng Hội Đồng của
Clave màu đen bóng, tấm bia mộ rạn nứt. Cô cố tóm lấy một hình ảnh duy
nhất. Nó ở đó, một kí ức: Starkweather khiêu vũ cùng một người phụ nữ
mặc váy dạ hội trắng đang vui vẻ cười nói. Tessa bỏ qua kí ức đó, và tìm một kí ức khác:
Một ngôi nhà nhỏ nằm khuất giữa hai ngọn đồi. Starkweather đứng trong bóng
tối của một tràng cây quan sát khi cửa trước mở và một người đàn ông
bước ra. Kể cả trong kí ức, Tessa cũng cảm thấy nhịp tim của
Starkweather tăng cao. Ngươì đàn ông đó cao, vai rộng, tóc đen huyền –
và da xanh như da thằn lằn. Ngược lại, đứa bé ông ta bồng trên tay lại
hoàn toàn bình thường – nhỏ bé, bầu bĩnh, hồng hào. Tessa biết tên người đàn ông đó, vì Starkweather biết.
John Shade. Shade nhấc bổng đứa bé đặt lên vai đúng lúc một đám sinh vật kim loại trông kì dị ùa ra khỏi cửa, trông chúng giống như những con búp bê có khớp cử động được mà tụi trẻ con hay chơi, nhưng có kích cỡ to bằng
người thật, với bộ da kim loại sáng bóng. Những sinh vật đó không có nét mặt. Nhưng kì lạ sao, chúng mặc quần áo – vài con mặc bộ đồ vải sần của cánh nông dân Yorkshire, vài con mặc váy vải muslin đơn giản. Đám người máy nắm tay và bắt đầu xoay tròn như đang nhảy một điệu nhảy dân dã.
Đứa bé cười giòn và vỗ tay.
“Hãy nhìn kĩ đi, con trai,” người đàn ông da xanh nói, “vì một ngày kia ta
sẽ trị vì thế giới người máy, còn con sẽ là hoàng tử kim khí.” “John!”
Một giọng từ trong nhà vọng ra; một người phụ nữ thò đầu qua cửa sổ. Bà
ta có mái tóc màu xanh trứng sáo.
“John, vào nhà. Cẩn thận có người nhìn thấy đấy! Và anh đang dọa con kìa!”
“Thằng bé không sợ đâu, Anne.” Người đàn ông cười và đặt cậu bé xuống và xoa đầu nó. “Hoàng tử của ta…”
Cảm giác thù hận bùng lên trong tim Starkweather, mạnh mẽ tới độ đánh bật
Tessa, để cô một lần nữa bị cuốn trong bóng tối. Cô ngờ ngợ hiểu đang có chuyện gì. Starkweather đã bị lão suy, mất đi nhiều sợi dây liên kết ý
nghĩ và kí ức. Những kí ức đến rồi đi trong đầu lão dường như ngẫu
nhiên. Nỗ lực hết mức, cô cố hình dung ra gia đình Shade một lần nữa, và thoáng thấy một kí ức – một căn phòng bị lục tung, bánh răng, cam và
những mảnh kim loại vung vãi khắp nơi. Màu dầu chảy thẫm như màu máu, và xác người đàn ông da màu lục và người đàn bà tóc lam nằm giữa đống
hoang tàn. Rồi cảnh tượng đó cũng biến mất, và cô thấy hết lần này tới
lần khác gương mặt cô bé trong bức chân dung treo trên cầu thang – cô bé có mái tóc vàng và vẻ ngoài bướng bỉnh – thấy cô bé cưỡi con ngựa lùn,
thấy cô bé la hét và quằn quại đau đớn khi thanh stele vẽ lên nước da
trắng tái những chữ Ấn Ký đen thẫm. Cuối cùng, Tessa thấy mình xuất hiện trong thánh đường tù mù của Học Viện York, và cô cảm nhận được cơn bàng hoàng của lão chạy khắp người, mạnh tới độ nó đánh bật cô khỏi cơ thể
lão và về lại cơ thể mình. Tiếng lanh canh khe khẽ vang lên khi cái cúc
rơi khỏi tay cô. Tessa ngẩng đầu và nhìn vào gương bàn trang điểm. Cô
lại là mình, và vị đắng trong miệng được thay bằng vị máu do cô cắn vập
vào môi.
Cô
đứng lên mà thấy người rệu rã, và tới bên cửa sổ, mở ra để không khí mát mẻ của buổi đêm phả vào cơ thể mướt mát mồ hôi. Trời đêm ngoài kia đen
kịt, hiu hiu gió và cánh cổng đen của Học Viện dường như lù lù dưới cô,
châm ngôn trên đó giờ nói với cô thêm rõ về sự ngắn ngủi của đời người
và cái chết. Cô bắt được một thoáng chuyển động. Cô nhìn xuống và thấy
một bóng hình trắng nhờ ngước lên nhìn từ cái sân bên dưới. Một gương
mặt, biến dạng nhưng vẫn nhận ra được, bà Dark. Cô thở dốc và theo bản
năng giật lùi lại, rời khỏi tầm cửa sổ. Cô choáng váng, lắc đầu quầy
quậy, tay nắm chặt lấy bậu cửa, và lại thò đầu ra, hoảng sợ nhìn xuống…
Nhưng sân trống trải, chẳng có gì chuyển động ở dưới đó ngoài những cái bóng
cây. Cô nhắm mắt rồi từ từ mở ra, đặt tay lên thiên sứ mặt dây chuyền.
Cô tự nhủ dưới đó chẳng có gì hết, chỉ là do cô tưởng tượng mà thôi. Tự
nhủ mình nên thôi thơ thẩn nếu không muốn hóa điên như lão Starkweather, cô đóng chặt cửa sổ lại.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT