Chúng
tôi rời Varanasi đi ngược lên miền Bắc nhắm hướng Gorakhpur, gần biên giới
Nepal. Gorakhpur cách Varanasi khoảng 180 cây số, là một thành phố nhỏ nhưng có
đại học. Thế nhưng kẻ hành hương như tôi có biết đến đến Gorakhpur chỉ vì đây
là trạm chuyển tiếp để đi thăm cách nơi quan trọng như Lâm-tì-ni, Câu-thi-na,
Sravasti.
Chiếc
Ambassador rời Varanasi rất sớm, nhắm hướng bắc, đi ngang Lộc Uyển lần cuối.
Trời mưa nhẹ và đường trơn ướt, tôi lo ngại không biết tối ngay mình sẽ ngủ
đâu, Câu-thi-na hay Gorakhpur. Khoảng cách 180 cây số thật ra không đáng kể,
ngay cả tại Việt Nam tôi cũng tính mất cho bốn giờ là nhiều. Thế nhưng chiếc
Ambassador này quá nguy hiểm, bốn bánh xe mòn nhẵn không còn chút gai, nó sẽ
đưa tôi xuống đâu trên con đường trơn và hẹp này. Chúng tôi lấy đường số 29,
qua Saidpur, đến Ghazipur, bên mặt chúng tôi sẽ là sông Hằng. Từ Ghazipur chúng
tôi sẽ bỏ sông Hằng đi thẳng lên phía bắc, sau 60 cây sẽ băng sông Ghaghara,
thêm 60 cây nữa là đến Gorakhpur. Nếu đến đó sớm chúng tôi sẽ đến thẳng
Câu-thi-na, nơi Phật nhập diệt.
Rời
Varanasi không bao lâu quả nhiên chiếc xe suýt gây một tai nạn. Trước một khúc
quanh, tài xế thắng lại nhưng chiếc Ambassodor vẫn cứ trườn tới, hướng về một
chiếc xe bò đậu dưới gốc cây với một bà già và một cô bé gái ngồi trên xe. Họ
run rẩy ngồi bất động không có phản ứng, còn tôi lặng người đợi tai nạn tới như
một ngày tại Delhi trên cầu bắc qua sông Yamuna. May thay lúc chỉ còn cách xe
bò chưa đầy nửa mét thì xe hơi dừng lại. Chúng tôi ngồi đợi trời hết mưa mới
dám ra đi, làm sao chiếc xe này đưa chúng tôi đi khắp vùng Bắc Ấn, tới trạm
cuối cùng là Bhairawa thuộc lãnh thổ Nepal, tổng cộng cả ngàn cây số.
Tài xế
nhìn tôi tỏ ý lo ngại khách không vừa lòng nhưng tôi còn cách nào khác hơn là
đi liều vì làm sao đổi hợp đồng, thay xe trong cảnh hoang vu này. Tôi cũng
không thể đòi anh đi chậm lại vì xe đâu có thể đi nhanh trên con đường hẹp và
trơn này. Tôi đành đi và cố quên hiểm nguy.
Ðường
lên phía bắc này là một trong những đường chính của tiểu bang Uttar Pradesh của
Ấn Ðộ mà đoạn này ngày xưa nằm trong vương quốc Kiều-tát-la (Kosala). Trong
thời Phật tại thế thì nhà vua của Kiều-tát-la là Ba-tư-nặc (Pasenadi). Ông cùng
tuổi với Phật, là một người rất mực khôn ngoan về chính trị, thông thái về
triết học, lại là một nhân vật đầy tính người, thích ăn ngon và phụ nữ đẹp.
Trước khi được vua cha nhường ngôi, ông học tại đại học Takkasila và làm thống
đốc tại Varanasi.
Vương
quốc của Ba-tư-nặc trải dài từ đông sang tây khoảng 350 km, từ bắc xuống nam
khoảng 270 km, phía tây quá Lucknow ngày nay, phía nam đến tận sông Hằng. Kinh
đô của Kiều-tát-la chính là Xá-vệ (Sravasti), chỗ mà đức Phật được một thương
gia có tên là Cấp Cô Ðộc cúng dường một vườn kỳ viên. Ðây là nơi Phật lưu trú
đến trên 25 mùa mưa và sẽ được nhắc đến trong những chương sau.
Ba-tư-nặc
hết sức tôn trọng đức Phật và trở thành cư sĩ của Ngài và cũng vì thế mà Phật
rất hay đến Kiều-tát-la để lưu trú và giảng pháp. Chỉ trong Tương Ưng bộ kinh
[1] thôi ta có thể đếm Ba-tư-nặc đàm đạo với Phật 25 lần. Thế nhưng cũng vì
hiếu sắc mà Ba-tư-nặc gây một thảm họa cho dòng Thích-ca.
[1] Samyuttanikaya
Ngoài
chính hậu, Ba-tư-nặc có thêm bốn bà vợ mà bà thứ tư là một người đẹp dòng dõi
Thích-ca, tên là Vasabhakkhatiya. Bà này sinh ra một hoàng tử, tên là
Vidudabha, về sau nối ngôi Ba-tư-nặc. Câu chuyện sẽ đơn giản nếu nó dừng tại
đó. Khổ thay vị hoàng tử này khi lớn lên khám phá ra rằng
Bản đồ
các vùng hoạt động của đức Phật. Chú thích: =Thị trấn trong thời Phật tại thế;
o Thị trấn được xây dựng sau này; Xá-vệ: Savatthi; Lâm-tì-ni: Lumbini; Bodh
Gaya: Bồ-đề đạo trường; Lộc uyển: Sarnath; Hoa Thị Thành: Pataliputra;
Na-lan-đà: Nalanda; Vương Xá: Rajagaha; Biên giới Nepal-Ấn Ðộ;... Ðường đi của
thương nhân [2] mẹ mình không phải hoàn toàn là gốc quí tộc của dòng Thích-ca, bà
là con gái của một vị hoàng tử - vị này không ai khác hơn là một anh em họ của
thái tử Tất-đạt-đa - với một tiện nữ nô lệ. Dòng Thích-ca đã dâng cho vua
Ba-tư-nặc một người bất xứng. Vị hoàng tử trẻ tuổi uất hận dòng Thích-ca từ đó.
Khoảng năm 487 khi Ba-tư-nặc viếng vương quốc Thích-ca và hội đàm với Phật tại
đó thì Vidudabha thừa cơ cha vắng mặt ở kinh thành, lấy cắp ấn kiếm, lật đổ phụ
vương. Ba-tư-nặc bị mất ngôi, đi ngựa từ Ca-tì-la-vệ về Vương Xá để cầu cứu
A-xà-thế. A-xà-thế cũng là con phản cha nhưng lại gọi Ba-tư-nặc bằng cậu. Mẹ
của A-xà-thế, bà Vi-đề-hi là em gái của Ba-tư-nặc. A-xà-thế sẵn sàng đem quân
chinh phạt nhưng đêm đó Ba-tư-nặc chết vì kiệt sức, thọ 76 tuổi.
[2] Hình trích của H.W.Schumann, sách đã dẫn.
Bây giờ
Vidudabha rảnh tay đem quân đi trả thù dòng Thích-ca, dòng bên ngoại đã sinh ra
mình. Kinh sách kể lại Phật ba lần ngăn ngừa được trận trả thù này nhưng qua
lần thứ tư thì Vidhdabha không muốn nghe nữa, chiếm Ca-tì-la-vệ, thẳng tay giết
tất cả thanh niên trong tuổi quân đội và cho phá hủy thành. Thành đó là quê
hương Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) của Phật mà ngày nay có tên là Tilaurakot
thuộc địa phận Nepal. Ðó là năm 485 hay 484, không lâu trước khi Phật nhập
diệt.
Với
Tần-bà-sa-la, Phật đã đem giáo pháp vào nước Ma-kiệt-đà, với Ba-tư-nặc vào nước
Kiều-tát-la. Theo nhà Phật học Schumann thì “chính sách” truyền giáo của Phật
rất rõ, trước hết Ngài tranh thủ các nhà vua và khi các quân vương theo Phật
thì cả nước đều theo. Thế nhưng Phật không phải lúc nào cũng thành công. Vương
quốc, nơi mà Ngài thất bại nặng nề, là Vamsa với nhà vua Udena tại kinh thành
Kosambi. Vamsa nằm phía nam nước Kiều-tát-la, phía tây của Varanasi, ngày nay
là quận Banda của tiểu bang Uttar Pradesh.
Phật đã
đến Kosambi nhiều lần và năm 520, Ngài lại đến với hy vọng điều phục được nhà
vua Udena. Nhà vua là một người chỉ ham mê thế tục, đối với chuyện tâm linh ông
càng ngán ngẩm không muốn gặp Phật, câu chuyện xảy ra chẳng qua cũng chỉ vì các
bà vương phi. Vợ chính của ông là Samavati, bà là người tha thiết với đạo pháp.
Một bà khác trẻ hơn tên gọi là Magandiya tìm cách bôi nhọ Samavati để chiếm
lòng sủng ái của vua, kế này xem ra đời nào cũng có. Bà kể vua nghe Samavati
ngây người ngắm Phật lúc Ngài đi khất thực làm vua ghen tức ra lịnh bít cửa sổ
của hoàng hậu. Về sau Samavati chết cháy vì bị Magandiya đốt cung điện ám hại.
Cơ mưu bại lộ, Magandiya cũng chịu một cái chết thảm khốc bằng hình phạt tử
hình.
Về sau
con trai của Udena lại là người hâm mộ Phật pháp và nhà vua cũng bớt thành kiến
với giáo pháp và tăng đoàn nhưng trong suốt 35 năm còn lại của đời mình, Phật
không lưu trú một mùa mưa nào tại Kosambi nữa.
Kosambi
nằm trên bờ sông Yamuna là điểm cực tây của vùng hoạt động lúc Phật còn tại
thế. Ðiểm cực đông là Campa, chỗ cách Bhagalpur ngày nay khoảng 40Km. Ðiểm cực
bắc là quê hương Ca-tì-la-vệ và cực nam là Uruvela, chỗ Phật tu khổ hạnh. Tổng
cộng Phật đã du hành và hoạt động trong một vùng đất rộng khoảng 600x300 km.
Ngày nay
vùng đất đó chỉ cần vài ngày là đi khắp. Phương tiện di chuyển đã thay đổi
nhưng cảnh vật và tập quán người dân hầu như không đổi bao nhiêu. Dọc theo con
đường đầy bụi là ruộng mía, là xe bò, là những đám rước tôn giáo đầy màu sắc và
sự sùng tín. Xã hội Ấn Ðộ cho thấy một niềm say mê tôn giáo khó tưởng tượng,
điều mà tôi chưa hề thấy tại Việt Nam hay Trung Quốc.
Lúc tôi
đến Gorakhpur thì hình như nơi đây có biến động chính trị. Khắp nơi là công an
cảnh sát đứng đầy, đường xá vắng vẻ. Tôi sực nhớ Ấn Ðộ là một xứ sở đầy tranh
chấp chính trị mà nguồn gốc của chúng lại là tôn giáo. Ðó là những hiềm khích
dễ đổ máu giữa Hồi giáo, Ấn Ðộ giáo và các bộ phái tôn giáo lớn nhỏ. Nghỉ ăn
trưa trong một khách sạn tại đây xong, chúng tôi vội vã đi Câu-thi-na. Một nhân
viên khách sạn xin đi nhờ xe tôi, quê hương anh chính tại Câu-thi-na cách
Gorakhpur 55 km. Người này nói được tiếng Anh, nhờ vậy mà chúng tôi được một
người hướng đạo.
RỪNG
SALA TẠI CÂU-THI-NA
Cuối năm
484 Phật rời Vesali đi về hướng Tây Bắc với một chủ ý rõ rệt: Ngài sẽ từ bỏ
thân người sau gần 40 năm giáo hóa. Hướng đi của Ngài là Tây Bắc nên nhà Phật
học Schumann cho rằng Ngài muốn nhập diệt trong một tu viện tại Xá-vệ, nơi Ngài
từng sống rất lâu, nhưng trên đường đi Ngài chỉ đến được Câu-thi na (Kusinara),
tên ngày nay là Kasia, nằm khoảng chừng giữa Vesali và Xá-vệ. Ðó là giả thiết của
Schumann, nhưng tôi không nghĩ khoảng cách địa lý là một trở ngại cho một thánh
nhân như Phật và khám phá thêm trong kinh sách, Phật đã báo trước cho A-nan
biết sẽ nhập niết bàn ba tháng trước đó, tại chỗ của bộ lạc Malla. Trên đường
đi, Ngài đến Pava, gặp tại đó một người thợ rèn tên là Cunda. Pava ngày nay có
lẽ là Fazilnagar, cách Câu-thi-na 16 km, nằm trên quốc lộ 28 nối Vesali với
Gorakhpur. Ðường Phật đi ngày xưa hẳn là một con đường nhiều dân cư mà ngày nay
nó đã trở thành một quốc lộ nằm hướng đông tây, nối liền hai bang Bihar và
Uttar Pradesh.
Người
thợ rèn tốt bụng mời Phật và tăng đoàn thọ thực và nấu một thứ thức ăn mà ngày
nay người ta đoán là một thứ nấm. Phật tự mình ăn thức ăn đó, không cho phép ai
được đụng tới và nói với A-nan rằng, “khắp trời người, ta không thấy ai có thể
ăn món ăn này mà sống sót”. Giờ cuối cùng của Ngài đã điểm và Cunda có cái hân
hạnh nấu cho Ngài bữa ăn lần chót.
Rời nhà
Cunda, đoàn tăng già ra đi, băng qua một con sông nhỏ mà ngày nay có tên là
Little Gandak, đến Câu-thi-na. Ðây không phải là chỗ xa lạ, Phật đã đến đây, nó
thủ phủ thứ hai của bộ lạc Malla. Dưới tàng cây Sala, A-nan làm một chỗ nằm cho
Phật nằm tạm và từ đây Phật không bao giờ đứng dậy nữa.
Chiều
hôm đó Phật chỉ thị cho A-nan đừng lo lắng gì về việc mai táng Ngài, đã có nhân
dân quanh vùng giúp đỡ. Ðến lúc đó thì A-nan mới biết Phật sắp giã biệt tăng
đoàn và khóc lóc than thở. Tối đó có một sa-môn tên Subhadda đến thăm Phật và
bị A-nan cấm không cho vào. Vị đạo sư lúc đó như ngọn đèn sắp tắt nhưng vẫn nghe
rõ lời van xin, bảo A-nan cho ông vào và Subhadda trở thành vị đệ tử cuối cùng
của Phật lúc Ngài còn tại thế. Ngày hôm sau, Phật cho tăng già một dịp cuối
được hỏi về đạo pháp nhưng tất cả mọi người đều im lặng. Lúc đó đêm đã gần kề,
cuối cùng Phật nói: “Này chư vị, thật vậy, các pháp hữu vi đều vô thường, hãy
tinh tấn”.
Sau đó
Schumann kể lại Phật “bất tỉnh” nhưng theo kinh điển, Ngài đã đi vào thiền
định, từ sơ thiền đến các xứ định rồi trở lại sơ thiền. Phật nhập định hai
chiều thuận ngược như thế “đến hai mươi bảy lần” và cuối cùng đúng lúc nửa đêm “Ngài
nhập tứ thiền, lặng lẽ mà đi” [3]. Ngài bỏ ứng thân bằng xác thịt này, bỏ một
tâm thức mang tính cá thể và đạt tới một dạng bất khả tư nghì mà chúng ta gọi
là “Ðại Niết bàn”. Ðó là năm 483 trước công nguyên.
Tôi từ
Gorakhpur đến Câu-thi-na vào một chiều mưa, rừng cây Sala [4] ngày nay vẫn còn,
lá xanh ngắt đẫm nước trông như ngọc. Ðây là một nơi nhà dân chỉ có vài nóc,
cách quốc lộ 28 khoảng vài trăm mét. Lúc tôi vào thì có một đoàn người Ấn Ðộ
vào chiêm bái, nhưng khác hẳn với Lộc Uyển, đây là một nơi hết sức vắng vẻ. Bây
giờ như thế nhưng ngày xưa, lúc Huyền Trang đến đây thì sao?
Huyền
Trang kể “...Ðây là nhà cũ của Cunda. Giữa đó là một cái giếng do ông này đào
khi cúng dường thức ăn cho Phật. Dầu trải qua nhiều năm tháng lụt ngập, nước
vẫn trong và ngọt. Về phía tây bắc thành phố [5] độ 3,4 dặm vượt qua sông
Ajitavati [6], về bờ phía tây không xa lắm, chúng ta đến một khu rừng có cây
Sala. Cây Sala như cây Huk, vỏ cây màu trắng xanh, lá lóng lánh và trơn dịu...Tại
chỗ này có một tinh xá bằng gạch, trong đó là tượng đức Như Lai nhập Niết bàn.
Ngài nằm đầu hướng về phía bắc như đang ngủ. Bên cạnh tinh xá là một ngọn tháp
do vua A-dục dựng lên; dầu đã hư sụp, nhưng cũng còn cao gần 200 bộ...Phía bắc
thành phố vượt qua sông và đi bộ khoảng 200 bước có một ngọn tháp. Ðây là chỗ
làm lễ trà tỳ [7] nhục thân đức Phật. Ðất hiện tại đen vàng, than và đất trộn
với nhau...” [8]
Sơ đồ
vùng Câu-thi-na. Chỗ ô vuông có chấm là chỗ Phật nhập Niết-bàn. Chấm đen có chữ
“Einascherungsstupa” là chỗ cử hành lễ trà tỳ. [9]
[3] Theo “Phật thuyết đại bát niết bàn kinh”, Việt dịch
của Thích Nhất Chân
[4] Tên khoa học là shorea robusta
[5] Có lẽ Huyền Trang nói Kasia bây giờ
[6] Tức là sông Little Gandak
[7] Lễ hỏa thiêu
[8] Trích Thích Thiện Châu, sách đã dẫn
[9] Hình trích của H.W.Schumann, sách đã dẫn
Ngày nay
tôi đến thì tinh xá và tháp do vua A-dục xây vẫn còn. Nhưng theo tài liệu thì
đền mà ngày nay ta thấy mới được xây lại năm 1956, thay thế đúng nơi “tinh xá
bằng gạch” mà Huyền Trang kể lại. Trong tinh xá này là một bức tượng Phật nhập
Niết bàn dài 6,2m bằng đá được hoàn thành trong thế kỷ thứ năm, đó chính là bức
tượng mà Huyền Trang mô tả. Bức tượng này đã nằm dưới đống gạch vụn của tinh xá
cũ và may thay được tìm thấy lại năm 1876 để hậu sinh như chúng ta được đảnh
lễ. Ðó là một cái đền có mái cao, buổi chiều trời mưa nên bên trong mát lạnh.
Tượng Phật đắp y vàng nằm an tịnh, hai bàn chân để lộ ra ngoài. Tôi lặng lẽ tìm
chỗ ngồi trên nền đá dưới chân tượng, trong đền mát lạnh và thơm mùi nhang
khói, lòng biết rằng ở nơi đây hai ngàn năm trăm năm trước, có một vị đạo sư
cũng phải lìa đời như mọi sinh vật trên trái đất này. Ngài chủ động lấy thân
người, sinh ra và lớn lên trong số phận của đời làm người và cũng thông qua
dạng người đó để chỉ dạy cho con người những nhận thức và phương pháp giải
thoát khỏi vòng sinh tử. Ðến ngày cuối cùng của đời mình Ngài cũng chịu bệnh
tật và đau đớn, dùng chính thân mình để minh họa cho giáo pháp mình. Ngài là
người thể hiện trước nhất và cụ thể nhất Bồ-tát đạo, cứu cánh của Ðại thừa Phật
giáo mà vài trăm năm sau mới bắt đầu phát triển.
Lần
thiền định trong đền này này để lại cho tôi lòng an tịnh khó quên, nó khác hẳn
tại Bodh Gaya, nơi đầy người qua kẻ lại. Lúc tôi ra khỏi đền thì trời đã dứt
cơn mưa, lá cây Sala vẫn còn lóng lánh. Hỡi các cây Sala này, theo kinh điển
thì tiền bối của các ngươi cũng đã chứng kiến phút nhập diệt của Phật:
“...Bốn
cặp cây Sala,
vươn
tàng ra hợp lại,
thành
một vầng mây lá,
che phủ
thân vàng kim,
nằm trên
giường bảy báu...”
và cây
lá như các ngươi mà cũng biết đau buồn:
“...Lá
các cây Sala,
bỗng
biến thành trắng xóa,
như một
rừng hạc trắng,
rồi thì
lá hoa trái,
vỏ cây
và nhành cánh,
khô dần
thành nứt nẻ,
gẫy rụng
lả tả rơi...”. [10]
Sơ đồ
tại tháp Nhập niết-bàn. Hình tròn màu đen ở giữa là tháp tròn cao 15m. Bên cạnh
là chính điện (có chữ “Tempel”), trong đó có tượng Phật nhập niết-bàn dài 6,2m.
Xung quanh là các tu viện. [11]
[10] Kinh đã dẫn, Việt dịch của Thích Nhất Chân
[11] Hình trích
của H.W.Schumann, sách đã dẫn
Tôi đi
vòng quanh tháp bên cạnh đền, lòng ngẩn ngơ. Ngọn tháp mà Huyền Trang cho là
200 bộ (khoảng hơn 60m) đó ngày nay chỉ đo được khoảng 15m. Có tài liệu cho
rằng đó là chỗ thờ xá-lợi của Phật được chia cho bộ lạc Malla chứ không phải
của A-dục xây. Ngay tại nơi đây, cách đền khoảng 1,5 km là nơi hỏa thiêu nhục
thân đức Phật mà Huyền Trang cũng đã mô tả, ngày nay chỉ là một ngọn đồi con
đường kính 34m, cao 8m. Ðó là nơi cử hành lễ “Trà tỳ”, lễ hỏa thiêu cử hành
khoảng một tuần sau khi Phập nhập diệt. Ðó là buổi lễ không thể thiếu Ma-ha
Ca-diếp, đại đệ tử của Phật, lúc đó đang ở Linh Thứu đã vội vã trở về tham dự.
Lễ này được mô tả rõ ràng trong Ðại Niết bàn kinh, phẩm Trà tỳ. Qua bao nhiêu
năm tháng ngọn đồi này đã bị nhiều
[12]
Hình trích từ H.W.Schumann, Buddhistische Bilderwelt, Eugen Diederichs Verlag
1993
XÁ-VỆ VÀ CẤP CÔ ĐỘC
Vì Câu-Thi-Na chỉ là một làng nhỏ
không có chỗ trú ngụ, chúng tôi cho xe lấy đường 28 đi thẳng về hướng Tây, nhắm
Basti, cách đó khoảng 120 km. Trời đã tối, xe hư đèn, chỉ còn đèn “pha”, chói
mắt xe chạy ngược chiều nên hết sức nguy hiểm. Cuối cùng chúng tôi cũng đến
được Basti, vào một khách sạn xác xơ nhưng có cái tên sang trọng là Suyash Palace.
Hôm sau chúng tôi sẽ bỏ đường 28, lấy một con đường không tên lên hướng bắc,
qua Balrampur đến một thị trấn tên gọi là Sravasti (Xá-vệ), ngày nay không có
người ở.
Xá-vệ không gì khác hơn chính là
kinh đô nước Kiều-Tát-la của nhà vua Ba-tư-nặc. Sravasti còn có tên là
Savatthi, chính là nơi Phật lưu trú 25 mùa mưa, giảng vô số kinh sách mà ta
thấy đầu kinh ghi là “Xá-vệ-quốc”. Tại Xá-vệ, Phật giảng hai bộ kinh cao cấp
nhất về mặt trí huệ, đó là kinh Kim Cương và kinh Hoa Nghiêm. “Hội Hoa Nghiêm”
được mở tám lần cho trời người được nghe, phần lớn là tại các cung trời, một
lần trên địa cầu là tại rừng “Thệ Đa” tại Xá-vệ. Hai ngàn năm trăm sau hội này,
nhiều nhà vật lý hiện đại kinh ngạc thấy rằng thế giới mô tả trong phẩm “Nhập
pháp giới” của Hoa Nghiêm hoàn toàn trùng hợp với nhận thức của họ.
Rừng Thệ Đa có tên là Jetavana, có
người gọi là Kỳ viên, đó là một khu vườn của một “trưởng giả” tên là Cấp Cô
Độc. Vị này là một thương nhân rất giàu có, ông làm nghề “ngân hàng”, có lẽ ông
nhiều của cải như Bill Gate thời nay. Nhưng ông khác với các thương nhân ngày
nay ở chỗ rất tôn trọng và hết lòng hỗ trợ Phật pháp.
Nhà ngân hàng Cấp Cô Độc có vợ người
xứ Vương Xá, ông hẳn là người đầu tiên làm cái nghề nhiều lợi tức này của Ấn
Độ. Ngày nọ, đến quê vợ giao dịch, ở tại nhà anh rể, ông thấy trong nhà chuẩn
bị nhộn nhịp. Hỏi ra ông biết có người tên là “Đức Phật” ngày mai sẽ đến thọ
thực tại đây. Tối hôm đó ông thao thức chẳng ngủ được, dậy sớm đi về phía rừng
Trúc Lâm thì có người gọi ông bằng tên tộc. Như thời nay, các đại phú ngày xưa
đều muốn dấu tên, ông giật mình hoảng sợ và mới hay người đó là đức Phật đang
đi kinh hành buổi sáng. Trong bữa ăn ngày hôm đó, ông xin quy y và mời Phật về
Xá-vệ nghỉ trong mùa mưa. Phật nhận lời và cho hay chỗ lưu trú chỉ nên yên tĩnh
là được.
Cái chỗ đó thật sự là yên tĩnh nhưng
đắt tiền. Cấp Cô Độc tìm ra được một khu vườn xanh tươi, nằm ở phía tây nam
kinh thành Xá-vệ. Thế nhưng vườn đó có chủ, nó là của Jeta, con trai nhà vua
Ba-tư-nặc. Jeta không chịu bán cho Cấp Cô Độc nhưng dại dột nói chơi thêm “100.000
đồng tiền vàng cũng chưa chắc chịu”. Chẳng may cho Jeta là Cấp Cô Độc là thương
nhân, rất sành về hợp đồng mua bán. Theo luật thời đó hễ ai nêu giá là phải
bán, nếu nhất định không bán thì đã không nêu giá. Cấp Cô Độc kiện vị hoàng tử,
buộc phải bán với cái giá khổng lồ 100.00 đồng tiền vàng. Và công minh thay,
nền tư pháp của thời quân chủ ngày đó không hề bênh vực con vua cháu chúa, Jeta
phải bán với giá này. Người ta cho rằng số tiền này đủ để mua vàng trải đầy khu
vườn. Đó là năm 526.
Khu vườn này được trồng cây cối rậm
rạp, một phần là xoài nên có khi được gọi là “rừng xoài”. Ngày nọ có một người
đến thăm Phật vì lòng tò mò. Ông là nhà vua Ba-tư-nặc, trị vì nước Kiều-tát-la.
Ông nghe sa-môn Cồ-đàm là con trai của Tịnh Phạn mà Tịnh Phạn thật ra là vua
của một tiểu quốc thần phục Kiều-tát-la. Đúng ra ta chỉ nên gọi Tịnh Phạn là
thống đốc [1] thì phải hơn. Ba-tư-nặc đến tìm Cồ-đàm với sự dè dặt:
“Ba-tư nặc: Thưa Cồ-đàm, phải chăng
Ngài là người tự xưng là Phật đã hoàn toàn giác ngộ?”
[1]
- Hình trích của R.Grousset, sách đã dẫn
“Phật: Đúng thế, ta tự xưng như
thế!”
“Ba-tư-nặc: Các vị Sa-môn và
Bà-la-môn khác cũng trả lời tôi là họ cũng giác ngộ hoàn toàn. Làm sao Ngài còn
trẻ tuổi và xuất gia chưa lâu mà gọi là giác ngộ hoàn toàn được?”
“Phật: Thưa quốc vương, có bốn thứ
ta không nên coi thường vì tuổi còn trẻ: người chiến sĩ, con rắn độc, đốm lửa
và vị tỉ-kheo” [2].
[2]
Trích Tương Ưng bộ kinh 3,1.
Trước sự hùng biện hóm hỉnh của
Phật, Ba-tư-nặc không hề thấy bị xúc phạm. Ông là nhà vua, cùng trẻ tuổi như
Phật thế nhưng không được liệt vào “bốn thứ”. Ngược lại ông xin quy y trở thành
cư sĩ.
Kể từ năm 508 Phật xem vườn Kỳ viên
là trú xứ mùa mưa của mình, Ngài ở đó suốt 18 mùa mưa. Gần đó cách 600m về phía
đông có một khu vườn khác tên gọi là Pubbarama của tín nữ Visakha tặng tăng
đoàn, tại đó Phật lưu trú sáu mùa mưa.
Từ Basti đi Xá-vệ, đường dẫn qua
những làng mạc vô danh, qua những đám rừng rậm có thể làm ta hãi sợ. Bên mặt
của con đường xe chạy là con sông Rapti, ngày xưa tên gọi là Achiravati. Kinh
thành Xá-vệ ngày xưa nằm trên bờ sông này, nhờ thế mà thuận đường mua bán vì
sông chảy về phía đông nam nhập chung với Hằng hà. Trên đường đi, chúng tôi gặp
một trận mưa to tưởng chừng như đại hồng thủy kéo tới và cũng nhờ thế mà khi
đến Kỳ viên tại Xá-vệ thì mây đen đã tan, để lộ một vùng cây cối xanh tươi
không thể nào tả xiết.
Cám ơn thay Nhà nước Ấn Độ, mặc dù
dân nghèo lam lũ, mặc dù đạo Phật đã biến mất cách đây 10 thế kỷ nhưng vẫn để
tâm săn sóc khu vườn lịch sử này để cho hậu thế có thể tìm thấy trú xứ của Phật
trong một tình trạng xứng đáng với tầm vóc của nó.
Tôi bước chậm rãi trong Kỳ viên trên
con đường hẹp tráng xi măng mà bây giờ đã sạch bóng sau cơn trưa và nhận rằng
lòng mình lúc nào cũng bình an khi đến các thánh địa. Đó là lòng bình an kỳ lạ
dù tâm lữ khách háo hức lớn hơn mọi chỗ tôi từng đi qua. Ở đây tôi cảm nhận một
không khí thuần tịnh, ở Vesali một khí sắc vương giả, ở Bodh Gaya một tâm tư
kính sợ, ở Linh Thứu một lòng cảm động vô hạn, ở Câu-thi-na một khí lực mát lạnh
buồn bã, ở Lộc Uyển một lòng hân hoan. Nhưng ở mọi nơi, lòng bình an luôn luôn
chan hòa trong mọi cảm nhận đó, nó làm nền cho chúng phát khởi.
Đây là cây bồ-đề mệnh danh “A-nan”,
nó được A-nan cho mang một nhánh [3] từ cây bồ-đề gốc tại Bodh Gaya về và do
chính tay Cấp Cô Độc trồng. Cây này được trồng vì dân chúng Xá-vệ hỏi Phật khi
Ngài đi vắng thì lấy gì để cung kính. Phật cho trồng cây này và đã từng thiền
định dưới gốc này một đêm. Ngày nay Phật đã đi vắng, tôi đành cung kính Ngài
bằng cách thắp một cây hương cắm dưới gốc cây.
[3]
Theo một tài liệu thì Mục Kiền Liên dùng thần thông đến lấy nhánh con đó ở Bodh
Gaya trong nháy mắt
Đi thêm khoảng 100m nữa thì bên trái
là đền Gandhakuti, chỗ thiêng liêng nhất của Kỳ viên, đó là trú xứ của Phật,
chỗ Ngài ở suốt 18 mùa mưa, ngày nay chỉ còn nền đá. Trên nền này đã có nhiều
công trình xây dựng sau đó, chúng cũng lại bị đổ nát theo thời gian. Theo tài
liệu khoa học thì nền gạch nung còn lại ngày nay là từ thời đại Gupta (320-510
sau công nguyên). Trong thế kỷ thứ 5 lúc Pháp Hiển đến đây, ông còn thấy dấu
tích một ngôi tháp gỗ bảy tầng đã bị cháy, thay vào
Sơ đồ vườn Kỳ viên. Phía trên là
Gandhakuti. Phía dưới bên mặt là cây bồ-đề [4] đó là một ngôi tháp gạch hai
tầng. Hai thế kỷ sau, lúc Huyền Trang đến thì ngôi tháp gạch cũng đã đổ nát. Có
lẽ các viên gạch đỏ này là di tích nền tháp xây trong thế kỷ thứ năm đó. Những
cảnh thành hoại trong các kiến trúc xây dựng này chỉ nhắc tôi nhớ lại kinh Kim
Cương mà Phật thuyết ngay tại chốn này:
Tất cả pháp hữu vi,
Như bào mộng, như huyễn thuật, như
bọt nước,
Như sương mai, như tia chớp,
Cần phải quán như vậy.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT