Ðúng ngày Tết dương lịch 1.1.1989
tôi hăm hở lên đường đi Ấn Ðộ. Dù lúc đó đã sống hai mươi năm ở nước ngoài, tôi
vẫn thấy xa lạ với xứ sở huyền bí này. Ngày xưa dù chưa sống xa nhà, tôi đã có
ý niệm về Pháp, về Mỹ, về Canada.
Hồi đó tôi đã thích nền văn hóa phương tây, đã yêu văn chương tiếng Pháp, đã
biết lối sống Mỹ. Còn Ấn Ðộ là gì đối với tôi? Ðó là quê hương của Gandhi, một
vùng bán đảo rộng lớn với Hy-mã lạp sơn, với Hằng hà đầy cát. Tôi biết Ấn Ðộ
chỉ giản đơn như thế, nhưng điều đậm nét trong tôi là, đây là một xứ sở huyền
hoặc, hầu như được bọc trong một tấm màn thần thoại.
Những tài danh của Ấn Ðộ mà tôi biết
thường là những nhà văn nhà thơ như Tagore hay Krishnamurti, các vị đó xem ra
cũng rất huyền bí. Còn các nhà đạo học, dù đó là Phật Thích-ca hay các đạo sĩ,
tất cả đối với tôi có tính hoang đường nhiều hơn thực tại. Và dù các vị đó có
thật đi nữa thì họ quá cao xa đối với tôi. Lên đường đi Ấn Ðộ, tôi chỉ là một
người Việt Nam
làm công cho một công ty sản xuất máy phát điện ở Ðức, làm nhiệm vụ mà ngày nay
người ta gọi là tiếp thị, có cái vai trò sales manager đi bán một món hàng hết
sức trần thế.
Tôi nhớ lại một anh bạn tuổi lớn hơn
mình nhiều, anh có tiếng là thầy bói ngoại cảm. Một ngày nọ xa xưa, anh nhìn
tôi cười nửa đùa nửa thật: “chú em kiếp trước làm thầy tu bên Ấn Ðộ”. Tôi nghe
xong lòng không lấy gì thú vị, làm vua chúa thì may ra. Không, làm sao tôi mà
là thầy tu được, tôi còn ham rượu thịt, còn ham vui chơi. Tôi càng không phải
là người Ấn Ðộ, nếu không sống tại Việt Nam, tôi chỉ thích sống ở châu Âu
văn minh và cổ kính.
Máy bay từ châu Aâu đến Delhi thường hạ cánh lúc
nửa đêm, giờ địa phương. Ngày đó là ngày Pan Am còn là một hãng hàng không uy
tín của Mỹ, cạnh tranh với Lufthansa của Ðức tranh nhau chở khách đi Ấn Ðộ.
Thời đó tôi chưa hiểu sao có nhiều khách đi Ấn Ðộ, khách làm ăn có, khách du
lịch có. Ngày đó tôi đâu biết, đó là một thị trường khổng lồ cho dân làm ăn và
một lịch sử vô song cho người du lịch. Ở sân bay Delhi ở Ấn Ðộ một thứ mùi nửa lạ nửa quen làm
tôi chú ý.
Mùi này hai mươi năm qua tôi chưa
từng hít thở lại. “Eau de javel”! Thì ra cái thứ mùi để chùi rửa vệ sinh trong
những ngày xa xưa trong thời thơ ấu của tôi nay vẫn được sử dụng tại sân bay
quốc tế này. Mùi này tôi đã quên rất lâu, xứ Ðức không có, Việt Nam
ngày nay cũng không, không ngờ nơi đây vẫn thông dụng. Ngày nay mỗi lần đến Ấn
Ðộ tôi đều chuẩn bị để hít thở mùi này, thứ mùi gây cho tôi cảm giác vừa khó
chịu vừa dễ chịu. Khó chịu là chỉ những nơi dơ bẩn ta mới biết đến nó và dễ
chịu là sự yên tâm dù sao cũng có ai lo cho sự vệ sinh ở đây.
Tôi ngồi gọn trong ghế bành nghe
người ta nói tiếng Anh. Ðồng nghiệp người Ðức của tôi nói tiếng Anh rất dễ
nghe, có lẽ thứ tiếng Anh của tôi cũng có cái giọng như thế. Ðó là một thứ
tiếng Anh giọng Ðức, thứ tiếng Anh hay bị chê cười trên thế giới. Người ta gọi
đó là tiếng Anh của Kissinger vì nhà chính trị này sinh tại Ðức, sống lâu ở Mỹ
nhưng vẫn nói thứ giọng quê mùa này. Còn tiếng Anh của Ấn Ðộ là một thứ tiếng
Anh lạ lùng, tôi nghe không hiểu gì cả.
Tôi nhớ mình thích tiếng Anh của
người Hồng Kông vì tiếng Anh của họ dễ hiểu, thanh quản và phát âm của họ xem
ra giống của tôi. Tôi vốn sợ thứ tiếng Anh của người Úc và của người Mỹ vì khó
hiểu nhưng có đến Ấn Ðộ mới thấy có thứ khó hiểu hơn. Ðiệu bộ cử chỉ của người
Ấn cũng khác, họ hay dùng bàn tay để “minh họa” cho lời nói. Bàn tay của họ cứ
lật qua lật lại theo nội dung câu chuyện. Tôi phải làm việc hàng tuần trong cái
xứ đầy mùi lạ, tiếng lạ, phòng ốc chật chội này ư?
Văn phòng đại diện của chúng tôi tại
Delhi thuộc
loại tầm cỡ nhưng phòng ốc hết sức hạn chế. Tại sao người ta thuê tuyển nhiều
người như thế, bàn nọ kê sát bàn kia, nhân viên hàng tá làm gì cho hết ngày giờ?
Sau này tôi mới biết họ có nhiều người là để giúp việc cho chúng tôi, có những
tea boy chỉ chuyên bưng trà rót nước, những công việc mà tại phương tây chúng
tôi phải tự làm. Dễ chịu thay. Chỉ sau một ngày, tôi đã nhờ một cô gái đi copy
văn bản. Bất ngờ thay, cô ta lắc đầu. Tôi đang tự hỏi tại sao cô này từ chối
lời yêu cầu nhã nhặn của mình thì đã thấy cô đã nhặm lẹ cầm giấy tờ chạy đi làm
việc. Thì ra cái lắc đầu của người Ấn Ðộ chính là cử động gật đầu của ta. Còn
khi họ từ chối thật thì đầu họ cũng lắc cũng lắc cách khác. Ðối với tôi lúc nào
họ cũng lắc đầu cả. Khó hiểu thay, những người Ấn Ðộ!
Từ văn phòng chúng tôi nhìn ra là
công trường Nehru đầy người. Ðó là chỗ bán cam bán chuối, bến đợi xe bus, xe
hàng rang hạnh nhân đậu phộng, chỗ sửa xe taxi, bến đậu xe “túc-túc”, nơi của
khỉ làm trò…Cuộc sống ở đây xem ra vừa vội vã vừa chậm chạp. Trên công trường
Nehru đó hàng trăm người ngồi chơi sưởi nắng xem ra không có gì làm, hôm nay là
một ngày mùa đông. Xung quanh họ là những người ăn mặc hết sức nghiêm túc theo
kiểu người Anh đang vội vã rảo bước, họ tìm kiếm điều gì trong xứ sở nghèo nàn
này? Về sau tôi biết thêm Ấn Ðộ là một xứ sở của những hình ảnh đối chọi.
Ðường sá đầy xe cộ với mùi xăng khét
lẹt làm tôi nhớ Việt Nam.
Taxi của họ là những chiếc xe nội hóa cũ kỹ với cái tên vang dội «Ambassador»
mà bốn bánh xe thường mòn nhẵn làm chúng tôi e ngại, mỗi chuyến đi là một trò
chơi ít nhiều rủi ro nhất là khi gặp trời mưa. Thế nhưng đã quen cách đi liều
của mình và thấy đồng nghiệp nhiều năm kinh nghiệm Ấn Ðộ của tôi cũng chưa có
ai mang vết tích gì trên người nên tôi yên tâm tự nhủ đời người có số.
Chỉ vài ngày sau khi đến Ấn Ðộ người
ta đã biết đây là một xứ sở mang nặng đầu óc tôn giáo. Trong taxi tài xế thắp
nhang liên tục, họ khẩn cầu một vị thần nào bảo hộ cho họ, cho họ nhiều khách
và ít tai nạn. Ngoài đường các đàn bò đi đứng nằm ngồi xem ra rất tự nhiên
thoải mái, tài xế lái xe thường rất hấp tấp nhưng khi gặp chúng đều kiên trì
chờ đợi, không có một tiếng còi. Ra khỏi Delhi
vài cây số là đã xanh một màu cây cối, ở đây cơ man nào là khỉ.
Theo người Ấn, chúng là hậu thân
đáng thương của đời làm người, là cha mẹ anh em ngày trước, chúng được đối đãi
bình đẳng và sống chung với người. Ngày nọ tôi đến làm việc tại một cơ quan
chuyên trách “kiâm tra chất lượng” của bộ phận turbine. Ðó là một tòa nhà nhỏ
nằm trong một khu vườn lầy lội sau cơn mưa. Vừa bước xuống xe, một con heo rừng
đâm đầu chạy đến. Tôi vội thót lên xe, đóng cửa đánh rầm. Sau đó hỏi ra nó chỉ
là một heo nhà tầm thường nhưng chạy nhảy nhiều quá nên có cái bụng thon của
một con heo rừng lực sĩ.
Tại Ấn Ðộ, thời gian lưu trú nhiều
tuần cho phép tôi học nghe tiếng họ nói, học nhìn cách họ làm để giải quyết
công việc của mình và khám phá nhiều điều lớn lao hơn. Xuất phát từ một cấu
trúc xã hội có tính đẳng cấp, người Ấn Ðộ rất khó thân cận. Lạ thay, đối với
thú vật thì họ gần gũi mà đối với người thì họ xa cách. Hình như mỗi người Ấn
Ðộ khi gặp người khác, việc đầu tiên là họ định nghĩa ai hơn ai, về đẳng cấp
huyết thống ai ưu việt hơn ai. Ði Ấn Ðộ hàng chục lần, tôi kết luận rằng đó là
một xứ sở của sự phân biệt giai cấp. Người giàu có thì hợm hĩnh khinh người,
người nghèo khổ thì yên phận chịu đựng. Những người mà tôi gặp và làm việc đều
là kỹ sư hay thương nhân, họ thuộc thành phần có học và có tiền, trong nội bộ
xã hội, họ coi khinh người khác, đối với chúng tôi ở nước ngoài đến thì họ e dè
và phức tạp.
Ðối với người nước ngoài, người Ấn Ðộ
vừa có mặc cảm tự ty vừa tự tôn. Họ biết rất rõ bán đảo bao la của mình là một
cái nôi văn hóa và học thuật của loài người. Cuộc đời của nhiều vĩ nhân nước họ
là những bó đuốc soi đường cho hậu thế. Nền văn minh, triết lý và tôn giáo của
họ là nền tảng của nhiều nền văn hóa lớn trên thế giới, kể cả của Âu Mỹ và
Trung Quốc. Thế nhưng nước họ ngày nay thuộc loại lạc hậu nhất, đời sống dân
chúng khốn khổ nhất. Họ có cái đau khổ của một nhà quí tộc khánh kiệt. Cho nên
khi một người nước ngoài đứng trước mặt họ, họ lúng túng không thể định nghĩa
ai hơn ai kém. Và khi gặp chúng tôi, kẻ đi bán một thiết bị hiện đại, họ càng
lúng túng. Vì trình độ kỹ thuật còn non, họ phải đi mua; nhưng vì là khách hàng
họ thấy mình được o bế. Thế thì ai hơn ai thua, xem ra họ rất thắc mắc.
THÁNG NGÀY ẤP Ủ
Khách sạn cho thương nhân chúng tôi
thường là loại năm sao đắt tiền, chúng thường nằm rất xa “nhà dân”. Trước cửa
khách sạn thường có một người Ấn Ðộ rất to khỏe, mặc đồng phục như sĩ quan cao
cấp, mỗi khi chúng tôi ra vào, ông lại che mắt chào, giầy sắt đánh cộp. Tôi lấy
làm xấu hổ với thứ lễ nghi đẳng cấp dành cho tướng tá đó, cũng chưa thấy châu Á
có nơi nào từ Nepal đến Indonesia
lại có lối chào khách kiểu đó. Sang trọng như thế nhưng cách đó chưa đầy vài
trăm mét, gặp lúc khách sạn đang mở rộng công trình là hàng trăm chiếc lều với
hàng ngàn nhân công ăn ngủ tại chỗ để phục vụ dự án. Họ sống một cuộc đời khốn
khổ, từ cửa sổ phòng tôi thấy rõ mồn một. Tại Delhi, nơi được xem là Paris của Ấn Ðộ, vô số con
người sống lầm than trong lều bạt, không có chút vệ sinh hay tiện nghi tối
thiểu.
Người ta hay cho rằng làm thương
nhân như chúng tôi là sung sướng, được đi đây đi đó. Thế nhưng có đi rồi mới
biết, thường khi đi công tác nước ngoài thương nhân chỉ biết sân bay, khách
sạn, cơ quan của khách hàng, ngoài ra không biết hơn. Các cuộc thương lượng
thường căng thẳng, những tranh cãi vô bổ về một chi tiết không đáng nói thường
chỉ làm hao tổn sức lực, mài mòn tâm hồn, chúng dễ làm thui chột những cảm nhận
tâm linh lẽ ra phải có khi ta đến nhưng nơi xa lạ, gặp những con người mới mẻ.
Tại Ấn Ðộ, chúng tôi lại càng ít
quan hệ với dân chúng. Tại một nơi mà khách sạn như một ốc đảo nằm giữa cảnh
đời khốn khổ, thương nhân lại càng ngại ra ngoài. Buổi tối họ chỉ biết uống
rượu với nhau cho hết giờ và nội dung câu chuyện cũng lại quanh quẩn về những
gì bàn bạc ban ngày. Thế nên con đường đẹp nhất của Delhi là con người dẫn từ khách sạn ra lại
sân bay để về nước, con đường mà chúng tôi hay đi lúc nửa đêm vì máy bay về lại
châu Âu thường khởi hành lúc gần hai giờ sáng.
Với thời gian, những cuộc làm việc
tại Ấn Ðộ càng lúc càng dài ngày, có lúc chúng tôi phải ở lại vài tuần. Ngày nọ
có vài đồng nghiệp tổ chức đi thăm Simla trên Hy-mã lạp sơn, rủ tôi theo. Tôi
mừng như bắt được vàng. Ôi, đời tôi mà được đi núi Hy-mã sao?
Hy-mã lạp sơn đối với tôi hầu như
huyền thoại, tất cả những gì liên quan tới đó đều là chuyện thần thoại. Ðó là
một nơi hẻo lánh xa xôi đầy tuyết trắng không người lui tới, nơi đó phải là trú
xứ của thánh thần. Tôi không biết mình ở Delhi,
gần như cực bắc Ấn Ðộ, rất gần núi Hy-mã. Dĩ nhiên Hy-mã ở đây chưa vội phải là
đỉnh Everest cao hơn tám ngàn mét, và chuyến đi sáng đi tối về từ Delhi cho
thấy đây chỉ có một triền núi con con của núi Hy-mã và đi bằng đường xe hơi thì
nhất định cũng không thể lên cao. Mà như thế có lẽ cũng đủ rồi vì tôi lẫn các
đồng nghiệp của mình đâu phải là dân leo núi, chúng tôi chỉ là du khách đi thăm
Hy-mã lạp sơn một cách thoải mái và lười biếng. Tôi đoán mò như thế, không biết
rằng mình sẽ đến Simla, thủ phủ của bang Himachal Pradesh, thủ đô mùa hè của
những người Anh đi chiếm thuộc địa ngày xưa.
Vẫn là chiếc «Ambassador» nội địa
bốn bánh mòn nhẵn đến chở chúng tôi đi Hy-mã lạp sơn! Tôi ái ngại thấy mấy
người Ðức to khỏe vô ngồi trong xe, chiếc xe này mà chở chúng tôi lên cao hơn
sáu ngàn năm trăm bộ, tức gần hai ngàn mét sao. Xe chạy băng băng lên hướng
bắc, cảnh vật làm tôi nhớ Việt Nam.
Ấn Ðộ đâu phải chỉ là Delhi
ô nhiễm, đất nước này xinh đẹp biết bao. Về sau tôi đến nhiều lần vùng Bắc Ấn,
đây là một vùng đất thiêng. Hiện nay vị Ðạt-lai lạt-ma thứ 14 đang sống nơi
đây. Trong những năm năm mươi của thế kỷ này, đây cũng là chỗ ẩn cư của hai nhà
học giả phương Tây trứ danh Govinda, Evans-Wentz. Trước đó mười hai thế kỷ,
vùng rừng núi miền Bắc Ấn này đã ghi dấu chân của nhiều lữ hành trong đó có
Huyền Trang, nhà dịch kinh xuất chúng đời Ðường của Trung Quốc. Mãi nhiều năm
về sau tôi mới biết rõ miền Bắc Ấn này là chỗ hoạt động của một vĩ nhân của
loài người tên gọi là Thích-ca mâu-ni và mình sẽ lên đường tìm lại bước chân
của người ấy. Nhưng đó là chuyện về sau của sách này.
Trên đường đi qua miền Bắc Ấn ở đâu
ta cũng thấy một màu xanh thuần tịnh và êm dịu. Các vạt mía mọc tràn lan nhắc
tôi nghĩ đến các tỉnh miền trung Việt Nam, các hồ đầy sen trắng làm tôi
nhớ đường sông đi vào chùa Hương ở miền bắc. Những chiếc xe bò lọc cọc gõ đường
làm tôi tưởng thời gian như ngừng trôi kể từ mấy thế kỷ qua.
Chiếc xe vững vàng leo núi làm tôi
dần dần bớt thành kiến với nền công nghiệp ô-tô Ấn Ðộ. Nhìn xuống hang sâu vực
thẳm, kẻ có kinh nghiệm đi đèo Hải Vân từ bé như tôi cũng thấy ớn lạnh. Không
ai dám nói gì với ông tài xế, ông hãy cứ thắp nhang đi trong chiếc taxi của
mình, mùi nhang này không còn làm tôi thấy khó chịu nữa. Các vị thần Ấn Ðộ giáo
cứu độ ông chắc hẳn cũng không hẹp hòi từ chối mấy người phương tây và một
người Việt Nam
ngoại đạo.
Lên đến nơi chúng tôi mới hay Simla
không hề là một chỗ đèo heo hút gió mà là một thành phố giàu sang nằm trên một
dãi đất bằng dài đến 12 km, cao hơn 2200m, trên sườn tây bắc của một chân núi
Hy-mã. Thì ra đây là một nơi nghỉ mát mà những người Anh khôn ngoan ngày xưa đã
xây cất để tránh cái nóng khủng khiếp của Ấn Ðộ trong mùa hè. Năm 1822 đã có
một viên đại tá tên là Kennedy tìm đến đây và xây một ngôi nhà nghỉ mát và sau
đó Simla trở thành chỗ lui tới cho giới quí tộc người Anh và Ấn. Chỗ này chắc
hẳn cũng như Ðà Lạt của Saigon xa xưa, dành cho giới thượng lưu thời đó. Khí
hậu ở đây quả nhiên hết sức dễ chịu, chỉ mới mấy tiếng mà tôi đã quên Delhi bị vây bọc trong bụi
bặm và khốn khổ. Ði bộ trên những con đường ngược dốc ngược lên cao, chúng tôi
tìm đến những vị trí đặc biệt, vị trí có thể ngắm nhìn những đỉnh núi trên bảy
ngàn mét.
Ðây chính là vùng mà Huyền Trang rời
cao nguyên Kashmir xuống đồng bằng Ấn Ðộ, sau khi băng qua sa mạc Gobi và đường
phía bắc núi Thiên sơn, nhắm hướng “Tây Vực” mà đi. Và mười hai thế kỷ trước,
Huyền Trang cũng từ đây mà xuống đồng bằng, nếm mùi cái nóng Ấn Ðộ mà ông gọi
là “trời nóng như thiêu” trong Ðại Ðường Tây Vực ký. Ngày xưa Huyền Trang hẳn
đã ngắm nhìn những đỉnh tuyết trắng của dãy Hy-mã mà quê hương Lạc Dương của
ông không hề có.
Tại Simla, ngắm nhìn những đỉnh núi
tuyết, lần đầu tiên tôi bị một một chấn động tâm linh. Núi trắng xóa hiện ra
rực rỡ dưới ánh mặt trời. Làm sao tả được những đỉnh núi? Núi gây cho tôi một
ấn tượng uy nghi, xa cách nhưng nhân hậu. Ðỉnh núi thuần tịnh màu tuyết trắng -
cũng như ánh mặt trời rực rỡ - chiếu rọi không phân biệt cho những ai hướng về
nó. Núi vương giả nhưng không chút kiêu mạn, núi chào đón nhưng không vồn vã,
núi đứng đợi con người đến với mình. Thế nhưng những ngọn núi cũng có sự khác
biệt. Nói như Govinda, mỗi ngọn núi có một “nhân cách” và mỗi ngọn núi thiêng
đều có thần.
Trong “Con đường mây trắng” Govinda
viết: “Muốn nhận rõ kích thước một ngọn núi ta phải đứng ra xa nó; để thâu nhận
dạng nó vào lòng ta phải đi quanh nó; để hiểu vui buồn của nó ta phải biết quan
sát nó trong mọi thời khắc của ngày của năm: lúc mặt trời mọc và lặn, giữa trưa
và trong sự tĩnh lặng nửa đêm, trong những ngày mưa tối và dưới bầu trời xanh,
trong tuyết mùa đông và giữa những cơn bão. Ai biết ngọn núi theo cách này,
người đó sẽ đến gần với tính cách của nó, nó có tự tính sống động và đa dạng
như của con người”. Và theo Evans-Wentz, người đã sống rất lâu dưới chân Hy-mã
lạp sơn thì dãy núi dài trên 24.000 km này có gần chục ngọn núi thiêng và sự
việc châu Á là gốc của mọi ánh sáng minh triết “không hề là một sự ngẫu nhiên”.
Vùng này là cực bắc Ấn Ðộ, giáp giới
Trung Quốc. Những người cùng đi với tôi dơ tay giới thiệu ngọn này ngọn kia cao
bao nhiêu mét, chúng còn nằm trong địa phận Ấn Ðộ hay đã ở phía Trung Quốc. Tôi
bỏ ngoài tai câu chuyện biên giới. Không quan trọng gì nó nằm ở đâu, những ngọn
núi này đâu phải để con người cai quản. Chúng trường tồn với thời gian, còn
biên giới quốc gia có thể vài mươi năm đã thay đổi. Thậm chí các dân tộc có thể
biến mất trên hành tinh này nhưng núi non vẫn còn. Hơn thế nữa gốc của núi non
là siêu thế gian, những gì chúng xuất hiện cho ta thấy chỉ là một phần rất nhỏ
của chúng. Ðừng đem chuyện thế gian mà đo lường chuyện siêu thế.
Lần này tôi chưa được thấy Everest
nhưng chục năm về sau tôi sẽ thấy. Thế nhưng Everest chưa phải là thiêng liêng
nhất vì chiều cao chưa nói lên điều hệ trọng. Cách chỗ tôi đứng ngày đó chưa
đầy hai trăm cây số đường chim bay về hướng Ðông Bắc có một đỉnh tên gọi là
Ngân sơn, chỉ cao 6714 m, nhưng đó là chốn thiêng liêng nhất, là trú xứ của
thánh thần, là hiện thân của núi Tu-di trong thế giới vật chất này. Ðây là ngọn
núi mà cả Ấn Ðộ Giáo lẫn Phật Giáo xem là quan trọng nhất trong rặng Hy-mã. Ðó
là ngai vàng của thần Shiva của tín đồ Ấn Ðộ giáo và là man-đa-la vĩ đại của
Phật giáo Tây Tạng. Ðỉnh của Ngân sơn chính là trục của vũ trụ siêu hình. Ðỉnh
này tôi chưa được đến đảnh lễ. Liệu đời tôi có ngày đến được nơi đó chăng?
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT