Trong thế kỷ thứ hai sau công nguyên
có ba trung tâm phát triển Phật giáo, tại Trung Quốc và Việt Nam (Giao Chỉ). Ngoài Lạc Dương
được nhiều người biết, ta phải kể đến Bình Thành tại tỉnh Sơn Tây Trung Quốc và
Luy Lâu, ngày nay thuộc tỉnh Bắc Ninh Việt Nam.
Theo tài liệu lịch sử, Bình Thành
được xây dựng rất sớm, khoảng trong thế kỷ thứ 5 trước công nguyên. Thị trấn
này ngày nay là Đại Đồng, cách Bắc Kinh khoảng 350km về hướng tây, được Vạn lý
trường thành bao bọc hai mặt, là một vị trí chiến lược. Trong thời Hán Sở tranh
hùng trước công nguyên, Hạng Vũ diệt nhà Tần, đốt phá Hàm Dương (phía bắc
Trường An) và rút quân về đóng ở Bình Thành. Về sau Hạng Vũ bị Lưu Bang diệt.
Khoảng sáu trăm năm sau, thời mà lịch sử Trung Quốc gọi là Nam Bắc Triều [420-588],
Trung Quốc bị chia làm hai miền Nam-Bắc, mỗi miền lại chia ra nhiều nước nhỏ.
Trong các nước Bắc Triều có một nước gọi tên là Bắc Ngụy của nhà vua Đạo Vũ đế.
Đạo Vũ đế lấy Bình Thành làm kinh đô năm 398, thống nhất phương Bắc năm 439,
trở thành một nước có uy thế.
Đạo Vũ đế rất sùng tín đạo Phật.
Trong thời Bắc Ngụy có hàng ngàn tăng sĩ Ấn Độ, Tây Vực đến đây, tu sĩ lên đến
hàng chục vạn người, chùa chiền hơn 30.000 ngôi. Nhưng hình như sự vật lúc nào
lên đến đỉnh cao nhất lại bị hoại diệt nên cũng trong thời Bắc Ngụy, đạo Phật
bị pháp nạn. Đây là pháp nạn lần thứ nhất trong bốn pháp nạn [11] của Phật giáo
tại Trung Quốc.
[11]
Bốn pháp nạn là trong các thời vua Vũ Đế của Bắc Ngụy, một vị Vũõ Đế khác của
Bắc Châu [574], Võ Tôn đời Đường (840-847] và Thế tôn thời Hậu Châu (giữa thế
kỷ thứ 10]. Bốn pháp nạn này được gọi chung là "Tam Vũ Nhất Tôn pháp
nạn"
Pháp nạn này do nhà vua Thái Vũõ Đế
gây ra. Thái Vũ Đế là con của Đạo Vũ Đế, mới đầu cũng tin tưởng đạo Phật. Thế
nhưng ngày nọ, ông thân hành đi dẹp loạn, thấy trong một ngôi chùa có vũ khí.
Chùa bị dèm pha, Thái Vũ Đế hạ chiếu chỉ dẹp bỏ đạo Phật, tàn sát vô số tăng
sĩ. Đó là năm 446. Sau đó không ai được chứa chấp tăng ni, chùa chiền tranh
tượng bị phá hủy. Thế nhưng Thái Vũ Đế lại có một người con tôn trọng đạo lý,
đó là thái tử Thác Bạc Hoảng. Vị thái tử mật báo tăng ni trốn lánh, đem kinh
sách tranh tượng đi cất giấu trong núi non gần đó và cũng vì thế mà bị mưu hại.
Sáu năm sau, Thái Vũõ Đế mất, ông
chỉ sống được 45 tuổi. Em của thái tử Hoảng là Thác Bạc Duệ lên ngôi là Văn
Thành Đế, lúc đó tăng ni trong núi mới dám trở lại hoằng pháp. Nhà vua Văn
Thành Đế là người trọng đạo lý, tạ lỗi cho cha bằng cách cho xây dựng "Vân
Cương thạch quật" ở sườn nam núi Ngô Châu, cách Bình Thành 16km. Nhà sư
Đàm Diệu là người khởi công xây dựng, để danh lại đến ngày hôm nay. Vân Cương
là một trong ba thạch động nổi tiếng nhất của Trung Quốc, hai nơi kia là Long
Môn và Đôn Hoàng.
Qua năm 494, triều Ngụy dời đô về
Lạc Dương, vì thế mà Bình Thành và Vân Cương chìm vào quên lãng. Hơn bốn trăm
năm sau, năm 907, đó là thời nhà Liêu bắt đầu trị vì một vùng miền Bắc bao la
của Trung Quốc, vương triều có đến năm kinh đô mà một là Bình Thành, lúc đó đã
mang tên Đại Đồng. Trong thời đó tại Đại Đồng, Hoa Nghiêm tự được xây dựng, Vân
Cương thạch động nhờ thế mà cũng được tu bổ thêm.
Tôi đến Đại Đồng từ Bắc Kinh bằng xe
lửa chạy đêm. Đại Đồng nằm trên độ cao khoảng 1200m, tàu chạy trên những cao
nguyên ngút ngàn vùng bắc Trung Quốc, qua những ruộng lúa mì, ngô, hướng dương.
Đi xe lửa mới thấy cái mênh mông của nước này, trên bản đồ hai nơi xa nhau
không bằng đầu ngón tay út mà tàu chạy cả đêm không thấy tới. Tàu đến ga Đại
Đồng lúc trời còn sáng tinh sương, đúng là lúc thợ thuyền hối hả đi làm. Họ là
những người thợ mỏ than, Bình Thành ngày nay đã trở thành kinh đô than đá của
Trung Quốc! Than đá xem ra quan trọng hơn kinh điển.
Nó làm ra điện để công nghiệp hóa
đất nước. Cũng đúng thôi! Đại Đồng là một thành phố kỹ nghệ, anh hướng dẫn du
lịch hãnh diện kể như thế, là thành phố lớn thứ 12 của Trung Quốc, với than đá
vô tận và công nghiệp chế tạo thiết bị cho ngành nông lâm nghiệp. Xe đi một
vòng trong Đại Đồng, trung tâm Phật giáo Bình Thành mà tôi hào hứng muốn tới thăm
ngày nay khắp nơi được phủ bằng một lớp bụi than mờ mờ. Tôi được đưa vào một
khách sạn ăn sáng lấy sức sau một đêm đi xe lửa, tên nó là khách sạn "Vân
Cương".
Đúng thế, tôi đến đây để thăm công
trình đồ sộ của Vân Cương thạch quật mà tiền nhân của các anh thợ mỏ này đã tạo
tác từ 15 thế kỷ trước. Cả những người thợ mỏ ngày nay lẫn những nghệ nhân ngày
xưa, họ cũng là những người vào núi đập đá, đục đẽo, chịu gian khổ từ năm này
qua năm khác, những con người chân cứng đá mềm, đem mồ hôi và cả xương máu để
làm nên sự nghiệp cho đất nước họ, dù đó là công trình văn hóa hay công nghiệp.
Và như Blofeld đã từng ca tụng, đây
quả là một thạch quật vĩ đại. Công trình này có 53 động chạy dài khoảng 1km từ
đông sang tây, gồm 51.000 tượng Phật mà tượng lớn nhất cao 17m, tượng tí hon
nhất chỉ cao 2cm. Phần lớn tượng được tạc trong thời Bắc Ngụy, từ năm 460 đến
năm 494. Một ít tượng khác được hoàn thành trong thời nhà Đường [618-907].
Trong các động, ngoài tranh tượng ta còn thấy các Kinh được minh họa bằng các
tượng đá khắc nổi trên tường, đó là một nghệ thuật Phật giáo độc đáo mà ta hay
thấy tại Trung Quốc, được gọi là "biến tướng" của kinh. Tại Vân
Cương, biến tướng của Duy ma cật sở thuyết kinh [12] được trình bày. Về sau tại
các thạch quật Bảo đỉnh sơn hay Bắc sơn, tôi còn được thấy các biến tướng của
các Kinh khác.
[12]
Vimalakirtinirdesa-sutra
Trong nắng sớm tôi ngắm nhìn các
động cả thạch quật mà ngày nay chỉ còn khoảng 20 động có thể tham quan được.
Mới đầu công trình này để Văn Thành Đế sám hối cho vua cha, nhưng rõ ràng là cả
chục ngàn nghệ nhân đã sáng tạo nơi đây để cho giáo pháp trướng tồn với thời
gian, để lòng sùng tín của họ trở thành những tác phẩm nghệ thuật, để những gì
trong tim óc thành tháp tượng thấy được, sờ được. Vì nghệ thuật, nói cho cùng,
là quá trình biến những gì trừu tượng thành vật thể, đối tượng của năm giác
quan, dùng chúng mà diễn tả lại lòng cảm khái, sự rung động nội tâm.
Động số 3 là động lớn nhất với tượng
Phật và hai vị Bồ-tát. Sau đó là động số 5 với bức tượng lớn nhất của Vân Cương
cao 17m. Động số 6 chứa một cột đá cao 16m, trình bày cuộc đời đức Phật. Động
17 chứa tượng Di-lặc ngồi tréo chân, một thế ngồi thiền định ít thấy. Trong
động 18 có tượng Phật Thích-ca mâu-ni mà trong vạt áo là vô số các vị Bồ-tát.
Quá nhiều động và quá nhiều hình tượng, khách tham quan có lẽ không mấy ai xem
được kỹ. Chỉ ngắm tượng thôi mà người ta đã hết sức, hãy nhớ đến gian khổ của
người xưa, tôi tự nhủ.
Cuối cùng là động 20, đó là động
chứa bức tượng Phật Thích-ca, cao 13,7m, đây là nơi được xem là biểu tượng cho
Vân Cương thạch động. Tiếng tụng kinh của Phật tử vang trong nắng và mùi hương
trầm quen thuộc của Trung Quốc làm tôi nhớ những ngày ở Ấn Độ. Hình ảnh của
"người con trai vĩ đại của Ấn Độ" [13] đã qua đến đây từ thế kỷ thứ
nhất và nghệ thuật tạc tượng của Gandhara (ngày xưa thuộc về Ấn Độ) cũng đã
định hình tại Trung Quốc, tại Vân Cương này trong thế kỷ thứ năm. Đó là nền
nghệ thuật tạc tượng của Phật giáo đại thừa, xem Phật là Ứng thân, là nhân dạng
của Pháp thân không sinh không diệt. Nền nghệ thuật đó gặp gỡ những đầu óc ưa
làm chuyện vĩ đại của người Trung Quốc để sinh ra những tượng Phật khổng lồ mà
họ gọi là "Đại Phật", những thạch quật đồ sộ mà Vân Cương mới chỉ là
một.
[13]
Cách dùng chữ của W.Schumann
TỪ HẰNG SƠN ĐẾN QUANG MINH
ĐỈNH
Trung Quốc là xứ sở của núi non hùng
vĩ. Trong những rặng núi đó có nhưng ngọn đã trở thành thiêng liêng, là
"đạo trường" của Bồ-tát như Ngũ Đài sơn của Văn-thù, Nga Mi sơn của
Phổ Hiền, Cửu Hoa sơn của Địa Tạng và Phổ Đà sơn của Quan Âm. Đó là "tứ
đại danh sơn" mà về sau sẽ được nhắc tới.
Song song, Trung Quốc còn có năm
rặng núi thiêng khác được gọi là Ngũ Nhạc với trung tâm và bốn hướng đông tây
nam bắc. Đó là Tung sơn ở trung tâm, thuộc tỉnh Hà Nam; Thái sơn phía đông,
thuộc tỉnh Sơn Đông; Hoa sơn, phía tây thuộc tỉnh Sơn Tây; Hành sơn phía nam,
thuộc tỉnh Hồ Nam và Hằng sơn phía bắc thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngũ Nhạc là nơi
"trời đất giao nhau", nơi các đời vua chúa từ 2000 năm nay đến cầu
đất nước thái bình thịnh trị.
Trung Nhạc Tung sơn, cách Lạc Dương
khoảng 50km phía đông nam, đỉnh cao nhất là 1440m. Tại Tung sơn, Thiếu Lâm tự
được xây dựng năm 495, nó là quê hương của Thiền tông Trung Quốc, võ lâm bắc
đẩu. Đây là ngôi chùa mà khoảng năm 520 Bồ-đề Đạt-ma đã đến đây, quay mặt vào
tường chín năm và cuối cùng truyền tâm cho Huệ Khả.
Đông Nhạc Thái sơn được xem là rặng
thiêng liêng nhất, đó là rặng núi của Đạo giáo. Nằm về phương đông, phía mặt
trời mọc, Đông Nhạc là nơi vua chúa thân hành đến tế trời đất từ hơn 2000 năm
nay. Chỗ cao nhất của Thái sơn đo được 1545m. Thái sơn là nơi thờ thần Thái Sơn
phủ quân của Đạo giáo, vị thần thống lĩnh đời sống trần gian, chỉ nghe lệnh của
Ngọc Hoàng thượng đế. Đền cao nhất của Thái sơn là đền Ngọc Hoàng, cao 1524m.
Tây Nhạc Hoa sơn là rặng núi cũng
với năm đỉnh đông tây nam bắc và trung tâm, mà đỉnh cao nhất là Liên hoa đỉnh,
cao 2100m. Giữa năm đỉnh đó là con đường đá đi từ vách này qua vách khác mà cứ
mỗi bước chân là dẫn đến một phong cảnh khác lạ. Ngày nay trên Hoa sơn người ta
còn thấy một phiến đá phẳng. Huyền sử chép rằng đó là chỗ Triệu Khuôn Dẫn, thái
tổ nhà Tống, đánh cờ với Trần Đoàn, đạo sĩ trường sinh bất tử. Triệu Khuôn Dẫn
thua, phải nhường Hoa sơn cho đạo sĩ.
Nam Nhạc Hành sơn có đến 72 đỉnh mà
đỉnh cao nhất đo được 1290m. Tương truyền rằng trên đỉnh Tử Cái, một đỉnh cao
của Hành sơn, nhà vua thần kỳ Hoàng Đế đã hội nghị với các chư hầu miền nam.
Đến thế kỷ thứ 20 (trước công nguyên), có nhà vua tên Vũ, cháu năm đời của
Hoàng Đế, hậu duệ của Nghiêu Thuấn, là kẻ khai sáng đời nhà Hạ (thế kỷ 21-16].
Ông lên đây quan sát địa thế để vạch kế hoạch trị thủy, ngày nay còn để lại
danh thơm. Tại Nam Nhạc Hành sơn hiện còn có rất nhiều đền đài của Đạo giáo và
Phật giáo.
Bắc Nhạc Hằng sơn nằm cách Đại Đồng
khoảng 75km là một rặng núi mênh mông với đỉnh phía bắc cao 2017m. Trên đỉnh
phía bắc này ngày nay còn lại đền thờ lớn nhất của Hằng sơn, xung quanh là rừng
thông bao phủ. Trên sườn núi Hằng sơn có nhiều đền đài mà nổi tiếng nhất là
Huyền Không tự, tức là "chùa treo". Chùa này được tôn là một trong
mười thắng cảnh của tỉnh Sơn Tây. Huyền Không tự quả nhiên như treo cheo leo
trên sườn núi. Từ xa người ta tưởng là sườn Hằng sơn được vẽ tạc hình một ngôi
chùa, tới gần mới hay đó là một tổng thể khoảng 40 điện thờ nhỏ bé với rất
nhiều tượng Phật, Bồ-tát. Các điện này được xây dựng trong thế kỷ thứ sáu, nối
với nhau bằng các hành lang gỗ, nằm cheo leo trên sườn núi, được chống bằng
những cột sắt.
Tôi đến Hằng sơn vào buổi trưa, nghỉ
trong một quán mang tên "Hằng sơn tửu điếm". Nghe tên Hằng sơn, lòng
tôi đã rộn rã, bỗng nhớ Kim Dung và Lệnh Hồ Xung của ông vô cùng. Cám ơn Kim
Dung, ông là người làm tôi biết và yêu mến một nước Trung Quốc trừu tượng trong
ký ức. Quá khứ tôi bỗng hiện về rõ mồn một, tôi nhớ những năm của đầu những năm
sáu mươi, khi truyện của Kim Dung còn đăng báo ngày và mình nằm dài trên nền
nhà đọc tờ Tiếng Vang, trong đó có Cô Gái Đồ Long.
Kim Dung đưa tôi đi khắp Trung Quốc
với các địa danh tuy xa lạ nhưng rất thú vị như Động Đình Hồ, Ngũ Nhạc, Thiếu
Lâm tự. Quan trọng hơn, ông khắc họa cho tôi về một xã hội Trung Quốc tuy xa
vời vợi như hoang đường nhưng hết sức gần gũi hầu như ta có thể tìm thấy mình
trong đó. Tôi vẫn nhớ Kim Dung trong mỗi bước đi tại Trung Quốc, trong mỗi dòng
viết về Trung Quốc. Vì thế tôi rất để ý tìm hiểu Khưu Xứ Cơ, Vương Trùng Dương,
Trương Tam Phong, những nhân vật có thật, tiền bối của Trương Vô Kỵ. Tôi thích
nhắc tới Chu Nguyên Chương không phải vì ông là thái tổ nhà Minh, cũng không
phải ngày trước ông là tăng sĩ, mà vì ông là nhân vật có thật trong Cô Gái Đồ
Long, được kể lại trong truyện lúc Trương Vô Kỵ bắt đầu sống đời nhàn nhã với
Triệu Minh.
Với Cô Gái Đồ Long, Kim Dung đã vẽ
nên một xã hội hiện thực của loài người, trong đó thiện ác lẫn lộn, ánh sáng và
bóng tối chồng lên nhau nhiều lớp, cái phải cái trái tồn tại song hành cùng một
lúc trong xã hội và trong tâm lý con người. Chính phái và ma giáo tưởng chừng
như hai thái cực đối lập với nhau đã hòa với nhau, trong chính phái có những
hành động hết sức đen tối và trong ma giáo có những con người đáng làm thầy của
những kẻ tưởng mình đi trên đường vương đạo. Và nhất là Kim Dung đã cho tình
yêu nảy nở giữa những con người mà quê hương chính tà của họ cách nhau vạn dặm,
cho thấy những giá trị thuộc đầu óc lý luận chưa bao giờ thay thế tiếng nói sâu
thẳm của trái tim.
Sau Cô Gái Đồ Long, Kim Dung còn một
kiệt tác, đó là Tiếu Ngạo Giang Hồ, bản thân ông đã già dặn hơn rất nhiều sau
các tác phẩm trước. Với Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung đã vẽ một toàn cảnh đương
đại với một khung xã hội và chính trị rộng lớn, trong đó con người vừa là kẻ đạo
diễn mọi điều xảy ra trên sân khấu, vừa chịu cảnh vui buồn của những gì do mình
bày ra. Tác phẩm này đã một thời làm tôi biết nhìn cuộc đời không phải chỉ gồm
hai màu đen trắng.
Thế nhưng cần nói thêm là, với số
tuổi ngày nay, tôi càng nhận ra rằng đó là một tác phẩm phản ánh sâu sắc kiếp
nhân sinh, xót xa thay số phận con người nằm trong mọi sự xô đẩy của những ngọn
sóng lành dữ khác nhau, những đam mê đầy nhân tính, những âm mưu Quỷ quyệt.
Cũng trong bức tranh đầy những mảng tối sáng đó, con người với tình yêu của nó
mới sáng lên tính cá thể của mình. Và ngay cả tình yêu tưởng chừng là một điều
rất riêng tư cũng không bao giờ trọn vẹn, Lệnh Hồ Xung của Kim Dung tuy hạnh
phúc hòa hợp với Doanh Doanh nhưng chàng vẫn tưởng nhớ đến một tình yêu vô
vọng.
Với Tiếu Ngạo Giang Hồ, tôi biết đến
Ngũ Nhạc và ngày nay đến đây, lòng tôi sao khỏi có niềm rộn rã kính trọng. Hằng
sơn tửu điếm này nằm ngay dưới chân Hằng sơn của phái Nga Mi phải là nơi giang
hồ đã lắm người qua lại, nơi Lệnh Hồ Xung và Đào cốc lục tiên ghé ăn nhậu còn
nàng Nghi Lâm mà tôi yêu mến chắc không khi nào dám vào. Tiểu nhị đem bánh bao
ra! Thì ra bánh bao là một thứ người Trung Quốc hay ăn như ta ăn cơm, và ta ăn
cơm trắng thì bánh bao của họ trắng trơn không nhân.
Tôi thử chiếc bánh bao và công bằng
mà nói thì thấy nó nhạt nhẽo, không hiểu tại sao đại hán ngày xưa ăn "mấy
cân bánh bao" một lúc. Và rượu thì ngày xưa hẳn Đào cốc lục tiên uống
không bao giờ đủ, ngày nay người Trung Quốc uống bia. Như tại Việt Nam, ở đâu cũng
có bia, tỉnh nào cũng có hiệu bia, chai nào chai nấy to gần cả lít. Bia Thanh
Đảo nổi tiếng nhất, nhưng tại rặng Cửu Hoa sơn xa xôi cũng có bia Cửu Hoa.
Nhớ chàng trai Trương Vô Kỵ tôi
không thể không nhớ đến Quang Minh Đỉnh. Đó là sào huyệt của Ma giáo mà chàng
đã lần mò theo một ông hòa thượng leo lên tới. Nhưng Quang Minh Đỉnh có thật
chăng?
Quang Minh Đỉnh là một đỉnh của rặng
Hoàng sơn. Hoàng sơn là đệ nhất danh sơn của Trung Quốc. Ngũ Nhạc đã đẹp nhưng
Hoàng sơn vượt xa Ngũ Nhạc.
(Hình trích của "Huangshan in China",
Publishing house of China National, Academy of fines Arts, 1994]
Hoàng sơn nằm trong tỉnh An Huy, là
một rặng núi có 72 đỉnh mà đỉnh cao nhất là Liên Hoa đỉnh (1860m) và sau đó là
Quang Minh Đỉnh (1840m). Huyền sử chép rằng nhà vua Hoàng Đế đến đây để luyện
linh đan sống ngàn năm nên núi có tên Hoàng sơn. Ngày nay dưới chân Hoàng sơn
là một thành phố có sân bay, đến từ Hàng Châu, Thượng Hải rất tiện.
Nhà du khảo nổi tiếng đời Minh, Từ
Hà Khách, là tác giả của "Từ Hà Khách du ký", một tác phẩm có giá trị
về văn hóa và khoa học. Ông đã đến đây và thốt lên:"Đến Ngũ Nhạc thì không
kể mọi danh sơn khác, đến Hoàng sơn thì không kể Ngũ Nhạc". Hoàng sơn thật
là một cảnh non bồng nước nhược với bốn đặc tính: sườn núi như vách dựng đứng,
rừng thông đầy hình thù kỳ dị, thế đá lạ lùng bí hiểm và cảnh mây bọc núi, núi
xuyên mây. Hoàng sơn là nơi thống nhất uy danh của các núi lớn: cái tôn quí của
Thái sơn, màu hoang dã của Hoa sơn, biển mây mênh mông của Hằng sơn, thác nước
cuồn cuộn của Lư sơn và phong thái thần tiên của Nga mi sơn. Hoàng sơn chính là
đối tượng sơn thủy của tranh thủy mặc từ nhiều ngàn năm nay. Trên sườn Hoàng
sơn vào mùa xuân người ta chỉ thấy một vùng trắng như tuyết nhưng không phải
tuyết, hỏi ra thì đó là Đào hoa phong, đỉnh chỉ trồng hoa đào.
Tôi đến Hoàng sơn để ngắm những ngọn
núi hầu như cổ tích này. Trung Quốc mênh mông và quá nhiều cảnh đẹp, nếu chỉ
thăm một núi thì đó là Hoàng sơn; nếu chỉ thăm một hồ thì đó là Tây hồ ở Hàng
Châu. Nằm dưới chân Hoàng sơn lại còn có một thị trấn còn giữ lại được từ thời
nhà Tống, thế kỷ thứ 9, thứ 10. Thị trấn này làm tôi nhớ đến Hội An, ngày nay
nó là cũng chỗ bán đồ lưu niệm nhưng nó cổ hơn Hội An khoảng 400 năm và toàn bộ
nhà cửa ngày xưa còn nguyên vẹn suốt cả một con đường dài vài km.
Hoàng sơn là đệ nhất danh sơn,
"đến Hoàng sơn thì không kể Ngũ Nhạc", đó phải là lý do mà Ma giáo đã
một thời chọn Quang Minh Đỉnh làm ngai vàng để muôn năm trường trị, thống nhất
giang hồ, chống lại các chính phái. Đến Hoàng sơn tôi hiểu thêm rằng, những gì
mình đọc Kim Dung ngày xưa là một sự phối hợp tài tình giữa lịch sử và địa lý
có thật của Trung Quốc, hòa trong nền tảng thực tế của đạo lý, tâm lý và xã hội
của đất nước này, cùng với tài hư cấu tuyệt vời để khắc họa những trong nhân
vật, sáng tạo những hành động và cảnh ngộ vừa hoang đường vừa hiện thực.
Cuộc ác chiến trên Quang Minh Đỉnh
không hề có thực nhưng Hoàng sơn, ngọn núi nằm tại hạ lưu sông Dương Tử, là kẻ
chứng kiến những trận chiến đẫm máu suốt trong lịch sử Trung Quốc. Trước công
nguyên tại vùng này đã xảy ra cuộc Hán Sở tranh hùng, cuối cùng Hạng Vũ thua,
tự tử tại Cai Hạ trên bờ Dương Tử. Trước đó, Ngô Phù Sai cũng bị Việt vương Câu
Tiễn tiêu diệt nơi đây. Đầu thế kỷ này, đây cũng là nơi Nhật và các nước phương
tây xâu xé Trung Quốc. Và, làm sao khác được, cũng chính đây là nơi phát sinh
các cuộc cách mạng vũ bão tại đất nước mênh mông này.
Tôi đến Hoàng sơn, hoa đào trên đỉnh
Đào hoa phong vẫn nở trắng trinh nguyên như ngày trời đất mới mở hội. Tất cả,
những gì hư cấu hay có thực, đã chìm trong lịch sử. Mầu nhiệm thay, thời gian.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT