Mọi người đưa mắt nhìn nhau, không ai nói gì.
Người đàn ông đeo kính quét mắt một vòng, giọng trầm xuống:
“Nếu đi thẳng thì rõ ràng nguy hiểm, nhưng nước và điện ở trạm dừng có thể bị cắt bất cứ lúc nào, chúng ta cũng không trụ nổi lâu.”
“Hay là…”
Có người rụt rè mở miệng:
“Lại cử thêm mấy người ra ngoài xem sao?”
Lập tức có người bác bỏ:
“Gửi ai đi? Mấy người kia chưa quay lại, có khi đã chết ngoài đường rồi! Ai dám ra nữa? Cậu đi không?”
“… Nhưng cứ ngồi đây chờ chết cũng không được.”
“Có khi chẳng có gì nguy hiểm, biết đâu họ bỏ chạy trước rồi!”
“Không thể nào! Hành lý của họ còn nguyên ở đây…”
Tiếng tranh cãi mỗi lúc một to, có dấu hiệu sắp nổ ra ẩu đả.
Bạch Ấu Vi lặng lẽ quan sát người đàn ông đeo kính, thấy giữa chân mày anh ta thoáng hiện vẻ chán ghét và khinh thường. Chắc là anh ta cũng thấy bất lực, vì muốn sống mà phải dựa vào đám người tầm thường và ích kỷ này.
Cô nghiêng đầu, liếc Thẩm Mặc như muốn nói:
"Thấy chưa, tôi bảo đám người này chẳng trông cậy được mà."
Thẩm Mặc chỉ mỉm cười nhạt, không bình luận gì.
Cuộc họp vốn để bàn bạc đối sách, cuối cùng lại biến thành buổi đổ lỗi tập thể. Nếu không nhờ người đàn ông đeo kính thỉnh thoảng lên tiếng xoa dịu, có lẽ đã đánh nhau từ lâu.
Đúng lúc đó, cả căn phòng bỗng tối đen.
Người nhát gan lập tức hét toáng.
Lại có người quát lên:
“Hét cái gì! Mất điện thôi, tự hù mình à?!”
Một lúc sau, khi mắt đã quen với bóng tối, mọi người luống cuống rời khỏi nhà ăn. Người đàn ông đeo kính gọi hai người đi kiểm tra cầu dao.
Không có điện, ai nấy chỉ biết ngồi chờ, chẳng làm được gì.
Bạch Ấu Vi ngẩng đầu nhìn trăng và sao. Trời đêm mênh mông tĩnh lặng, bao phủ mặt đất, khiến con người dưới ánh trăng trở nên nhỏ bé đến đáng thương.
Bóng tối dường như ẩn chứa một sức mạnh thần bí, càng nhìn lâu càng khiến người ta rùng mình.
Bầu không khí bắt đầu xao động.
Người đàn ông đeo kính quay lại thông báo rằng cầu dao không hỏng mà cả trạm dừng đều mất điện. Có thể chẳng bao lâu nữa, nước cũng sẽ bị cắt.
Không khí lập tức trở nên nặng nề, ngột ngạt.
Bạch Ấu Vi nghĩ bụng, đám người này thật hết thuốc chữa. Ngoài anh đeo kính ra, không một ai có chủ kiến cả.
“Ừm…” Một ông lão trong đám đông do dự lên tiếng:
“Hay là… chúng ta nghĩ cách rời khỏi đây đi?”
Người bên cạnh nói:
“Thầy Thừa, không phải từ nãy giờ chúng ta vẫn đang nghĩ cách đó sao? Thầy nói vậy chẳng khác gì không nói.”
Ông lão được gọi là thầy Thừa, trạc sáu mươi tuổi, tóc hoa râm, người gầy gò mặc chiếc áo sơ mi vải thô cũ kỹ, lưng hơi còng, trông rất bình thường.
Bị mỉa mai, ông đỏ bừng mặt, ấp úng:
“Tôi… tôi muốn nói là… không đi xe nữa, đi bộ. Chúng ta bị mắc kẹt ở đây không phải vì đường tắc, xe không đi được sao?”
Ông giơ tay ra hiệu:
“Chúng ta có thể chia nhóm hai người, cách nhau mười phút khởi hành, như vậy sẽ giảm bớt khả năng bị biến thành búp bê…”
“Thầy Thừa, xin thầy đừng thêm rắc rối nữa. Không có xe thì đi đâu? Chúng ta đông người thế này, có người già có trẻ nhỏ, còn hành lý nữa, thầy bảo đi bộ tới Dương Châu bằng hai cái chân sao?”
“Đúng rồi, thầy toàn nói chuyện trên giấy, chả thực tế tí nào.”
Tiếng trách móc nối tiếp nhau vang lên, có vẻ mọi người muốn trút hết nỗi ức chế vì mất điện lên đầu ông lão.
Người đàn ông đeo kính đứng yên giữa đám đông, đối mặt với ánh mắt cầu cứu của thầy Thừa, anh ta lựa chọn làm ngơ. Có lẽ anh ta cũng thấy lời ông lão không sai, nhưng vào lúc này, anh ta đâu có nghĩa vụ phải đứng ra gánh thay người khác?
Sức ép sinh tồn đã tích tụ lâu ngày, thế nào cũng phải có một người trở thành vật hy sinh để cả đám trút giận.
Bạch Ấu Vi không muốn dính vào, cô mím môi, nói bằng khẩu hình với Thẩm Mặc:
“Đi thôi.”
Thẩm Mặc không nhúc nhích.
Cô lại nhẹ kéo tay anh, nhưng anh lại bước lên phía trước vài bước, cất giọng trầm:
“Xin mọi người yên lặng một chút…”