Ôn Minh Duy bị Đàm Chiếu đuổi xuống xe.
Một vị thiếu gia nào đó, kể từ khi trưởng thành chưa từng bị gọi là “bảo bối”, lúc này lại như con nhím bị chọc trúng bụng, xù lông vung vuốt đóng sập cửa xe lại, suýt nữa kẹp trúng tóc của Ôn Minh Duy.
Ôn Minh Duy đứng yên nhìn theo bóng xe lao đi như bay, cho đến khi không còn nghe thấy tiếng động cơ, nụ cười trên mặt anh mới dần tan biến, đêm hè ngắn ngủi vừa náo nhiệt bỗng trở lại yên tĩnh như cũ.
Khu nhà này gọi là Hải Uyển, cái tên nghe thì bình thường, nhưng lại nổi danh khắp nơi.
Tám năm trước, Ôn Minh Vi từ thành phố Long Đô, tỉnh Tân Châu chuyển đến đây, sống cũng khá thoải mái. Khác quan mà nói, môi trường sống tốt xấu trong mắt anh không khác nhau là mấy, điều kiện duy nhất là phải yên tĩnh, không bị quấy rầy.
Nếu Đàm Chiếu hiểu cuộc sống thường ngày của Ôn Minh VDuy, thì vừa rồi đã không thắc mắc vì sao trước đây chưa từng gặp anh ở khu này.
—— Vì Ôn Minh Duy hầu như không ra ngoài, nếu không có việc gì đặc biệt, một tháng nhiều nhất cũng chỉ bước chân ra khỏi nhà hai, ba lần.
Anh thực sự có mở một công ty dược, nhưng việc điều hành đều do cấp dưới phụ trách, bản thân anh thì không hề đi làm.
Công ty đó, nói là giúp anh kiếm tiền, chẳng bằng nói là để anh tiêu tiền: nuôi đội ngũ nghiên cứu, phòng thí nghiệm riêng, phát triển các loại thuốc mới không lưu hành trên thị trường, để thỏa mãn những nhu cầu bí mật mà người ngoài không ai hay biết.
Có thể là do trước khi ra ngoài tối nay đã dùng thuốc quá liều, sau cuộc gặp mặt vui vẻ với Đàm Chiếu kết thúc, Ôn Minh Duy vừa tản bộ về nhà, đột nhiên cảm thấy đau quặn bụng, tác dụng phụ bắt đầu phát tác.
Anh đã quá quen, biểu cảm không hề thay đổi chút nào, thậm chí giữa cơn đau rõ rệt ấy còn nhớ lại phản ứng vừa rồi của Đàm Chiếu, tâm trạng vì thế mà tốt hơn hẳn.
Cho đến khi anh bước vào cổng lớn, xuyên qua khu vườn, nhìn thấy trước cửa biệt thự có đậu một chiếc xe không phải của mình.
Chiếc xe đó bản thân chẳng có gì đặc biệt, là một dòng xe phổ thông, khoảng hai trăm vạn.
Nhưng biển số xe lại là UA00002.
Biểu cảm của Ôn Minh Duy cuối cùng cũng thay đổi, như thể cơn đau dạ dày thật sự vừa mới dâng lên. Nhưng cũng chỉ là thoáng qua, giây sau anh đã khôi phục vẻ điềm nhiên, thậm chí còn mang theo nụ cười bước vào cửa, không thèm để ý đến quản gia vừa ra đón, nói với người đang ngồi trong phòng khách: “Nguyên soái đích thân đến chơi, sao cậu không báo cho tôi trước?”
Cố Tinh đứng rất thẳng, trong mắt hiện rõ vẻ căng thẳng.
Cách anh hai mét, trên ghế sô pha ở giữa phòng khách, một người đàn ông tóc bạc đang ngồi xoay lưng lại phía cửa, nghe thấy giọng liền bật cười quay đầu lại, nói: “Là tôi bảo Tiểu Cố đừng nói, cậu hiếm khi ra ngoài thư giãn, tôi làm phiền cậu làm gì?”
Người này tuy tóc đã bạc, nhưng trên mặt không hề có nếp nhăn rõ rệt, cùng lắm cũng chỉ khoảng bốn mươi bảy, bốn mươi tám tuổi, chẳng liên quan gì đến từ “già”. Ngoại hình rất bình thường, ngũ quan không có điểm gì nổi bật, nhưng ánh mắt lại sâu thẳm đến khó lường, khiến người khác có cảm giác cực kỳ thâm sâu khó đoán.
—— Chính là đại nguyên soái Liên Minh thường xuyên xuất hiện trên bản tin: Trịnh Hoặc.
Ôn Minh Duy không truy cứu, phất tay ra hiệu cho Cố Tinh và quản gia rời khỏi, rồi tiện tay nhặt một sợi dây buộc tóc trên tủ, tùy ý buộc gọn tóc lại, bước đến ngồi trước mặt Trịnh Hoặc, tự rót cho mình một chén trà, nói: “Lâu rồi không gặp. Nguyên soái ghé thăm muộn như vậy, có chuyện gì gấp sao?”
Trịnh Hoặc: “Đừng cứ mở miệng là ‘nguyên soái’, nghe xa lạ quá.”
“Được thôi.” Ôn Minh Vi đổi giọng, trở lại cách gọi xưa, “Thầy.”
Tiếc là, nụ cười nơi khóe môi anh chẳng chạm đến đáy mắt, như thể giữa anh và người đối diện tồn tại một thứ khoảng cách không thể hóa giải, khó mà thân thiết được nữa.
Trịnh Hoặc nhìn anh chằm chằm, trầm mặc một lúc rồi khẽ thở dài, nói: “Minh Duy, cậu vẫn còn trách tôi.”
“Chuyện đã gần chín năm rồi, sao cậu vẫn không tin, rằng năm đó tôi đã làm hết sức mình, tất cả mọi người đều đã cố gắng hết sức. Nhưng Thanh Tranh cậu ấy... duyên với cậu đến đó là hết.”
Vẻ mặt Trịnh Hoặc đầy đau thương, nhưng lộ rõ nét gượng gạo giống hệt biểu cảm ông ta thường dùng khi phát biểu trước truyền thông: Nếu Thanh Tranh còn sống, thấy bộ dạng hiện giờ của cậu, chắc chắn cũng sẽ đau lòng. Dù sao cậu ấy cũng vì cậu mà…”
“Thầy” Ôn Minh Duy không nhịn được ngắt lời, “Tối nay thầy đến đây, có chuyện gì xin cứ nói thẳng.”
Trịnh Hoặc uống một ngụm trà, dùng nửa phút im lặng để thể hiện rằng mình cần điều chỉnh tâm trạng, rồi mới chậm rãi đi vào vấn đề chính, giọng điệu tuy cố gắng tỏ ra nhẹ nhàng nhưng vẫn mang theo vẻ nghiêm túc: “Vừa rồi, người của tôi chặn được một lô vũ khí lậu ở Nam Thái Bình Dương. Chuyện này... có liên quan gì đến cậu không?”
Ôn Minh Duy hơi khựng lại, trả lời rất dứt khoát: “Không, thầy biết tôi đã sớm không dính dáng gì đến mấy việc đó nữa rồi.”
Trịnh Hoặc chăm chú nhìn anh, như thể đang dò xét thật giả trong câu nói đó, một lúc sau mới nói: “Trên con tàu đó có biểu tượng của hoa diên vĩ đen”
“Vậy thì càng không thể là tôi. Thay vì nghi ngờ tôi, có lẽ người anh trai thứ hai nhà tôi - Ôn Minh Triết vẫn chưa chết hẳn, không cam lòng làm xác chết, lại muốn quay về nhân gian gây sóng gió, tìm chút cảm giác tồn tại đi.”
Trịnh Hoặc im lặng.
Một lúc lâu, đại khái nhận ra có hỏi thêm nữa thì cũng chẳng moi được thêm lời nào từ Ôn Minh Duy, ông thay đổi đề tài, nói: “Tôi nghe nói, tối nay cậu đã cùng cháu trai út của Đàm Anh Trác uống rượu?”
“...”
Ôn Minh Duy không trả lời.
“Vui vẻ khi chơi đùa với một tiểu tử sao?” Trịnh Hoặc như mang theo chút tiếc nuối, vỗ vỗ vai anh rồi nói: Cậu thật sự nên buông bỏ rồi, Minh Duy. Một người nếu quá chấp nhất vào tình cảm sẽ trở nên yếu đuối, cậu hiểu mà.”
Lời này tuy mang chút chân thành, đáng tiếc lại không đủ chân thành, giống như một kẻ đứng ngoài cuộc thương hại kẻ trong cuộc, từ trên cao đưa ra một lời bình lạnh nhạt.
Trịnh Hoặc thì quay người bước ra cửa. Khi đến trước cửa, ông ta đột nhiên quay đầu lại:
“Tháng sau là tròn chín năm ngày giỗ của Thanh Tranh. Tôi cùng cậu về Tân Châu được không?”
“Không cần.”
Trong tầm mắt của Trịnh Hoặc, Ôn Minh Duy cúi đầu, dường như dù đã bao năm trôi qua vẫn chưa thể thoát khỏi vết thương lòng gần như hủy hoại cả con người anh năm đó: “Thầy đi thong thả, tôi không tiễn.”
Trịnh Hoặc phẩy tay, sải bước rời khỏi cánh cửa.
**
Bốn giờ sáng, Ôn Minh Duy vẫn còn ngồi trong phòng khách.
Anh không ngủ, nên Cố Tinh cũng không dám ngủ. Sợ điều hòa lạnh quá, Cố Tinh lấy chăn mỏng từ tủ choàng lên vai anh, nhẹ giọng khuyên nhủ: “Minh Vi, nghỉ ngơi một chút đi. Ngày mai ngài có hẹn thử thuốc mới với bác sĩ Oda…”
“Dời lại.”
Ôn Minh Duy hoàn toàn không buồn ngủ, ngay cả tách trà cũng chỉ uống qua loa một ngụm nhạt nhẽo.
Nhưng trên mặt anh không hề có chút bi thương nào. Những cảm xúc cực đoan đó đã bị bào mòn khỏi linh hồn anh từ nhiều năm trước, không còn đủ sức chi phối thể xác anh nữa, càng không thể khiến anh rơi xuống dù chỉ một giọt nước mắt.
Cố Tinh không biết phải khuyên sao cho phải, chỉ yên tĩnh ngồi bên cạnh anh.
Không biết qua bao lâu, Ôn Minh Duy đột nhiên nhớ đến điều gì đó, ánh mắt quét một vòng quanh phòng khách, hỏi: “Bức tranh mà hội Tôn Lý tặng tôi lần trước đâu? Sao chưa thấy treo lên?”
Cố Tinh: “Treo trong thư phòng rồi. Trước đây ngài nói bức tường trong thư phòng hơi trống trải...”
Ôn Minh Duy vén chăn đứng dậy, đi về phía thư phòng.
Cố Tinh không hiểu tại sao anh đột nhiên nhớ đến bức tranh đó, vội vàng đi theo anh lên lầu hai.
Đó là một bức tranh do hội Tôn Lý - Là hội đồng quản lý tôn giáo Liên Minh.
Đúng như tên gọi, tổ chức này chịu trách nhiệm quản lý mọi tôn giáo hợp pháp trong lãnh thổ Liên minh. Cái gọi là “hợp pháp” kỳ thực cũng chẳng có yêu cầu gì to tát, chỉ cần người đại diện của một giáo phái nào đó chịu bỏ ra 50 đồng để đăng ký, giáo phái đó ngay lập tức được công nhận là hợp pháp.
Con người thời nay thực mâu thuẫn, sống trong một thời đại mà khoa học phát triển cực thịnh nhưng lại càng thêm cuồng tín vào tôn giáo. Có lẽ chính vì khoa học càng phát triển, càng để lộ nhiều lỗ hổng: Nó không thể giải thích được mọi thứ, cũng chẳng thể mang đến sự cứu rỗi linh hồn con người.
Cho nên, mấy năm gần đây một loạt các giáo phái kỳ quái mọc lên như nấm sau mưa. Những tôn giáo có truyền thống chính thống như Phật giáo, Cơ Đốc giáo, còn giáo phái kỳ quái như là “Giáo bò bít tết”, “Giáo trò chơi”, hay thậm chí là “Giáo tôi thích mặc gì là việc của tôi...”
Các giáo phái ấy thường xuyên tổ chức hoạt động công khai, thuyết giảng giáo lý dưới các tòa nhà chọc trời, quảng cáo ba chiều ở khu phố thương mại, thậm chí có giáo phái còn hát hò như biểu diễn tại lễ hội âm nhạc.
Ôn Minh Duy không phải tín đồ của bất kỳ giáo phái nào trong số đó nhưng cái gì anh cũng nhúng tay vào.
Hội trưởng hội Tôn Lý là một trong số ít người biết rõ thân phận của anh, vì muốn lấy lòng anh mà thường xuyên tặng những tác phẩm nghệ thuật tôn giáo, đổi lại là những khoản quyên góp khổng lồ từ anh dành cho hội.
Bức tranh ấy được treo trên bức tường trống nhất trong thư phòng, phía sau bên trái bàn làm việc.
Vài hôm trước chính tay Cố Tinh giúp anh treo lên, nên đương nhiên nhớ rõ. Dù đã nhìn qua, giờ nhìn lại, trong lòng Cố Tinh vẫn có cảm giác khó chịu khó diễn tả.
Nhưng Ôn Minh Duy thì không có chút phản ứng gì.
Đó là một bức tranh sơn dầu, vẽ cảnh một nghi lễ tế thần:
Đoàn người đông đúc, khoác xích sắt, quỳ rạp dưới bầu trời đêm, xếp hàng dài tăm tắp, hướng lên trời lạy bái. Phía trước là một giàn lửa khổng lồ đang bốc cháy, ánh sáng rực rỡ méo mó hắt lên khuôn mặt những kẻ sùng bái, có người khóc, có người cười, có người run rẩy vì sợ hãi.
Và trên bầu trời xa thẳm, một vị thần linh có dung mạo mơ hồ đang cúi nhìn chúng sinh, đôi tay vươn ra thả xuống một tấm màn lụa vô biên, bao phủ lấy vạn vật nơi trần thế.
——《Bức màn Maya》(năm 2120)
Tác phẩm có thể lọt vào mắt xanh của Ôn Minh Duy, kỹ thuật hội họa tất nhiên phải thuộc hàng xuất sắc. Thế nhưng, cảnh tượng tôn giáo được tái hiện qua kỹ thuật điêu luyện ấy lại chẳng mang chút cảm giác thiêng liêng nào. Trái lại, lại toát ra một bầu không khí lạnh lẽo và kỳ dị, khiến người ta chỉ cần nhìn lâu thêm vài giây là trong lòng sẽ dâng lên một nỗi sợ hãi mơ hồ khó xua tan, như thể bị một thứ gì đó không thể gọi tên quấn lấy, mãi không thể thoát ra.
Cố Tĩnh không phải không hiểu ẩn ý trong bức tranh này.
“Bức màn Maya” là một khái niệm trong Ấn Độ giáo cổ đại. Từ “Maya” bắt nguồn từ tiếng Phạn, mang nghĩa là ảo giác hoặc trò lừa bịp. Nó ám chỉ rằng nhân gian sống dưới một tấm màn ảo ảnh do thần linh giăng ra, không thể nhìn thấu thế giới chân thực phía sau tấm màn ấy, càng khó nhận rõ bản ngã, cái gọi là “Phạm” (Brahman).
Khái niệm này từng được các triết gia diễn giải dưới góc nhìn triết học, cũng từng được nhiều nghệ sĩ lấy làm đề tài sáng tác, không còn xa lạ.
Nhưng Cố Tinh không biết, Ôn Minh Duy đã nhìn thấy điều gì từ bức tranh này.
Hắn là người hiểu Ôn Minh Duy gần như rõ nhất, đáng tiếc “hiểu rõ” và “thấu hiểu” là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.
Khi Ôn Minh Duy nhìn tranh, Cố Tinh nhìn anh. Ước chừng hơn mười phút trôi qua, Ôn Minh Duy mới rời mắt khỏi bức tường, đi đến bàn ngồi xuống.
Ôn Minh Duy không bình luận lấy một câu về bức tranh. Sau một hồi trầm mặc, Cố Tinh đoán từ nét mặt anh rằng có lẽ anh đang muốn uống thuốc nhưng anh không làm vậy.
Ôn Minh Duy: “Cậu đi nghỉ đi, tôi ở lại một lát.”
Cố Tinh: “Ngài cũng nên nghỉ đi.”
“Tôi biết. Cậu cứ ra ngoài trước đi.”
“...”
Cố Tinh rời khỏi thư phòng, tiện tay đóng cửa lại cho anh.
Khoảng bốn rưỡi sáng, Ôn Minh Duy vẫn chưa thấy buồn ngủ, lấy điện thoại nhắn tin cho Đàm Chiếu:
“Khi nào cậu rảnh? Tôi muốn đưa cậu đến một nơi.”
Nhưng Ôn Minh Duy không dừng lại ở đó, mà gọi thẳng điện thoại.
Tiếng chuông vang 2 lần thì bị cúp máy.
Anh lại gọi lần nữa, lần này vừa đổ chuông đã bị ngắt.
Anh gọi lần thứ ba, rõ ràng còn chưa nghe thấy giọng của Đàm Chiếu, tâm trạng của anh đã bắt đầu khá hơn một cách kỳ lạ. Anh gần như có thể tưởng tượng ra cảnh Đàm Chiếu nằm trên giường, nửa mê nửa tỉnh với gương mặt cực kỳ khó chịu khi mò được cái điện thoại để bấm tắt: vô cùng bực mình, như muốn đánh người.
Cuộc gọi thứ ba được nhận.
“Alo?” Giọng Đàm Chiếu quả nhiên là đang ngủ, khàn khàn ngái ngủ, nhưng lạnh lùng nói: “Ôn Minh Duy, tốt nhất anh nên cho tôi một lý do để không giết anh.”
Nghe vậy, Ôn Minh Duy nhẹ nhàng thả ra một quả bom:
“Tôi nhớ cậu.”
Đầu dây bên kia lặng thinh trong chốc lát.
Phải mất vài giây, Đàm Chiếu mới lấy lại được giọng điệu lạnh nhạt, khó chịu nói:
“Tôi không nhớ anh. Đừng đùa kiểu nhảm nhí đó.”
Ôn Minh Duy khẽ bật cười:
“Tôi muốn hẹn cậu ra ngoài chơi, đến một nơi rất thú vị.”
“Chỗ nào?”
“Một trường bắn tư nhân, không mở cửa cho công chúng,” Ôn Minh Duy ngừng một chút rồi tiếp lời, “Ở đó có đủ mọi loại súng, cả những loại cậu từng thấy lẫn chưa từng thấy. Đều là súng thật, không phải hàng mô phỏng.”
“...”
Đàm Chiếu thoáng sững người.
Đừng nói là súng thật, ngay cả súng mô phỏng hiện giờ cũng rất khó kiếm trên thị trường.
Từ tám năm trước, chính phủ Liên Minh bắt đầu thắt chặt lệnh cấm súng, mức độ kiểm soát vũ khí vượt xa mọi lĩnh vực khác. Dù là câu lạc bộ bắn súng cao cấp đến mấy cũng không dám dùng đạn thật súng thật, nếu không thì hôm sau sẽ bị cơ quan chức năng phong tỏa ngay lập tức.
Thế mà Ôn Minh Duy lại nói nhẹ tênh rằng anh có một trường bắn tư nhân và loại súng nào cũng có.
Dù đống súng ấy không đủ sức hấp dẫn, thì cái thân phận thần bí khó lường của anh cũng khiến người ta không khỏi cảm thấy tò mò.
“Thứ bảy tuần sau.” Đàm Chiếu cuối cùng cũng mắc câu.
“Hôm đó tôi rảnh, đến lúc đó liên hệ lại.”