Sharon kiểu cách tóm lấy sáu con chuột không ngừng quấy đạp lẳng ra khỏi thuyền của ông ta trước khi chúng tôi bước lên - như thể một chuyến đi không có nguy cơ lây dịch hạch là một thứ xa xỉ thì để dành riêng cho Những Người Đặc Biệt Rất Quan Trọng* - rồi ông ta đưa cánh tay ra mời Emma và giúp cô bước từ cầu tàu xuống thuyền. Chúng tôi ngồi cả ba sát kề nhau trên một băng ghế gỗ đơn sơ. Trong khi Sharon bận rộn tháo dây buộc thuyền, tôi tự hỏi việc tin tưởng ông ta chỉ đơn thuần là khờ dại hay đã vượt qua ranh giới đến mức liều mạng, chẳng khác gì phơi người ngủ ngay giữa đường.
* Nguyên Văn: very important peculiars. Tác giả chơi chữ, ba chữ này cũng viết tắt là VIP - very important person ( người rất quan trọng)
Rắc rối với lằn ranh giới khờ dại/cực kỳ ngu dại nằm ở chỗ bạn thường không biết mình đang ở phía nào cho tới khi đã quá muộn. Đến lúc ván đã đóng thuyền bạn mới ngẫm lại mọi sự, nút đã được bấm, máy bay đã rời nhà chứa, hay trong trường hợp của chúng tôi, thuyền đã rời bến và khi quan sát Sharon đẩy chúng tôi rời xa khỏi bến bằng bàn chân ông ta, một bàn chân trần, tôi nhận ra nó không giống chân người lắm, các ngón chân dài như những cái xúc xích nhỏ, những móng chân dày màu vàng uốn cong như vuốt.
Với sự chắc chắn khiến lòng nặng trĩu, tôi nhận ra chúng tôi đang ở phía nào của đường ranh giới, và cũng nhận ra rằng đã quá muộn để có thể làm gì thay đổi nó.
Sharon giật sợi dây đánh lửa của một động cơ nhỏ gọn phía đuôi thuyền làm nó nổ ang khởi động kèm theo một làn khói xanh lè. Gập đôi chân dài đáng kể lại, ông ta hạ người ngồi xuống đống vải đen trải dưới lòng thuyền - chiếc áo khoác của ông ta. Ông ta nhúng chân vịt động cơ xuống nước cho chạy, rồi lái thuyền đưa chúng tôi rời khỏi cầu tàu ngầm, qua một rừng những cây cọc gỗ và ra ngoài ánh sáng mặt trời ấm áp.
Rồi chúng tôi đi vào một kênh đào, Một phụ lưu nhân tạo của sông Thames, bao hai bên là những tòa nhà lắp kính và dập dềnh những tàu thuyền hơn cả trong chậu tắm của một chú nhóc - những chiếc tàu kéo màu đỏ chói, những chiếc xà lan rộng phẳng dẹt và những chiếc tàu du lịch trên boong thượng đông nghìn khách tham quan chui ra hít thở không khí.
Thật là, không ai trong số họ hướng máy ảnh tới, hay thậm chí là nhận ra, chiếc thuyền khác thường đang rừ rừ đi qua, với một thần chết ngồi cầm lái, hai đứa trẻ người bê bết máu ngồi trên ghế hành khách, tả một con chó đeo kính đang ngó qua mạn thuyền. Mà thế cũng tốt. Có lẽ nào Sharon đã phù phép chiếc thuyền của ông ta theo cách nào đó để chỉ những người đặc biệt mới nhìn thấy nó? Tôi quyết định tin là thế, video Chúng tôi cần trốn đi thì cũng chẳng có chỗ nào mà trốn.
Nhìn khắp chiếc thuyền trong ánh sáng ban ngày, tôi nhận ra nó cực kì đơn sơ, chỉ có một hình chạm khắc khó hiểu như thế nào mũi thuyền. Hình chạm khắc này giống như mở con rắn béo lúc có vảy đang uốn mình nhô lên thành một hình chữ S thoải mái, những chỗ đáng lẽ phải là cái đầu lại là một cái nhãn cầu khổng lồ, không có mi và to bằng quả dưa, diễn viên nhìn trừng trừng ra phía trước chúng tôi.
"Cái gì vậy?" Tôi hỏi, đưa bàn tay sờ lên bề mặt nhẵn bóng của nó.
"Gỗ thủy tùng." Sharon nói qua tiếng nổ của động cơ.
"Tùy tùng gì cơ?"
"Đó là thứ gỗ được dùng để tạc nên nó."
"Nhưng nó dùng để làm gì?"
"Để nhìn!" Ông ta đáp có phải cáu bẩn.
Sharon cho động cơ chạy nhanh hơn - có thể chỉ để át những câu hỏi của tôi - và trong khi chúng tôi tăng tốc, mũi thuyền hơi nhấc lên khỏi mặt nước. Tôi hít một hơi thật sâu, tận hưởng nắng và gió phả vào mặt mình, còn Addison vừa thè lưỡi ra vừa đưa hai bàn chân trước nhưng vẫn qua mạn thuyền, từ lần đầu tôi gặp nó đến giờ, trông nó chưa bao giờ vui vẻ đến thế.
Quả là một ngày đẹp trời để đi tới địa ngục.
" Tớ cứ nghĩ mãi xem làm sao cậu tớ được đây." Emma nói. "Làm thế nào có trở lại hiện tại được."
"Ừa." Tôi nói. " Vậy cậu nghĩ sao?"
"Chỉ có một cách giải thích duy nhất nghe có vẻ hợp lý - dù cũng không hợp lý cho lắm. Khi chúng ta đang ở dưới đường hầm tàu điện ngầm với cả đám xác sống đó, à khi chúng ta quay trở lại hiện tại, lý do cậu đi cùng bọn tớ thay vì tiếp tục đi tới năm một nghìn tám trăm nào đó - đột nhiên chỉ còn một mình - là bằng cách nào đó cô Peregrine đã có mặt ở ngay gần đấy, và giúp cậu quay về mà không ai nhận ra."
"Tớ không biết nữa, Emma, chuyện đó dường như... " Tôi do dự, không muốn nói ra những lời tàn nhẫn. "Cậu nghĩ lúc đó bà ấy đang nấp trong đường hầm sao?"
"Tớ nói là có thể như thế. Chúng ta không hề biết cô ấy ở đâu mà."
"Lũ xác sống giam giữ bà ấy. Caul đã thừa nhận điều đó."
"Từ bao giờ mà lũ xác sống nói gì cậu cũng tin vậy?"
"Cậu thắng tớ rồi." Tôi nói. "Nhưng vì lúc trước Caul cứ vênh váo huênh hoang về việc bắt được bà ấy, cứ nghĩ có thể là nói thật lắm."
"Có thể... hoặc hẵn noid thế nhằm cánh gục tinh thần của chúng ta và khiến chúng ta muốn đầu hàng. Lúc đó hắn đang cố thuyết phục chúng ta đầu hàng đám lính của hắn, cậu nhớ không?"
"Phải." Tôi nói, trán nhăn lại. Đầu óc tôi bắt đầu rối tinh lên trước rồi loại khả năng. "Thôi được. Cứ đặt giả thiết là cô P các có mặt cùng chúng ta trong đường hầm. Tại sao bà ấy lại mất công gửi tớ trở về hiện tại trong vai trò tù nhân của đám xác sống? Chúng ta đang sắp bị moi mất linh hồn thứ hai. Sẽ tốt hơn cho tớ nếu tớ ở lại Vòng Thời Gian kia."
Trong giây lát, Emma trông có vẻ thật sự bối rối. Rồi khuôn mặt cô sáng lên và cô nói. "Trừ phi cô ấy trông cậy cậu và tớ sẽ cứu tất cả những người khác. Rất có thể đó là một phần kế hoạch của cô ấy."
"Nhưng mà cách nào bà ấy biết chúng ta sẽ thoát khỏi lũ xác sống?"
Emma liếc mắt nhìn Addison. "Có thể bà ấy đã giúp một tay." Cô thì thầm.
"Em, chuỗi sự kiện giả thiết này bắt đầu trở nên thật sự khó tin rồi đấy." Tôi hít một hơi, cẩn thận lựa lời. "Tớ biết cậu muốn tin là cô Peregrine đang ở đâu đó ngoài kia tự do, dõi theo chúng ta. Tớ cũng thế..."
" Tớ rất muốn thế, muốn đến nhói lòng." Cô nói.
" Nhưng nếu đang tự do, đáng lẽ bà ấy phải tìm cách nào đó liên lạc với chúng ta chứ? Và nếu nó can dự vào." Tôi khẽ nói, hất hàm về phía Addison. " đến lúc này nó phải nhắc đến điều đó rồi mới phải?"
"Không, nếu nó đã thể giữ bí mật. Có thể sẽ là quá nguy hiểm nhưng nó nói với bất cứ ai, kể cả chúng ta. Nếu chúng ta biết nơi ẩn náu của cô Peregrine, và kẻ nào đó biết chúng ta biết điều đó, chúng ta có thể sẽ bị tra tấn moi tin..."
" Thế còn nó thì không?" Tôi nói hơi quá to, và con chó ngẩng lên nhìn chúng tôi, hai má nó phồng phồng và cái lưỡi đong đưa trông thật ngớ ngẩn khi gió thổi qua. "Này, cô cậu!" Nó lớn tiếng. " tôi đã đếm được năm mươi sáu con cá rồi, cho dù một vài con có thể là rác lập lờ chìm dưới nước. Hai cô cậu đang thì thào chuyện gì thế?"
"Ồ, không có gì?" Emma nói.
"Tôi cứ nghi nghi sao ấy nhỉ?" Nó lẩm bẩm, nhưng sự ngờ vực nhanh chóng bị bản năng của nó át đi, và một giây sau con chó đã ăng ẳng lên. "Cá!" Và sự chú ý của nó quay ngoắt lại mặt nước. "Cá... cá... cá... cá..."
Emma cười ảm đạm. " Đó là một ý tưởng hoàn toàn điên rồ, tớ biết. Những bộ óc của tớ là một cỗ máy chế tạo Hy Vọng."
" Tớ rất mừng." Tôi nói. "Bộ óc của tớ là cỗ máy chuyên tạo ra kịch bản tồi tệ nhất."
" Vậy thì chúng mình cần đến nhau."
"Phải. Nhưng mà tớ nghĩ chúng mình vốn đã biết điều đó từ trước rồi."
Nhịp lắc lư đào đào của chiếc thuyền đẩychúng tôi vào nhau rồi tách chúng tôi ra, đẩy rồi vào tách ra.
"Các vị tin chắc là không muốn một chuyến đi lãng mạn hơn đấy chứ?" Sharon lên tiếng. "Vẫn chưa quá muộn đâu."
"Rất chắc." Tôi nói. " Chúng tôi đang có nhiệm vụ."
"Vậy thì tôi đề xuất các vị hãy mở cái hộp các vị đang ngồi lên. Các vị sẽ cần tới những thứ nằm trong đó khi chúng ta tới nơi đấy."
Chúng tôi lật tấm gỗ lên và thấy một tấm vải dầu lớn.
" Cái này để làm gì?" tôi hỏi.
"Để nấp bên dưới." Sharon đáp, đoạn rẽ thuyền vào một kênh đào còn hẹp hơn nữa, hai bờ kênh là từng dãy chung cư mới trông có vẻ đắt tiền. " Tôi có thể giấu các vị khỏi tầm nhìn đến đây, nhưng sự bảo vệ của tôi không có tác dụng bên trong Đồng Ma - và những kẻ săn mồi thường có xu hướng gì những con mồi dễ xơi ở quanh lối vào. Mà các vị chắc chắn là con mồi dễ xơi rồi."
"Tôi biết ông đã lén làm gì đó mà." Tôi nói. "Thậm chí chẳng có lấy một khách du lịch nào liếc mắt nhìn chúng tôi."
"Việc quan sát những sự kiện tàn khốc trong lịch sử sẽ an toàn hơn khi những người can dự vào đó không thấy được các vị." Ông ta nói. " tôi không thể để khách của mình bị những cướp biển người Viking bắt đi được, phải không nào? Thử nghĩ xem người sử dụng dịch vụ sẽ bình phẩm ra sao chứ?"
Chúng tôi đang lao nhanh tới một dạng đường hầm - một đoạn kênh đào chạy ngầm trong đường cống, có lẽ dài chừng ba mươi mét, phía trên là một tòa nhà trong những kho hàng hay một cối xay cũ. Ở cuối đường hầm sáng lên một mảnh trời xanh hình bán nguyệt và mặt nước lấp lánh. Giữa vị trí hiện tại của chúng tôi và phía đó chỉ có bóng tối. Nó trông giống một lối vào Vòng Thời Gian như bất cứ lối vào nào khác tôi từng thấy.
Chúng tôi rũ tấm vải dầu to tướng ra, nó trùm kín đến nửa chiếc thuyền. Emma nằm xuống bên cạnh tôi, và chúng tôi chờ người vào bên dưới tấm vải, kéo rìa lên tận cằm như một chiếc chăn. Khi chiếc thuyền lướt vào bóng tối bên trong đường hầm, Sharon ngắt động cơ và dấu nó dưới một tấm vải dầu khác, nhỏ hơn. Rồi ông ta đứng dậy và kéo một cây sào có thể thu ngắn ra, cắm nó xuống nước cho tới khi chạm đáy, rồi bắt đầu chống xào để chúng tôi tiến tới bằng những nhát sào dài, lặng lẽ.
"Nhân tiện." Emma nói. "Chúng ta đang ẩn nấp khỏi những kẻ săn mồi nào nhỉ? Xác sống à?"
Trong thế giới đặc biệt, Có những thứ còn xấu xa hơn so với đám xác sống các vị căm ghét." Sharon nói, gặp ông ta âm vang trong đường hầm đá. "Một kẻ cơ hội giả dạng một người bạn cũng nguy hiểm ngang với một kẻ thù rõ mười mươi."
Emma thở dài. " Ông có cần lúc nào cũng nói xa xôi thế không?"
"Trùm cả lên đầu các vị." Ông ta gắt. " Cả mày nữa, chó.
Addison rúc đầu vào dưới tấm vải dầu, và chúng tôi kéo rìa tấm vải trùm kín qua đầu. Ở dưới tấm vải thật tối và nóng, còn tấm vải thì sặc mùi dầu máy động cơ.
"Cô cậu có sợ không?" Addison thì thầm trong bóng tối.
"Cũng không sợ lắm." Emma nói. "Cậu thì sao, Jacob?"
"Sợ đến mức sắp nôn mất. Addison thì sao?"
" Tất nhiên là không." Con chó nói. "Sợ hãi không phải là đặc tính của giống nòi tôi."
Nhưng sau đó nó chui vào giữa Emma và tôi, và tôi có thể cảm thấy cả thân mình nó run bần bật.
* * *
Một số cuộc chuyển đổi diễn ra nhanh và trơn tru nhưng các quốc lộ lớn, nhưng cuộc chuyển đổi này giống như lao đi xóc nảy trên một con đường lỗ chỗ ổ gà, lượn quanh một khúc ngoặt gấp khúc chữ U, rồi lật nghiêng cả sát vào một vách núi - tất cả đều diễn ra trong bóng tối hoàn toàn.
Khi cuối cùng tất cả cũng kết thúc, đầu tôi quay cuồng, đau nhức. Tôi tự hỏi cơ chế vô hình nào đã khiến một số của chuyển đổi nhọc nhằn hơn những cuộc chuyển đổi khác. Có thể hành trình cũng chỉ nặng nề ngang với đích đến, và chuyến đi này làm người ta có cảm giác như một chuyến dã ngoại vào chốn hoang vu vì đây chính xác và những gì chúng tôi đang làm.
"Chúng ta tới rồi." Sharon thông báo.
"Mọi người ổn cả chứ?" Tôi hỏi, lần tìm bàn tay Emma.
"Chúng ta phải quay lại." Addison rên rỉ. "Tôi để hai quả thận ở phía bên kia rồi."
"Giữ im lặng cho tới khi tôi tìm ra một nơi kín đáo để cho các vị xuống." Sharon nói.
Thính lực của chúng ta sẽ trở nên nhạy bén hơn một cách đáng kinh ngạc ngay khi chúng ta không thể sử dụng đôi mắt của mình. Trong lúc nằm im thin thít dưới tấm vải dầu, tôi như bị thôi miên bởi những âm thanh của một thế giới quá khứ đang râm ran xung quanh chúng tôi.
Thoạt đầu, chỉ có tiếng cây sào của Sharon khua nước, nhưng chẳng mấy chốc, gia nhập cùng nó là những các cách khác, tất cả hòa vào nhau vẽ nên một khung cảnh chi tiết trong đầu tôi. Tôi hình dung tiếng gỗ đập nước đều đặn là của những mái chèo trên một chiếc thuyền đi qua chở đầy cá. Tôi hình dung ra những người phụ nữ, Tôi có thể nghe thấy họ đang nổi tiếng của nhau trong khi nhô người ra từ cửa sổ các ngôi nhà làm đối diện, tán gẫu vọng qua kênh trong khi phơi quần áo.
Phía trước chúng tôi, những đứa trẻ phá lên cười khi một con chó sủa, và ngoài ra tôi có thể nghe thấy những giọng hát đồng điệu với nhịp đập của những chiếc búa. " hãy nghe những tiếng búa chan chát đập, hãy nghe tiếng những cái đinh lún ngập!" Chẳng mấy chốc, tôi lại hình dung ra những người thợ nạo ông khói đội mũ chóp cao rảo bước đi dọc các con phố lởm chởm đầy cám dỗ, và người ta đang cùng nhau vượt qua số phận của họ với một cái nháy mắt và một bài hát.
Tôi không thể ngăn mình tưởng tượng như thế. Tất cả những gì tôi biết về thời Victoria đều là từ một phiên bản nhạc kịch hạng xoàng của Oliver Twist. Năm mười hai tuổi, tôi đã tham gia vở diễn đó tại một nhà hát cộng đồng. Tôi là Trẻ Mồ Côi Số Năm, nếu bạn nhất định muốn biết, và vào buổi tối biểu diễn, Tôi đã lên cơn sợ sân khấu kinh hoàng tới mức tôi giả vờ bị đau bụng đi ngoài và xem cả vở diễn từ trong cánh gà với nguyên trang phục biểu diễn trên người và một cái xô kinh tởm giữa hai chân.
Dù sao đi đó cũng là cảnh tượng hiện lên trong đầu tôi khi tôi để ý thấy có một lỗ nhỏ trên tấm vải dầu gần chỗ vai tôi - hẳn là bị chuột cắn thủng - và, nhích người một chút, tôi thấy mình có thể hé mắt nhìn qua đó. Trong vòng vài giây, cảnh tượng hạnh phúc được truyền cảm hứng từ âm nhạc tôi đã hình dung liền tan biến như một bức học của Salvador Dali.
Nỗi kinh hoàng đầu tiên chào đón tôi là những ngôi nhà nằm dọc theo bờ kênh, cho dù gọi chúng là những ngôi nhà là quá hào phóng. Không chỗ nào trong khối kiến trúc xập xệ mục ruỗng của chúng có thể tìm ra được dù chỉ là một đường thẳng. Chúng rũ sống như một thằng lính kiệt sức đã ngủ thiếp đi trong khi đứng nghiêm; Có vẻ như thế xinh nhất dữ chúng quấy đổ nhào xuống nước là việc chúng chen chúc nhau chật cứng - lý do này và lớp kết dính từ rác bẩn màu đen và xanh lục két lên một phần ba chiều cao dưới cùng của chúng thành lớp dày đặc quánh.
Trên mỗi khung cửa ọp ẹp có một cái hộp trong như quan tài dựng đứng, nhưng chỉ khi nghe thấy tiếng gầm gừ rất to vang ra từ một cái hộp như thế và thấy thứ gì đó từ dưới đó rơi xuống nước, tôi mới hiểu ra chúng là gì, cũng như những tiếng lõm tõm tôi nghe thấy lúc trước không phải xuất phát từ các mái chèo mà từ các nhà cầu, điều giải thích cho thứ cực kỳ bẩn tưởi đã giúp chúng đứng vững.
Những người phụ nữ đang gọi nhau qua kênh đào từ các cửa sổ đối diện nhau, đúng như tôi đã tưởng tượng, nhưng họ không phải đang treo đồ giặt và chắc chắn không phải đang buôn chuyện - hay ít nhất cũng không còn buôn chuyện nữa; lúc này họ chửi rủa và văng những lời dọa nạt nhau.
Một người vung vẩy một vỏ chai vỡ và cười ngặt nghẽo say khướt trong khi người kia hét lớn những lời lẽ tôi gần như không hiểu nổi ("Mài chỉ lừ mụt con đím nửa mùa thúi tha sãn xằng ngủ cứu cả quỷ sứ để lấy một cắc!") - những lời thật mỉa mai, nếu tôi hiểu đúng ý cô ta nói, vì nửa trên người phụ nữ này cũng để trần và chẳng có vẻ gì là e ngại có ai nhìn thấy. Cả hai dừng cãi cọ để huýt sáo hướng xuống Sharon khi chúng tôi đi qua, nhưng ông ta lờ tịt họ.
Mong muốn xóa hình ảnh đó ra khỏi đầu mình, tôi đã thành công với việc thay thế nó bằng một thứ còn tệ hại hơn: phía trước chúng tôi là một đám trẻ con đang vung chân ra từ một cái cầu ọp ẹp bắc qua kênh. Chúng buộc thừng vào hai chân sau của một con chó và đang treo lơ lửng nó trên mặt nước, nhúng con vật khốn khổ chìm xuống rồi phá lên cười khi những tiếng sủa tuyệt vọng của nó chuyển thành những bong bóng nước sủi lên.
Tôi cố kiềm chế thôi thúc muốn đá tung tấm vải dầu lên và quát vào mặt chúng. Ít nhất Addison không thể nhìn thấy; nếu có, không lý lẽ nào có thể nhăn được nó xông vào đám trẻ với hai hàm răng nhe ra, hất tung lớp vỏ bọc của chúng tôi.
"Tôi hiểu cậu muốn gì." Sharon thì thầm với tôi. "Nếu cậu muốn nhìn quanh thì cứ đợi đi, chúng ta sắp sửa kết thúc đoạn tồi tệ nhất rồi."
"Cậu đang nhìn ra đấy à?" Emma thì thào và thúc vào sườn tôi.
"Có lẽ thế." Tôi nói và tiếp tục quan sát.
Người giữ thuyền suỵt chúng tôi im lặng. Nhấc cây sào của mình lên khỏi mặt nước, ông ta mở nắp cán cầm để lộ ra một lưỡi dao ngắn, rồi chĩa nó ra cắt đứt sợi thừng của lũ trẻ khi chúng tôi trôi qua. Con chó rơi tõm xuống nước và mừng rỡ bơi đi, còn đám trẻ con vừa la lối tức giận vừa bắt đầu ném đủ thứ nhất được vào chúng tôi. Sharon tiếp tục đẩy thuyền đi, tảng lờ chúng hệt như đã tảng lờ mấy người phụ nữ, cho tới khi một cái lõi táo bay sạt qua chỉ cách đầu ông ta có chục phân. Ông ta bèn thở dài, quay đầu lại, bình thản kéo cái mũ trùm áo khoác da - vừa đủ đến lũ trẻ có thể thấy ông ta, nhưng tôi thì không.
Thứ lũ trẻ nhìn thấy hắn đã làm chúng sợ chết khiếp, vì cả đám đều la lối chạy tán loạn khỏi cây cầu, một đứa cuống quá đâm vấp ngã và lộn nhào xuống làn nước hôi rình. Tặc lưỡi, Sharon chỉnh lại mũ trùm đầu rồi lại quay mặt ra trước.
"Chuyện gì xảy ra vậy?" Emma bồn chồn hỏi. "Gì thế?"
"Một màn chào đón của Đồng Ma." Sharon đáp. "Bây giờ, nếu muốn xem chúng ta đang ở đâu, các vị có thể ló mặt ra một chút, và trong thời gian còn lại của chúng ta, tôi sẽ cố mang đến cho các vị một chương trình hướng dẫn xứng đáng đồng vàng các vị bỏ ra."
Chúng tôi kéo mép tấm vải dầu xuống cằm, và cả Emma lẫn Addison đều há hốc miệng - theo tôi nghĩ Emma thì vì cảnh vật, còn Addison, nếu xem xét từ cái mũi chun lại của nó, là vì mũi. Thứ mùi này thật khó tin là thật, như thế có một món hầm từ thứ nước cống bẩn thỉu đang sôi lục bục khắp xung quanh chúng tôi.
"Các vị sẽ quen với nó thôi." Sharon nói khi thấy khuôn mặt rúm ró của tôi.
Emma nắm chặt lấy bàn tay tôi rên rỉ. "Ôi, kinh khủng quá..."
Và đúng là thế. Giờ đây, khi tôi có thể nhìn bằng cả hai mắt, nơi này trông còn quái gở hơn. Nền móng của tất cả các ngôi nhà đều đang phân hủy thành thứ bùn đặc sệt. Những cây cầu bộ hành bằng gỗ điên rồ, một số chẳng rộng hơn một tấm ván, bắc chằng chịp qua con kênh như chơi buộc dây giữa các ngón tay, và hai bên bờ hôi hám của nó chất đống rác rưởi, lúc nhúc những dáng người như các bóng ma đang bận rộn với móc trong đó.
Những màu sắc hiếm hoi ở đây là các sắc đen, vàng và xanh lục. Màu đen hoen ố trên mọi bề mặt, nhoe nhoét trên mọi khuôn mặt, vạch trong không khí thành từng cột bốc lên từ các ống khói khắp xung quanh chúng tôi - và, còn hứa hẹn tồi tệ hơn nữa, từ những ống khói nhà máy ngoài xa, bốc lên đồng nhịp với những tiếng động ầm ầm của công nghiệp, trầm và nguyên thủy như những tiếng trống trận, dữ dội tới mức làm rung chuyển tất cả những ô cửa sổ nhưng không làm vỡ chúng.
"Các bạn, đây chính là Đồng Ma." Sharon lên tiếng, giọng nói trơn tru của ông ta chỉ đủ lớn cho chúng tôi nghe. "Dân số thực tế là bảy nghìn hai trăm linh ấy người, dân số chính thức trong sổ sách là không. Những người cha của thành phố, với sự sáng suốt của họ, đã từ chối sự tồn tại của nó.
Dòng nước dễ mến mà chúng ta đang trôi theo lúc này được gọi là Rạch Sốt, và chất thải từ các nhà máy, phân người, cũng như xác động vật liên tục được tuôn xuống là nguồn gốc tạo ra không chỉ thứ mùi mê hoặc của nó mà cả những dịch bệnh bùng phát đều đặn tới mức các vị có thể dựa vào chúng mà chỉnh giờ đồng hồ và ngoạn mục tới mức cả khu này đã được đặt biệt danh 'Thủ Đô Dịch Tả'."
"Ấy thế nhưng... " Ông ta giơ một cánh tay nằm dưới lớp vải đen về phía một cô gái trẻ đang vục một cái xoi xuống nước. "Với rất nhiều những kẻ bất hạnh này, nó vừa là cái cống vừa là suối nguồn."
"Cô ta không định uống thứ đó đấy chứ!" Emma kinh hoàng nói.
"Sau vài ngày, khi những phần tử nặng đã lắng xuống, cô ta sẽ hớt lấy phần chất lỏng trong nhất ở phía trên."
Emma bật lùi lại. "Không..."
"Có chứ. Thật xấu hổ kinh khủng." Sharon nói một cách dửng dưng, rồi tiếp tục tuôn ra các thực tế như thể trích dẫn từ một cuốn sách. "Nghề nghiệp chủ đạo của các công nhân ở đây là bới rác và lừa những người lạ vào Đồng Na để nện vào đầu họ và cướp đồ của họ. Để mua vui, họ tống vào người bất cứ thứ chất lỏng cháy được nào có sẵn trong tầm tay và khản cổ hát một cách ghê hồn. Sản phẩm xuất khẩu chính của nợ này là xỉ quặng sắt đun chảy, bột xương và sự khốn cùng. Các thắng cảnh đáng chú ý gồm có..”
"Chẳng có gì đáng cười đâu." Emma cắt ngang.
"Sao cơ?"
"Tôi nói, chuyện này chẳng có gì đáng cười đâu. Những con người này đang khốn khổ, thế mà ông lại mang chuyện đó ra bỡn cợt!"
"Không phải tôi đang bỡn cợt." Sharon ngại nghễ đáp. " Tôi đang công cấp cho các vị những thông tin giá chỉ có thể cứu mạng các vị. Nhưng nếu các bạn thích khép mình trong sự ngu dốt mà xông vào chốn hoang dại này hơn... "
"Chúng tôi không muốn thế."
Tôi nói. " Cô ấy rất xin lỗi. Làm ơn cứ tiếp tục."
Emma ném về phía tôi một cái nhìn chê trách, và tôi cũng lập tức nhìn cô chê trách. Bây giờ không phải lúc để tỏ ra chính trực, cho dù Sharon có vẻ hơi vô tâm.
"Vì Hades, hạ giọng xuống nhỏ thôi." Sharon nói đầy khó chịu. "Nào, như tôi đang nói đây. Các thắng cảnh đáng chú ý gồm có Nhà tù Thánh Rutledge Dành Cho Trẻ Bị Bỏ Rơi, một cơ sở mang ý tưởng cấp tiến dùng để giam giữ những đứa trẻ côi cút trước khi chúng có cơ hội phạm bất cứ tội gì, qua đón tiết kiệm cho xã hội rất nhiều phí tổn và rắc rối; Trại Điên Thánh Barnabus Dành Cho Những Kẻ Mất Trí, Kẻ Lừa Đảo và những Kẻ Tội Phạm Xảo Quyệt, một cơ sở hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, ngoại trú và hầu như luôn chẳng có ma nào; và Phố Bốc Khói, tôi đã cháy suốt tám mươi bảy năm vì một đám cháy dưới lòng đất mà không ai buồn dập. À." Ông ta nói, chỉ về phía một khoảng trống đen kịt giữa các tòa nhà trên bờ kênh. "Đây là một đầu phố này, các vị có thể thấy, nó đã cháy trụi."
Một vài người đang bận rộn ở khu đất trống, nện búa xuống một bộ khung bằng gỗ - để dựng lại một trong các ngôi nhà, tôi đoán vậy - khi thấy chúng tôi đi thuyền ngang qua, họ dừng tay lớn tiếng chào Sharon, ông này chỉ vẫy tay đáp lại một lần lấy lệ, như thể hơi e ngại.
"Bạn của ông à?" Tôi hỏi.
"Họ hàng xa." Ông ta khẽ nói. "Dựng giá treo cổ là nghề gia truyền của chúng tôi..."
"Dựng cái gì cơ?" Emma hỏi.
Ông ta chưa kịp trả lời, mấy người kia đã tiếp tục công việc, vừa hát thật to vừa vung búa: "Hãy nghe tiếng búa chan chát đập! Hãy nghe tiếng những cái đinh lún ngập! Vui làm sao khi dựng giá treo cổ, phương thuốc trị lành mọi đau khổ!"
Nếu không phải đang kinh hoàng đến thế, rất có thể tôi đã phá ra cười.