Tôi điếng người, nằm im trong chăn nghe ngóng. Có khi nào là bà tôi khó ngủ nên dậy đi đi lại lại trong phòng không? Tôi thầm nghĩ như vậy xong lại lắc đầu phủ nhận. “Không thể nào! Bà nội từ trước đến giờ vẫn bị đau chân, làm sao có thể khua guốc mộc như thế được? Mà… mà bà nội có đôi guốc mộc nào đâu.”
Nghĩ thế nên tôi khẽ thò đầu ra khỏi chăn để gọi bà: “Bà ơi! Bà dậy rồi ạ?”
Vẫn không có tiếng trả lời. Làn gió thu luồn qua khe cửa tạo thành âm thanh giống như tiếng ai đó đang khóc rấm rức. Tấm rèm cửa màu trắng khẽ đung đưa, hệt như có ai thấp thoáng từ trong phòng bước ra ngoài cửa sổ. Tôi khấn Trời vái Phật, cầu mong bố mẹ phù hộ để cho chuyện kì lạ này biến mất. Đến khoảng bốn rưỡi sáng, tiếng lộc cộc ấy mới biến mất, như thể nó chưa từng xảy ra.
Tôi khẽ lau mồ hôi trên trán rồi trùm chăn không dám hé mặt ra ngoài. Trong đầu tôi lúc này vang lên một câu hỏi: “Lẽ nào nhà tôi thực sự là quỷ trạch?” Trăn trở không biết phải giải thích chuyện ban nãy thế nào, tôi mệt mỏi ngủ thiếp đi lúc nào chẳng hay. Chuyện kì lạ thứ hai bắt đầu xuất hiện.
Trong cơn mơ màng, tôi thấy có ai đó lẳng lặng trèo lên giường, rồi luồn tay qua mái tóc dài của tôi. Bàn tay của người ấy lạnh toát, khẽ vuốt ve mái tóc rồi lướt nhẹ qua vành tai tôi. Tôi lẩm bẩm nói gì đó trong vô thức rồi lại trở mình ngủ tiếp. Bất chợt lúc này, một giấc mơ ập đến.
Trong mơ, tôi thấy mình đứng trước cửa phòng bố mẹ, vào cái đêm cả hai bị giết ấy. Con chó nhỏ giãy giụa đòi chạy ra phía trước. Tôi chạy đuổi theo nó, nhưng lạ một điều là tôi không thấy thi thể của bố mẹ đâu, trên sàn chỉ lênh láng một vũng máu đỏ au. Tôi chạy thật nhanh tới gian trọ phía ngoài thì nhìn thấy bóng dáng một người đàn ông cao lớn bước đi tập tễnh, một người đàn bà phốp pháp, trên lưng có một cái bướu khiến bà ta lom khom như người già. Bọn họ xách một cái bao tải đi đằng trước, theo sau là thằng bé con đã tha cho tôi một mạng kia. Dường như cảm thấy có người đang nhìn theo mình, thằng nhóc kia quay lại nhìn tôi rồi mỉm cười.
Một ánh chớp lóe lên, tôi lại nhìn thấy nốt ruồi trên mũi nó. Thế rồi tôi choàng tỉnh dậy, chân tôi đã thò ra khỏi chăn từ khi nào.
Ở bên ngoài trời đã sáng rõ, ánh nắng đầu tiên của buổi sáng mùa thu chiếu qua khe cửa khiến tôi chói mắt. Tôi vội vàng trở dậy tìm bà, thì thấy bà đang ngồi dưới bếp đun nước để nấu mì tôm. Bà chỉ ăn rất ít rồi nhìn tôi, còn tôi ăn tới bát thứ hai vẫn chưa thấy no bụng. Chờ tôi ăn xong, bà mới nhẹ nhàng nói: “Đêm qua bố mẹ con về đấy Linh ạ!”
Tôi giật mình, đánh rơi đôi đũa đang cầm trên tay, vội vàng hỏi lại: “Bố mẹ cháu về ấy ạ? Lúc nào hả bà?”
Bà khẽ thở dài. “Đêm hôm qua bà có ngủ được đâu, đến khoảng ba giờ sáng thì thấy tiếng chó nhà bên sủa từng tiếng. Người ta bảo, chó sủa một tiếng là ma, ba tiếng là người, nên bà nằm nghe ngóng. Một lúc sau, bà nghe thấy có tiếng bước chân loẹt quẹt ở dưới bếp, hệt như tiếng bước chân của mẹ mày. Sau đó từ cửa sổ, bà thấy rõ ràng một người đàn ông ngồi vắt vẻo trên cây, tay còn đưa lên miệng hệt như đang cầm điếu thuốc lá. Cái dáng người đó, chỉ có bố mày thôi.”
Tôi bàng hoàng cả người. “Rồi sao nữa hả bà? Có thật là bố cháu không? Mà sao bà lại nhìn thấy bố cháu, trời lúc ấy tối lắm mà.”
Bà tôi lắc đầu. “Có ánh đèn ngoài cột điện rọi vào nên bà nhìn thấy, cái dáng ngồi ấy của bố mày thì làm sao mà lẫn đi đâu được.
Lúc ấy bà đã ngủ đâu. Một lúc sau thì bà thấy bóng người ấy biến mất. Ở dưới bếp lại có tiếng ho hệt như mẹ mày hồi còn sống.”
Bà ngừng lại một lúc rồi thở dài. “Lúc đầu bà không tin, vì nghĩ rằng mình nghe nhầm, có khi tiếng động ấy phát ra từ cái đài cát-xét của mày ở trong phòng. Thế nhưng, tiếng ho mỗi lúc một lớn, lại có tiếng dép đi loẹt quẹt… Đến tầm bốn giờ sáng thì không nghe thấy nữa, bà mới tranh thủ chợp mắt một chút. Giờ ngẫm lại mới thấy, đúng là đêm qua bố mẹ mày về đấy. Chắc là về để xem xem hai bà cháu ăn ở thế nào.”
Tôi nghe bà nói mà ngẩn ngơ nghĩ về giấc mơ đêm qua, về bàn tay dịu dàng vuốt tóc tôi rồi bóng người lấp ló ngoài cửa sổ. Chẳng lẽ đêm qua bố mẹ tôi hiện về thật? Tôi khẽ lắc đầu, xua đi nỗi băn khoăn trong lòng. Nếu những gì bà tôi nói là đúng, thì giấc mơ đêm qua của tôi có ý nghĩa hết sức rõ ràng: Bố mẹ muốn chỉ cho tôi biết vóc dáng của hai kẻ đã giết chết họ vào đêm mưa bão năm ấy.
Tối hôm ấy, tôi cố tình đi ngủ từ sớm, trong lòng thầm hi vọng có thể nhìn rõ gương mặt của hai kẻ giết người kia. Khi tôi vừa trèo lên giường thì bà lự khụ bước vào. Bà lật úp đôi dép của tôi xuống, rồi ngồi xuống giường dặn dò: “Nghe bà dặn đây! Từ giờ, trước khi đi ngủ, không được mở cửa sổ ra, rèm phải kéo kín lại, không được để mũi dép hướng lên giường, nhất là không được thò chân ra khỏi chăn. Nhớ chưa?”
Tôi ngây người không hiểu, nhưng bà chỉ lắc đầu chép miệng:
“Cứ làm theo lời bà. Nơi này đất độc, từ cái thời bố mẹ mày chuyển về đây sống, bà đã dặn rồi, thế mà có nghe đâu. Giờ nhà của bà cháu mình đang tu sửa, chưa biết khi nào mới xong. Cháu nghe bà, muốn yên ổn thì đừng có quên. Ngộ nhỡ…”
Bà bỏ lửng câu nói, rồi im lặng. Tôi đang định hỏi bà lý do thì điện thoại dí động đột nhiên đổ chuông, tiếng chuông vui tai thực không phù hợp với không khí lúc này chút nào. Chiếc điện thoại ấy vốn là của chú Long mua cho bà, vì thường xuyên phải ở lại đơn vị nên ngày nào chú cũng gọi về hỏi thăm bà. Bà nói chuyện với chú một lát rồi tắt đèn, lên giường nằm.
Tôi ngước mắt nhìn ra ngoài trời, sắp sang ngày Rằm rồi, bảo sao trăng lại sáng đến thế. Khác hẳn với đêm qua, mặt trăng bị mây đen che phủ nên không thể nhìn rõ bóng người ngoài cửa sổ. Tôi nằm trong chăn, ngẫm nghĩ về những lời bà dặn. Bà nội tôi trước giờ vốn là người ít nói, nhưng đặc biệt thông minh. Tôi còn nhớ, hồi mới về ở với bà sau biến cố ập đến với gia đình, đêm nào tôi cũng khóc. Bà thấy vậy nên ngủ cùng tôi, kể chuyện cho tôi nghe, thỉnh thoảng còn dạy tôi bài ca hóa trị. Chẳng thế mà khi lớn lên, tôi lại học giỏi hóa hơn hẳn những môn học khác.
Nghĩ ngợi chán chê, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ rồi đột nhiên nảy ra một ý. Tôi mở he hé cánh cửa, rồi thò tay xuống gầm giường đặt mũi dép hướng lên trên, xong xuôi lại thò chân ra khỏi chăn. Không phải là tôi không nghe lời bà dặn, mà bởi tôi tò mò muốn biết điều gì sẽ xảy ra khi cùng lúc phạm phải cả ba điều cấm kị ấy. Tôi chờ đợi một lúc rồi cũng thiếp đi. Có lẽ đến chết tôi cũng không thể ngờ, đêm hôm ấy, thằng bé năm nào đã leo lên tận giường rồi nhìn tôi chòng chọc. Ánh mắt nó sáng rực trong đêm tối.
Tôi vẫn nhớ như in, lúc ấy vào khoảng ba giờ sáng, đang say sưa ngủ, tôi bỗng thức giấc bởi tiếng mưa rơi lộp bộp trên mái tôn. Vài hạt mưa theo gió táp vào mặt tôi. Cảm nhận được hơi lạnh, tôi choàng tỉnh giấc. Theo phản xạ, tôi với tay định đóng cánh cửa sổ rồi trùm chăn ngủ tiếp. Thế nhưng chưa kịp làm gì thì đột nhiên bên ngoài có tia chớp lóe lên, sét đánh ầm ầm. Trong giây phút chớp nhoáng ấy, tôi nhìn thấy cuối giường có một người đang ngồi nhìn mình chăm chú. Dưới ánh đèn đường vàng vọt hắt vào trong phòng, tôi thấy rõ người ấy ngồi khom lưng, mặt để lên trên đầu gối, đầu nghiêng sang một bên như thể đang ngắm nghía tôi. Đôi mắt người ấy sáng rực hệt như mắt mèo. Nhiệt độ trong phòng dường như giảm đi vài độ.
Tôi giật thót mình, hoảng hốt kêu lên một tiếng rồi nhoài người bật đèn bàn, toàn thân run bần bật. Ánh sáng màu vàng ấm áp vừa soi tỏ căn phòng cũng là lúc bóng người kia biến mất. Tôi dụi mắt nhìn quanh, chẳng lẽ mình nhìn nhầm, hay chỉ là mơ ngủ? Tiếng bà tôi từ bên trong vọng ra: “Sao thế? Sao thế Linh ơi?”
Tôi lắp bắp trả lời: “Không… không có gì đâu bà ạ. Cháu nằm mơ thôi.”
Bà thôi không hỏi nữa. Tôi nằm xuống, hai chân co quắp, không cả dám duỗi thẳng. Lúc này, tôi rất muốn vùng dậy khỏi chăn để chạy sang ngủ với bà, nhưng lại sợ bà hỏi nên cố kìm nỗi sợ hãi của mình xuống. Trong đầu hiện lên hàng loạt câu hỏi: “Người ấy là ai?
Chẳng lẽ mình nhìn nhầm? Nhưng rõ ràng mình thấy rõ có người ngồi trên giường cơ mà. Làm sao mà nhầm được?” Rồi lại lắc đầu phủ nhận. “Không! Không đúng! Trước khi đi ngủ, mình đã đóng chặt cửa, làm sao có ai vào đây được? Nếu có thì phải có tiếng động chứ… Hay là… hay là có ma…”
Đầu tôi bỗng vang lên lời dặn dò của bà nội: “Không được để dép hướng lên giường, không được mở cửa sổ và càng không được thò chân ra khỏi chăn.” Trong lòng dấy lên một cảm giác rờn rợn, tôi chợt nhận ra trong căn nhà này có thứ gì đó vẫn đang tồn tại song song với chúng tôi. Chỉ cần một phút bất cẩn, thực không biết chúng tôi sẽ phải đối diện với thứ gì nữa.
Nằm thao thức một lúc, cơn buồn ngủ kéo đến khiến hai mắt tôi nặng trĩu. Tôi ngủ thiếp đi rồi lại rơi vào một cơn mộng mị kì lạ.
Trong giấc mơ, tôi thấy mình đứng ở một ngôi làng nhỏ vắng lặng như tờ. Trời mưa rả rích hệt như ở thị trấn quê tôi. Tôi luống cuống chạy vào trú mưa dưới một mái hiên cũ kĩ. Đến lúc này tôi mới có thể nhìn kĩ xung quanh. Một con đường nhỏ chạy thẳng xuống cuối làng, hai bên là những ngôi nhà mọc lên san sát. Trước cửa mỗi nhà đều dán câu đối đỏ chúc mừng năm mới. Có vài cánh cửa còn treo chữ Phúc lộn ngược (được gọi là Phúc đáo), một vài nhà khác thì treo tranh vẽ một vị quan mặc áo đỏ. Nơi này quá lạ lẫm, quang cảnh xung quanh khiến tôi ngờ ngợ, rằng nơi này nhất định không phải ở Việt Nam.
Đang mải mê suy nghĩ, bỗng nhiên bầu trời tối sụp xuống, tôi giật mình kinh ngạc, khẽ lẩm bẩm: “Quái lạ! Sao ở đây trời mau tối thế?”
Khi tôi đang không biết phải làm gì, thì cánh cửa ở mấy ngôi nhà đối diện đồng loạt mở ra. Có vài bóng người kéo chiếc đèn lồng treo trước cửa nhà xuống để thắp nến, sau đó lại treo lên. Ánh sáng tù mù từ ngọn đèn lồng gần như chẳng soi sáng được gì. Thế nhưng, có người xuất hiện vẫn còn hơn là khung cảnh hoang vắng như ban nãy. Nghĩ thế nên tôi vội vàng chạy ra khỏi mái hiên, tới gần một người có vóc dáng thấp bé, đang cặm cụi treo đèn lồng. Trời vẫn mưa như trút. Lúc tôi gần đến nơi, người ấy đang lúi húi bước vào bên trong, toan đóng cửa lại. Tôi vội vã cất tiếng: “Khoan đã, cô gì ơi!”
Nghe thấy tiếng gọi, người ấy dừng lại nhưng không quay đầu.
Trong cảnh tranh tối tranh sáng, tôi chỉ nhìn thấy vạt áo màu nâu nhạt của người ấy thấm ướt vì nước mưa. Tôi vội nói: “Cho… cháu hỏi, đây là đâu thế ạ? Cháu muốn ra khỏi làng thì đi lối nào?”
Cô ta không trả lời, cũng không quay đầu lại. Chưa bao giờ rơi vào tình cảnh này nên tôi rất lúng túng, khẽ cất giọng cầu xin: “Cô ơi! Cô giúp cháu với ạ! Trời tối rồi! Cháu phải về nhà.”
Người đó vẫn đứng im như tượng gỗ. Bàn tay trắng toát hệt như bôi vôi của cô ta vẫn đặt lên trên cánh cửa gỗ mòn vẹt. Tôi bắt đầu mất kiên nhẫn. “Cô quay lại nói chuyện với cháu được không ạ? Xin cô giúp cháu với!”
Cuối cùng thì người đó cũng có phản ứng. Cô ta chầm chậm ngoái đầu lại. Giây phút nhìn cận mặt cô ta, hồn vía tôi như bay lên mây. Gương mặt của cô ta đã nát bấy, không thể nhận dạng được nữa. Cả mặt bê bết máu và giòi bọ. Dường như có kẻ nào đó đã dùng dao băm vằm mặt cô gái ấy ra. Trên gương mặt cô ta là máu thịt trộn lẫn, từng con giòi trôi theo dòng máu chảy trên mặt cô ta, rớt xuống cổ. Tôi hoảng sợ hét toáng lên, rồi ngã sõng soài xuống con đường ngập nước mưa. Cô gái kia hướng mặt về phía tôi một lúc rồi nhẹ nhàng đóng cánh cửa lại, mặc cho tôi sợ đến ngây dại.
Mưa càng lúc càng to. Đúng lúc này, tôi phát hiện ra một điều.
Nơi đây hoàn toàn im lìm, ngay cả một tiếng chó sủa cũng không có.
Vừa nãy tôi hét lớn như thế, đáng lẽ đám chó trông nhà phải sủa inh ỏi lên rồi mới phải. Đằng này… một tiếng động cũng không có, hệt như một ngôi làng chết chóc. Tôi vùng dậy, đập cửa hết nhà này đến nhà khác nhưng không hề thấy ai trả lời.
Nước mắt tôi nhòe đi bởi cơn mưa tầm tã, giữa lúc tuyệt vọng đến cùng cực, tôi chợt trông thấy bóng một người con trai đi tới.
Người ấy cất giọng u ám hỏi tôi: “Nguyễn Phương Linh, sinh ngày mồng Bảy tháng Bảy, cầm tinh con mèo phải không?”
Tôi hơi giật mình nhưng vẫn gật đầu. Người ấy quay lưng lại rồi nói: “Đi theo tôi! Ở đây cách xa nhà lắm rồi!”
Tôi đờ đẫn nhìn theo bóng lưng của người ấy, trong lòng cảm thấy vô cùng bất an. Thế nhưng, tôi vẫn quyết định chạy theo. Có vẻ như người con trai kia biết tôi, nhưng nghĩ mãi tôi vẫn không thể nhận ra giọng nói ấy, bóng lưng ấy của ai, chỉ biết một điều, chắc chắn tôi đã từng nhìn thấy bóng lưng này ở đâu đó rồi.
Cơn mưa ban nãy dường như đã chuyển thành một cơn bão. Sấm sét đì đùng trên cao nhưng người kia vẫn không hề dừng lại. Tôi cắn răng chạy theo, mặc kệ cho gió táp vào mặt. Dù có thế nào, tôi cũng phải rời khỏi ngôi làng quái dị, đầy mùi tử khí này.
Người ấy chậm rãi đi phía trước, tôi hộc tốc chạy theo sau, tiếng bước chân của tôi đạp xuống nước tạo thành những âm thanh lõm bõm. Càng lúc tôi càng cảm thấy kì lạ. Dáng vẻ của người con trai cầm ô đi phía trước kia rất bình thản. Nhiều đoạn đường rất trơn, lại có cả ổ gà nhưng bước chân của người ấy không hề nghiêng ngả.
Tôi căng mắt nhìn xuống dưới chân anh ta nhưng chỉ thấy một lớp sương mù mờ ảo che khuất tầm nhìn. Đi được một lúc, đã thấm mệt vì lạnh và đói, tôi liền gọi với theo trong tiếng thở hồng hộc: “Anh…à… bạn gì ơi! Dừng chân một chút được không? Mệt quá…”
Người đó chợt dừng bước rồi khẽ nói: “Không được! Đường về vẫn còn xa lắm.”
Tôi sợ rằng cứ thế này thì mình sẽ chết trước khi về được đến nhà mất, nhưng nghĩ đến cảnh bà nội đang ngóng chờ, tôi lại cắn răng đi tiếp. Người ấy dẫn tôi đi qua một cánh rừng âm u, tịch mịch.
Tôi bấm mười đầu ngón chân xuống đất, tay bám thật chắc vào mấy cành cây chìa ra bên đường, thầm nhẩm tính trong dầu, con đường này dễ phải dốc hơn ba mươi độ.
Cảnh tượng này làm tôi nhớ đến những con đường mà đoàn cửu vạn ở biên giới phải men theo để tránh đội tuần tra biên phòng. Liền một lúc, họ cõng cả hàng chục cân hàng, phần lớn đều là hàng lậu, đương nhiên là chẳng có thuế, cũng không có bảo hiểm. Nếu như gặp phải thổ phỉ hay bị biên phòng bắt gặp, họ sẽ quẳng gánh hàng lại rồi bỏ chạy. Dẫu sao, mạng người vẫn là trên hết.
Hai chân sưng phồng đau đớn, nhưng tôi không dám kêu ca, cũng không dám dừng lại nghỉ ngơi lấy một phút nào. Trong lòng tôi chỉ sợ, nếu không đuổi kịp người kia, tôi sẽ bị bỏ lại ở giữa khu rừng này.
Phải mất hơn một tiếng sau, chúng tôi mới thoát khỏi khu rừng, ra đến đường quốc lộ. Nhìn thấy một cột mốc có ghi Phó Bảng–10km, tôi điếng người kinh hãi. “Cửa khẩu Phó Bảng? Sao mình lại đi xa thế này?”
Người con trai nghe tiếng tôi thì dừng lại, đôi chân của anh ta vẫn lẫn trong màn sương dày đặc. Tôi muốn nhìn rõ gương mặt anh ta để nói lời cảm ơn, thế nhưng chưa kịp mở lời thì anh ta đã thì thầm:
“Đi về phía trước đi! Ở đấy sẽ gặp một đám ma khô.”
Tôi ngây người không hiểu, vội quay sang nhìn cảnh vật xung quanh, khi quay lại thì người ấy đã biến mất từ lúc nào. Tôi sững sờ đến mức không tin nổi vào mắt mình. Phía trước và phía sau tôi là quốc lộ chạy dài tít tắp, hai bên là cánh đồng trống trải. Ở giữa nơi đồng không mông quạnh thế này, người kia trốn đi đâu được? Tôi hoang mang tìm kiếm, nhưng chẳng thấy gì. Rõ ràng anh ta vừa mới nói chuyện với tôi cách đây vài giây, thế mà giờ cứ như thể đã tan biến vào trong hư vô. Khắp người tôi nổi gai ốc, chẳng lẽ tôi vừa gặp ma?
Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng tôi vẫn cố gắng đi tiếp. Nhà tôi cách đây mấy trăm cây số, nếu không về sớm, có lẽ tôi sẽ chết ở dọc đường mất. Trời vẫn âm u hệt như lúc tôi gặp cô gái có gương mặt bị băm nát kia. Đã đi suốt mấy tiếng đồng hồ rồi nhưng không hiểu sao trời vẫn chưa sáng. Càng lúc tôi càng cảm thấy vô cùng lo lắng, con đường này vắng tanh, không hề có bóng xe cộ qua lại, cũng chẳng thấy đám ma khô như người con trai kia nói. Tôi đi mãi, đi mãi, hết cả con đường lớn, vòng vào một con đường mòn trên núi mà vẫn không gặp bất kì ai.
Đúng lúc nản lòng, muốn ngã khuỵu xuống thì đột nhiên tôi nghe văng vẳng thấy tiếng khèn. Có khi nào là tiếng khèn đám ma vọng tới?
Thấy có dấu hiệu của người sống, tôi mừng lắm, vội vã chạy về hướng có tiếng khèn. Chỉ một lúc sau, tôi đã nhìn thấy một căn nhà nằm cheo leo trên núi. Bên ngoài thấp thoáng vài người phụ nữ đang tất bật nấu nướng, vài người đàn ông đang túm tụm nói chuyện. Mừng hơn bắt được vàng, tôi nhào tới để xin họ ngụm nước. Mặc dù hơi ngạc nhiên, cũng chẳng hiểu tôi nói gì, nhưng người phụ nữ kia vẫn mỉm cười gật đầu, đưa cho tôi một bát nước.
Tôi uống ừng ực, quên cả cảm ơn người ấy. Để tránh làm phiền gia chủ, tôi nép vào một góc nghỉ ngơi, cũng vừa là để quan sát xung quanh. Nhìn trang phục của họ, tôi nhận ra đây là bản làng của người H'Mông. Tục lệ làm đám ma khô của người Mông vốn chẳng xa lạ gì đối với tôi. Họ thường sống quần tụ trên lưng chừng núi, khi một nhà nào đó trong bản có việc là cả làng sẽ cùng chung tay giúp sức.
Nhìn chiếc mẹt nhỏ đựng đầy mèn mén, để lẫn cùng thịt luộc, bánh gạo tẻ và một tấm áo cũ của người chết treo trên cành tre cắm ở giữa mâm, tôi đoán người chết trong nhà này là một bé trai. Người Mông tổ chức đám ma khô sau khi người thân trong gia đình đã chết được một năm. Nghe nói, mục đích của đám ma này là để hỏi xem người chết đã vui vẻ lên đường về với tổ tiên chưa, hay vẫn còn vương vấn chốn trần gian này. Nhà nào có người thân qua đời đều phải làm như vậy.
Những người trong làng kéo đến uống rượu, ăn thịt càng lúc càng đông. Tiếng khèn vang lên dìu dặt, âm u càng làm cho tôi nhớ đến người con trai khi nãy. Rõ ràng tôi đã từng gặp anh ta rồi nhưng nhất thời chưa thể nhớ nổi. Khi tôi còn đang miên man suy nghĩ thì thấy ông thầy cúng kính cẩn tung hai nửa gióng tre lên để hỏi ý người chết. Hai nửa gióng tre được hất lên trên không trung rồi rơi xuống đất. Cả hai nửa đều giống nhau, người chết vẫn chưa muốn rời khỏi đây.
Gương mặt ông thầy cúng thoáng nét ngạc nhiên, ông lại lầm rầm khấn bái rồi tung thêm một lân nữa. Vẫn giống như ban nãy.
Đám đông xúm lại xem xét rồi chỉ trỏ, dường như họ chưa từng thấy chuyện quái dị như thế này trước đây. Tôi cũng tò mò dõi theo.
Mồ hôi trên trán ông thầy cúng đã lăn dài, ông ta tung thêm vài lần nữa nhưng kết quả không hề thay đổi. Ngay cả một đứa con gái chẳng hiểu gì như tôi cũng cảm thấy kì lạ. Xác suất để hai nửa gióng tre kia rơi mặt sấp mặt ngửa là năm mươi - năm mươi, làm sao có thể lạ lùng như thế được. Một ai đó thốt lên bằng giọng Kinh lơ lớ:
“Con ma nhà A Tú chưa muốn đi rồi! Mấy năm rồi vẫn chưa đi! Sắp thành ma của bản rồi.”
Đám đông nhốn nháo nhìn nhau. Đột nhiên tôi phát hiện trên xà nhà có một người đang ngồi vắt vẻo, dửng dưng nhìn xuống dưới.
Ban đầu tôi không để tâm lắm, định xoay người bỏ đi, bất chợt tôi giật mình phát hiện ra một điều khiến bản thân mình choáng váng.
Người con trai ấy có một nốt ruồi ở giữa mũi. Tôi hoảng hồn quay lại, nhưng chẳng còn thấy gì nữa. Thế rồi, tôi choàng tỉnh dậy.