Thế gian này tuy có ngàn vạn loại cỏ hoa, nhưng tựu chung lại có thể phân thành bốn chủng: Hoa thần, Hoa tiên, Hoa yêu, và các thứ hoa cỏ không có khả năng hóa hình. Hoa cỏ thế gian đều có tri có giác, nhưng nhóm có thể đón nhận linh khí đất trời mà thanh tu để hóa hình, lại chỉ là thiểu số, hoặc là cần có căn cốt tốt, vừa sinh ra đã là chủ của một tộc; hoặc là chỗ sinh ra cũng phải không tệ, linh khí tụ hội, tùy tiện tu hành cũng có thể tu thành một yêu tinh xinh đẹp.
Trăm loại hoa cỏ trong lầu Thập Hoa đều thuộc về loại đầu tiên. Cha của Thành Ngọc năm xưa quả thực đã phí hết tâm huyết, lừa đưa được tộc trưởng của trăm tộc hoa vào lầu Thập Hoa, mới bảo vệ được Thành Ngọc nàng bình yên độ qua được bệnh kiếp trong số mệnh. Cần biết rằng nếu không phải vì Thành Ngọc, trăm loại hoa cỏ này từ hơn mười năm trước đều đã hóa hình được rồi, trong lầu Thập Hoa bây giờ cũng không đến nỗi chỉ có mỗi hai người là Chu Cẩn và Lê Hưởng tọa trấn.
Mà Hoa Phi Vụ cắm đầu chạy ra từ rừng sâu núi thẳm, lại có thể xem như là đại diện cho loại thứ hai.
Ngọn núi quê nhà của Hoa Phi Vụ, cũng không phải là một ngọn núi bình thường, mà là núi tiên Chức Việt giăng kín sương thiêng trong thế giới thần tiên tứ hải bát hoang. Thương Di Thần quân chưởng quản sông núi trong tam thiên đại thiên thế giới cư ngụ ở nơi này.
Hoa Phi Vụ lớn lên trong một cái đình bên cạnh hậu hoa viên của Thương Di Thần quân, Thần quân rất thích uống trà ở trong cái đình này, nước trà nếu uống không hết đều tưới cả lên người Hoa Phi Vụ. Thần quân không biết đem nước trà tưới hoa vốn là đại kỵ, Hoa Phi Vụ cũng coi như cao số, chẳng những không bị từng chén, từng chén trà của Thần quân tưới chết, ngược lại còn vô duyên vô cớ, bỗng một ngày, đột nhiên hóa hình thành yêu.
Thành Ngọc hết sức hiếu kỳ với việc này, bèn hỏi Hoa Phi Vụ: “Nếu cô đã hóa hình trong phủ của thần tiên, thì sau khi hóa hình, không phải nên hóa thành hoa tiên hay hoa thần ư? Sao lại hóa thành yêu thế này?”
Hoa Phi Vụ thần thần bí bí giải thích với nàng: “Bởi vì Hoa Chủ đã mất, vạn hoa thành yêu, thế gian này sớm đã không có hoa thần rồi.”
Thành Ngọc nói: “Tôi vẫn chưa hiểu.”
Hoa Phi Vụ không chút xấu hổ thừa nhận cái câu này do nàng nói ra nhưng chính nàng cũng không hiểu lắm, sờ sờ mũi nói: “Không hiểu cũng không sao, chỉ là ai cũng nói thế ấy mà.”
Sợ Thành Ngọc truy hỏi, Hoa Phi Vụ liền chuyển đề tài khác hỏi Thành Ngọc: “Tại sao hoa ở nơi này đều gọi cô là Hoa Chủ? Trong tứ hải bát hoang cũng từng có một vị Hoa Chủ, cô ấy là hồng liên tu thành, là tôn giả trong các hoa thần, được tôn sùng là chủ của vạn hoa,” buông lỏng tay: “Cho dù sau này chẳng hiểu vì sao lại mất, nhưng trước khi cô ấy tạ thế, nghe bảo chỉ có mỗi mình cô ấy đủ tư cách được tôn xưng là Hoa Chủ thôi.”
Lúc đó Thành Ngọc chỉ mới mười ba tuổi, Thành Ngọc mười ba tuổi không có chút nào chú ý đến vị thần tiên đã chết đó trong lời của Hoa Phi Vụ, cũng không hề để tâm bản thân mình có đụng chạm xưng hô với thần tiên không. Nàng gần đây vừa mới bị Chu Cẩn thu lại tài quyền, chỉ toàn tâm toàn ý lo lắng cho tiền đồ tương lai của bản thân, vốn dĩ không hề có tâm ý nghĩ đến chuyện gì khác.
Nàng trả lời Hoa Phi Vụ: “Bọn họ gọi tôi là Hoa Chủ, bởi vì tôi là lão đại của lầu Thập Hoa, nhưng kỳ thực tôi cũng chẳng phải là lão đại chân chính của lầu Thập Hoa đâu, tôi không có tiền, Chu Cẩn mới là lão đại chân chính của chúng tôi ấy.”
Hoa Phi Vụ cũng có hơi kinh ngạc, hỏi nàng: “Vậy tiền hôm đó cô đem tới tìm tôi là từ đâu mà có?”
Thành Ngọc nhìn về phía chân trời, thản nhiên đáp: “Thắng được trong sòng bạc.”
Rồi bị Chu Cẩn vội vội vàng vàng chạy tới tìm người nghe thấy, sau khi áp tải về lầu Thập Hoa thì liền bị nhốt thêm mười ngày.
Hoa Phi Vụ muốn tìm một người thật lòng ở phàm thế, chìm nổi ở cái hố tiêu vàng như gác Lâm Lang này một năm có lẻ, mới phát hiện ra rằng, trong đám công tử quần là áo lượt vui đùa chốn nhân gian này, thực tế không thể tìm đâu ra một người thật lòng hợp tâm hợp ý.
Sau khi lĩnh ngộ được chuyện này, Hoa Phi Vụ cuối cùng cũng có một lần thông minh ra, nàng sâu sắc cảm thấy, nếu muốn thực hiện được tâm nguyện này, chỉ có thể tìm một con đường khác.
Có điều nàng lại không quen thuộc với chuyện ở phàm thế, suy xét hồi lâu, cuối cùng lại cầu cứu một người phàm duy nhất mà nàng vừa quen biết lại vừa còn có giao tình tốt đẹp — Thành Ngọc mười bốn tuổi — làm tham mưu cho nàng.
Những nhà giàu có ở triều Đại Hi nuôi con gái, phàm là có trưởng bối vững vàng chu đáo trong nhà, đều đợi con trẻ lớn đến mười ba mười bốn tuổi thì lên kế hoạch thay mặt xem xét hôn sự. Hoa Phi Vụ mời Thành Ngọc, chính là vì nghĩ Thành Ngọc đã bước vào tuổi phải bàn hôn luận gả, đáng lý đã phải nghiên cứu qua chuyện gió trăng trên đời một chút, có thể làm được chức tham mưu của nàng.
Nhưng Thành Ngọc từ nhỏ đã không cha không mẹ, hai hoa yêu Chu Cẩn, Lê Hưởng nuôi nàng lớn lên, cũng không dựa theo lễ mạo để nuôi ra một vị Quận chúa hiền lương thục đức, mà chỉ coi trọng việc nàng có hoạt bát khỏe mạnh hay không. Hơn nữa còn vì để nàng có một thân xương cốt chắc khỏe, Chu Cẩn còn ngấm ngầm cho phép nàng lấy tên Ngọc Tiểu công tử trà trộn khắp phố phường trong thành Bình An, hợp cùng mấy đám thiếu niên hoạt bát khí khái hăng hái, bắn tên đấu vật đá cầu, làm cho tính tình của Thành Ngọc kỳ thực có phần giống với một bé trai hơn.
Hồng Ngọc Quận chúa Thành Ngọc, không giống các thiếu nữ khác lớn lên trong thành Bình An lúc này đã bắt đầu trộm nghĩ lang quân tương lai của mình có hình dạng tuổi tác thế nào, chuyện lớn thứ nhất trong cuộc đời nàng chính là làm sao kiếm được thêm nhiều tiền, chuyện lớn thứ hai trong đời nàng chính là làm sao đá được thêm mấy trái cầu nữa vào trong khung thành ở lần thi đá cầu tiếp theo.
Bởi thế, khi Hoa Phi Vụ phong sương uể oải đến lầu Thập Hoa tìm nàng, muốn cùng nàng bàn bạc chuyện gió trăng, chính là lúc Thành Ngọc vừa mới hoàn tất việc chép thay mấy quyển bài tập của Vạn Ngôn Trai, vẫn còn chưa kịp đem giấu, toàn bộ tinh thần còn rất mơ mơ hồ hồ.
Có điều nàng là người nghĩa khí, đoán chắc chuyện này hẳn cũng không quá khó khăn, tiễn Hoa Phi Vụ đi rồi liền đóng cửa chuyên tâm nghiên cứu các câu chuyện về thần tiên yêu quái kết duyên cùng với phàm nhân, chuyên tâm mấy ngày, tự thấy bản thân đã rất hiểu, qua hôm sau liền chạy đến Gác Lâm Lang.
Biện pháp đầu tiên mà Thành Ngọc tiến cử cho Hoa Phi Vụ, chính là phương pháp mượn dù trả dù trong “Bạch Nương Tử vĩnh trấn tháp Lôi Phong.”
Chuyện kể rằng Hứa Tuyên ở dưới mái hiên của một phòng trà nhỏ nơi đầu hẻm chỗ giếng Thẩm công, mượn của Bạch Nương Tử một cây dù, ngày tiếp theo Hứa Tuyên đến nhà Bạch Nương Tử trả lại cây dù ấy, một lần mượn một lần trả này, ân đã có, tình cũng nảy sinh, mới có thể làm nên một bộ “Bạch Nương Tử truyện” ấy.
Nàng bảo Hoa Phi Vụ cũng đừng ngại nhân lúc trời đổ mưa to, mang theo nhiều dù đến chờ ở bến đò nhỏ ngoài thành Bắc. Cứ thấy công tử tuấn tú nào từ trên thuyền bước xuống mà chẳng mang theo dù thì cứ đem dù cho mượn, chưa biết chừng có thể tóm được một tên xấu số kết thành một đoạn kỳ duyên với nàng.
Hoa Phi Vụ chạy ra từ chốn thâm sơn chưa từng thấy qua chuyện đời, cũng chưa từng đọc đến hai quyển sách, tức thời cảm thấy phương pháp này đúng là khiến người thần kinh ngạc, ngay cả phương pháp thứ hai còn chẳng thèm nghe, lập tức cao cao hứng hứng đi chuẩn bị dù.
Trời không phụ lòng người.
Ngày tiếp theo liền đổ xuống một trận mưa.
Khi Thành Ngọc bị Hoa Phi Vụ xách ra khỏi lầu Thập Hoa chạy một mạch đến đứng yên ổn ở bến đò ngoài thành Bắc, nàng vẫn còn ngủ gà ngủ gật.
Bên cạnh bến đò có một cái đình gỗ, hai người đang đứng nói chuyện riêng trong đình. Hoa Phi Vụ chỉ tay về phía hai cái sọt to bằng trúc được đậy bằng giấy dầu, thấp thỏm hỏi Thành Ngọc: “Tôi mang theo hai mươi cây dù, Hoa Chủ cảm thấy đủ hay không đủ?”
Thành Ngọc mơ mơ màng màng nói: “Hả?”
Hoa Phi Vụ vặn vẹo bàn tay nói: “Sự việc lần này tôi có tính toán thế này, lỡ như nhóm công tử bước xuống thuyền hôm nay ai nấy đều là thanh niên tài tuấn, ai ai cũng đều thuận mắt tôi, vậy thì một hai cây dù, chắc chắn là không đủ, mang theo hai mươi cây thì miễn cưỡng mới êm xuôi được.”
Thành Ngọc liền ngồi xổm xuống lật tới lật lui mấy cây dù trong sọt, hỏi Hoa Phi Vụ: “Chúng ta vác hai cái sọt dù này đến bến đò, sau đó tôi đứng bên cạnh cô canh giữ hai cái sọt trúc này, sau đó cô để mắt tới ai thì tôi đưa một cây dù cho người đó ấy à?” Nàng thành tâm thành ý khuyên nhủ Hoa Phi Vụ: “Chuyện này hình như hơi giống như chúng ta đang bán dù ấy.” Khuyên đến đây lại đột nhiên nhạy bén ra: “Hôm nay thời tiết thế này, bán dù được lắm, chúng ta…”
Hoa Phi Vụ cấp tốc ngăn nàng lại: “Hay là Hoa Chủ cứ đứng đây canh chừng hai cái sọt này đi, tôi cầm theo mấy cây đi dò đường trước, nếu như khách nhân xuống thuyền đều là hàng tốt, tôi lại trở về lấy nốt số còn lại, còn nếu không, đem ba bốn cây cũng coi như đủ rồi.”
Thành Ngọc trừng mắt nhìn hai cái sọt trúc trước mặt, cảm thấy chúng sẽ hết mau thôi.
Hoa Phi Vụ đi ra khỏi đình mới sực nhớ ra, cấp tốc lui về dặn dò Thành Ngọc: “Hoa Chủ thề với tôi là cô sẽ không bán số dù tôi để lại đi.”
Mũi chân Thành Ngọc vẽ vài vòng dưới đất: “Được thôi,” Rồi ngẩng đầu e dè nhìn nàng một cái: “Vậy… cô muốn nói giá thấp nhất là bao nhiêu thì không được bán?”
Hoa Phi Vụ nghiến răng: “Bao nhiêu cũng không được bán!”
Đình gỗ nhỏ tọa lạc ở một nơi hẻo lánh, lại bị che khuất bởi hai gốc cây trước mặt, không được mấy người tìm đến nơi này trú mưa.
Thành Ngọc canh chừng hai cái sọt dù che mưa này đến mức lim dim buồn ngủ, trong lúc mơ màng lại nghe thấy có tiếng nam tử vang lên trên đỉnh đầu nàng: “Dù này bán thế nào?”
Nàng giật mình, nửa mở mắt lên, nhìn thấy một đôi hài thêu hoa văn hình mây đế trắng đã ướt nửa, lại nhìn lên trên một chút, nhìn thấy một góc của chiếc áo gấm trắng tinh ướt nửa. Thành Ngọc tuy rằng đầu óc vẫn còn chưa tỉnh táo lắm, nhưng theo bản năng nhớ đến lời căn dặn của Hoa Phi Vụ trước lúc ra đi, thế nên ậm ờ nhỏ giọng đáp lại người đến: “À, không bán.”
Ngoài đình chỉ có tiếng gió mưa, trong tiếng gió mưa gào thét, người nọ lãnh đạm nói: “Ta thành tâm muốn mua, tiểu huynh đệ cứ việc ra giá.”
Thành Ngọc dụi dụi mắt ra vẻ khó xử nói: “Không có giá.”
“Vậy sao? Nhiều dù thế này, lại không có lấy một cây nào có giá ư? Chuyện này thú vị đấy.” Trong giọng nói kia ẩn chứa một phần hứng thú, giống như quả thực cảm thấy chuyện này có điều thú vị.
Thành Ngọc nghĩ không ra bán với không bán thôi mà, chuyện này có gì thú vị, nàng vừa dụi mắt xong, liền ngẩng đầu lên nhìn người đó một cái.
Ánh mắt của nam tử cũng vừa vặn liếc qua, ánh mắt hai người vì vậy mà giao nhau giữa không trung. Thành Ngọc sững sờ, nam tử cúi đầu tiếp tục lật giở dù, ngón tay thon dài trong suốt, lóng lánh như ngọc, nam tử tùy ý nói: “Mưa to thế này, tiểu huynh đệ bán cho ta một cây, xem như làm một việc tốt giúp người, được không?”
Thành Ngọc không đáp lời, nàng vẫn còn đang ngẩn ngơ.
Nói đến trình độ thưởng thức người đẹp, trong triều Đại Hi, nếu Ngọc Tiểu công tử nhận đứng thứ hai thì không có ai dám nhận đứng nhất. Ngay cả tiên hoàng đế cất trữ ba nghìn giai lệ trong hậu cung, trình độ ở phương diện này cũng không bì kịp một phần vạn của Ngọc Tiểu công tử từ nhỏ đã lớn lên ở lầu Thập Hoa, lớn hơn một chút đã chạy tới Gác Lâm Lang lăn lộn nhẵn mặt.
Thiên phú vượt trội về phương diện thưởng thức mỹ nhân của Thành Ngọc, chính là do ngày ngày đều gặp một đống mỹ nhân mà thành. Nàng có một bí mật mà chỉ có các hoa cỏ mới biết được: Bẩm sinh nàng đã có năng lực nhìn thấy thực vật trong thời kỳ nở hoa, không phải mỹ nữ quyến rũ thì cũng là công tử anh tuấn, bất kể hoa cỏ đó có thể hóa hình hay không thể hóa hình.
Ví như Diêu Hoàng khi còn chưa hóa hình, lúc chưa nở hoa, Thành Ngọc chỉ nhìn thấy hình dạng của một cây hoa mẫu đơn chưa nở hoa của hắn, đến khi nở hoa, thứ nàng nhìn thấy đã không phải là bản thể của Diêu Hoàng, mà là một thanh niên khôi ngô ngày ngày bệ nghễ ngồi trên bàn sách trong khuê phòng của nàng. Thoạt đầu nàng chỉ cảm thấy áp lực quá lớn, về sau lúc Diêu Hoàng nở hoa, nàng liền dọn hắn đến phòng Chu Cẩn ở sát bên, từ đó đêm nào cũng có thể nghe tiếng hai người họ chong đèn nói chuyện, hai hoa yêu này đã hiểu biết rộng, lại còn ham học, nàng nằm mơ cũng có thể nghe thấy tiếng Diêu Hoàng chong đèn luận chứng định lý Pythagore với Chu Cẩn, thật sự là một hồi ức nhớ đến mà kinh…
Bởi vì lớn lên như vậy, định lực của Thành Ngọc đối với chữ “sắc” có thể xem là có đủ mười phần, ngắm khuôn mặt của một người xa lạ đến ngơ ngẩn, loại chuyện này từ lúc sinh ra đến giờ nàng chưa từng trải qua. Điều này khiến nàng cảm thấy rất bất ngờ, khó tránh chăm chú nhìn thanh niên trước mặt bằng cả hai con mắt.
Thanh niên chú ý đến ánh mắt chăm chú của Thành Ngọc, đánh giá nàng một lượt từ đầu đến chân, đột nhiên bật cười, ý cười không đến được đáy mắt, bởi vì đó là một nụ cười nhàn nhạt, nhưng lại ẩn chứa lạnh lẽo, lại có dáng vẻ phong lưu. Thành Ngọc gặp qua rất nhiều người đẹp, nhưng chưa từng thấy ai mang trên mình thứ khí chất mâu thuẫn thế này.
Trong tiếng gió mưa tĩnh lặng, thanh nhiên hơi nhíu mày: “Cô là một cô nương.”
Thành Ngọc nữ cải nam trang xưa nay chưa từng bị nhận ra đột nhiên thấy trong đầu nổ ầm một tiếng. Nhưng nàng cũng không hề chú ý đến thanh niên đang nói gì. Toàn bộ thân tâm nàng đều đang đặt hết trên khuôn mặt của thanh niên: Một cái nhíu mày lại khiến cả khuôn mặt lãnh đạm của người này trở nên sinh động, đúng là đẹp tuyệt trần.
Thành Ngọc có chút mê man hốt hoảng, nhưng trong lúc mê man nàng vẫn không quên tính toán cho bạn tốt chốn khuê phòng là Hoa Phi Vụ của mình, quả nhiên là hình mẫu khuê mật chuẩn mực.
Đầu óc nàng xoay chuyển cực nhanh, lòng nghĩ thanh niên tùy ý vào đình này, tướng mạo bậc ấy, trực tiếp có thể trên đánh động hoàng thiên dưới đánh động hậu thổ, Hoa Phi Vụ tuyệt đối không thể không để mắt, nhưng nhân duyên hội hợp, Hoa Phi Vụ lúc này lại không có ở đây, không thể không cần nàng làm chủ thay cho Hoa Phi Vụ.
Thanh niên lại cất lời thêm lần nữa: “Cô nương, dù này,” Lời còn chưa nói xong, đã bị một cây dù trúc tím chắn ngang trước mặt chặn lại, Thành Ngọc nhìn chằm chằm đôi mắt sáng rực của thanh niên: “Dù này nói bán thì đúng là không bán, nhưng cho công tử mượn một cây thì có thể, hôm nào công tử nhớ ra thì hãy đến Gác Lâm Lang.” Bổ sung thêm một câu: “Tìm Hoa Phi Vụ.”
Thanh niên nhận lấy dù, cúi đầu nghịch nghịch trên tay một lát: “Gác Lâm Lang, Hoa Phi Vụ?”
Thành Ngọc gật đầu, ánh mắt vẫn không nỡ di dời khỏi khuôn mặt của thanh niên. Thanh niên lại đưa mắt nhìn nàng, ánh mắt không hề có chút ấm áp, nhưng ở nơi sâu nhất trong đôi mắt lại nổi lên chút hứng thú, thế nên đôi mắt dừng lại trên khuôn mặt nàng cũng lâu thêm một chút, làm Thành Ngọc chú ý đến con ngươi của thanh niên không ngờ lại thiên về màu hổ phách sậm.
“Nếu ta nhớ không nhầm, Gác Lâm Lang là một thanh lâu. Còn cô nương đây, lại giống như tiểu thư con nhà đàng hoàng.” Thanh niên nói.
Ý của chàng chính là muốn hỏi tại sao nàng lại muốn đem dù trả cho Gác Lâm Lang. Chuyện này nói ra thì rất dài, cũng là một chuyện mà nàng lười giải thích, cho nên Thành Ngọc hết sức tùy tiện tìm một lý do thoái thác cho mình: “Chẳng vì sao cả, chỉ là tôi vẫn thường hay đến Gác Lâm Lang tìm vui thôi mà.”
Thanh niên nhìn nàng, ánh mắt di động từ hai mắt xuống đến cằm nàng, im lặng một lát, lại di động xuống thêm mấy tấc: “Tìm vui.” Thanh niên mỉm cười: “Cô có biết thanh lâu là nơi như thế nào không?”
Chuyện này Thành Ngọc đương nhiên rất rõ, không nghĩ ngợi nhiều liền đáp: “Là nơi tìm nhạc mua vui chứ gì.”
Biểu cảm của thanh niên lại có chút sâu xa: “Bởi vậy một cô nương như cô, rốt cuộc đến thanh lâu tìm nhạc mua vui thế nào được?”
Thành Ngọc lập tức nghẹn lời, nàng có thể đến thanh lâu tìm cái nhạc gì mua cái vui gì? Chẳng qua là vung tiền tìm Hoa Phi Vụ nhúng cái lẩu ăn thôi, nhưng việc này làm sao nói ra miệng được.
Nàng ấp úng hồi lâu, tùy tiện trả lời thanh niên: “Uống chút rượu chẳng hạn…” Tùy tiện nói xong cuối cùng cũng nhớ ra nàng trả lời thanh niên áo trắng này hoàn toàn là vì làm mai cho Hoa Phi Vụ, nói lắm chuyện của mình như thế làm gì, cho nên lập tức thông minh đem chủ đề chuyển lại lên người Hoa Phi Vụ, còn theo cơ sở đó thừa nhận hình tượng nàng chính là một vị khách quen ở thanh lâu, trịnh trọng nói với thanh niên: “Bởi vậy công tử có thể tin tưởng, tôi và Hoa khôi nương tử Hoa Phi Vụ của Gác Lâm Lang vô cùng thân thuộc.”
Thanh niên nói: “Ờ.”
Ờ là có ý gì, Thành Ngọc nhất thời nghĩ không ra, nhưng nàng quan sát sắc mặt suy đoán, cảm thấy thanh niên này chí ít không có vẻ gì giống như chán ghét việc nàng tiếp tục nói chuyện, nàng liền buông lỏng chính mình, âm thầm nhận tội với thần phật khắp nơi về mấy lời nói nhăng nói cuội sắp sửa thốt ra, hai tay nhẹ nhàng chấp lên trước ngực: “Tại sao dù này phải trả lại cho Hoa Phi Vụ à? Bởi vì dù này thực sự không phải của tôi, mà là của Hoa Phi Vụ. Hoa Phi Vụ ấy à, người đã xinh đẹp thì thôi, lại còn trời sinh đã có tấm lòng Bồ Tát, thường nhân lúc trời mưa đến bến đò này làm phước cho những người bị ướt mưa, đây chính là nguyên nhân dù này không bán.”
Nàng nói nhăng nói cuội hết sức sinh động, cũng hết sức đáng tin, nàng còn hợp thời đưa cho thanh niên áo trắng một kiến nghị: “Hoa Phi Vụ tính tình nhã nhặn hiền thục, lại thêm giỏi ca giỏi múa, công tử đi trả dù nếu thời gian, cũng có thể thưởng thức lời ca điệu múa của cô ấy một chút, nghe nói Nhị công tử nhà Tả Thượng thư từng nghe nàng hát một khúc thanh ca, ba tháng liền không biết mùi thịt là gì, Lâm Tiểu hầu gia xem cô ấy múa kiếm một lần, liền đuổi hết tất cả vũ cơ trong phủ.”
Nàng bịa chuyện đến mức chính nàng cũng thấy cao hứng, còn cảm thấy chính mình thật có tài hoa, nàng đang dùng thủ pháp song song [1] để tâng bốc Hoa Phi Vụ á! Nhưng cao hứng xong nàng mới cảm thấy thôi hỏng rồi, nàng nhớ nhầm mất, người có thể múa kiếm không phải là Hoa Phi Vụ, Hoa Phi Vụ ngoại trừ xinh đẹp, giọng hát không tệ ra thì cái gì cũng không biết, múa kiếm có tiếng khắp cả vương đô là đối thủ không đội trời chung của Hoa Phi Vụ.
Nàng lại nhanh chóng bổ sung cho Hoa Phi Vụ: “Có điều gần đây Phi Vụ bị trật chân, chắc là không xem cô ấy múa được, đáng tiếc đáng tiếc.” Nàng vừa thở dài vừa nói đáng tiếc vừa trộm nhìn thanh niên áo trắng, trong lòng cảm thấy bản thân đã ra sức thế này, cho dù là một cái chày gỗ thì cũng phải động lòng rồi chứ, nàng nghĩ trên mặt thanh niên hẳn phải có một chút say mê mới phải.
Nhưng thanh niên cúi đầu nhìn dù trên tay, tịnh không có chút phản ứng nào quá lớn, nàng cũng không thấy rõ được biểu cảm trên mặt thanh niên là gì. Hồi lâu sau chỉ nghe thanh niên hỏi nàng: “Thế cô nương tên gì?”
Thành Ngọc giật mình: “Hả?”
Thanh niên mở dù trên tay ra, dù bị mở bung ra, phát ra một tiếng phạch, gương mặt của thanh niên bị che lại sau dù.
Động tác thanh niên nhận dù, cầm dù, mở dù, không tính là chậm, nhưng Thành Ngọc có thể bắt kịp toàn bộ động tác đó, theo cùng tất cả động tác đó, thứ đầu tiên xuất hiện là đường cong của chiếc cằm nghiêm nghị, tiếp theo đó là cánh môi và chóp mũi, sau cùng là đôi mắt màu hổ phách không rõ đang có ý vị gì.
Thanh niên nén giọng hỏi lại lần nữa: “Ta hỏi, cô nương tên gì?”
Thành Ngọc hồi lâu sau mới có phản ứng lại, ho một tiếng: “Tôi á,” Nàng nói: “Tôi chỉ là một người tốt tình cờ được Hoa Phi Vụ đưa đây đến làm phúc mà thôi, mấy thứ như tục danh thật không đáng nhắc tới.”
Thanh niên mỉm cười, cũng không hỏi nữa, chỉ nói một tiếng cảm ơn, cũng nhận lời ngày tiếp theo sẽ trả dù lại cho Gác Lâm Lang, rồi cất bước tiến vào trong màn mưa.
Khi Liên Tống căng chiếc dù vừa mượn về đến biệt viện Cảnh Sơn, nhóm tiểu nha hoàn thường hầu hạ tại biệt viện đã thu xếp ổn thỏa khu vực suối nước nóng trong đình. Đại nha hoàn Thiên Bộ nhanh chóng bước qua tiếp lấy chiếc dù trên tay chàng, vừa thay chàng cầm ô, vừa hỏi ý chàng muốn uống chén rượu nóng cho ấm người trước hay muốn ngâm mình trong suối nước nóng trước.
Thế mưa đã nhỏ lại, hoa lê trong viện bay lất phất trong mưa, thanh niên áo trắng dõi mắt nhìn hoa lê bay trong mưa: “Đem rượu đến suối nước nóng, còn dù,” Dừng một chút: “Ngày mai sai người mang đến Gác Lâm Lang.”
Chốn quan trường của triều Đại Hi có hai vị kỳ nhân, một vị được hoàng đế cực kỳ sủng ái nhưng chỉ một lòng muốn về quê mở quán bán điểm tâm, chính là đương triều Quốc sư, vị còn lại rõ ràng là người đứng hàng đầu võ tướng nhưng lại càng phong nhã xinh đẹp hơn hẳn toàn bộ Thám hoa quốc triều, chính là đương triều Đại tướng quân.
Vị Quốc sư cả cuộc đời chỉ nghĩ đến việc mở một hàng điểm tâm tên là Túc Cập, cũng là người có ơn cứu mạng Thành Ngọc. Còn vị Đại tướng quân đương triều vừa phong nhã vừa xinh đẹp, chính là công tử áo trắng mà Thành Ngọc cảm thấy rất có thể kết thành giai ngẫu cùng với Hoa Phi Vụ — Liên Tống Liên Tướng quân.
Liên Tống xuất thân từ Hầu phủ, là con trai thứ ba của lão Trung Dũng Hầu, mười bốn mười lăm tuổi đã cùng với phụ thân chinh chiến sa trường, nhiều lần lập được kỳ công, hai mươi lăm tuổi đã được phong làm Đại tướng quân, được ban cho Đại tướng quân phủ, cũng là Đại tướng quân nhất phẩm trẻ tuổi nhất bản triều từ khi khai quốc đến nay.
Quốc sư Túc Cập mắt luôn ngước lên trời, bình sinh chỉ khen ngợi một người, chính là Liên Đại tướng quân cùng tề danh với gã, nói Liên Tam dũng cảm kiên định, phá được cường địch, lập được quốc uy; Liên Tam nhã nhặn lịch thiệp, dụng được đan thanh [2], tấu được ngọc địch; Liên Tam thật có phong thái của thần tiên giáng thế.
Túc Cập tương đối có mấy phần tiên căn, đã tu thành nửa thân chính quả, bởi thế lời gã khen tặng Liên Tam, thế nhân tuy rằng nghe xong đều thấy những lời này là một loại khen ngợi khoa trương khuếch đại, nhưng hai người Quốc sư và Liên Tam đều hiểu rất rõ, gã không phóng đại chút nào, Liên Đại tướng quân Liên Tam, đích thực là thần tiên giáng thế.
Đại thiên thế giới có trăm vạn phàm thế, triều Đại Hi chỉ là một trong số đó mà thôi. Được thượng thiên nuôi dưỡng trong trăm vạn phàm thế này đều là phàm nhân, trời sinh trời dưỡng, thọ có thời tận. Nhưng ngoài phàm thế lại là thế giới thần tiên tứ hải bát hoang. Trong thế giới thần tiên tứ hải bát hoang đó, con trai thứ ba của Thiên Quân trên Cửu Trùng Thiên là Tam điện hạ Liên Tống quân giữ chức Tứ Hải Thủy Quân, chưởng lĩnh thủy vực bốn biển đông tây nam bắc, cũng là Thủy thần tối cao của tám cõi.
Thủy thần Liên Tống quân chí cao tám cõi rời khỏi tứ hải đến nơi phàm thế này, là bởi vì một vị thần tiên khác. Người đó chính là Hoa thần Trường Y bốn mươi bốn năm trước đã chết dưới tháp Tỏa Yêu nơi cảnh trời thứ hai mươi bảy trên Cửu Trùng Thiên.
Lúc đang ngâm mình trong suối nước nóng, Liên Tống nhìn hoa lê ướt mưa bay trong viện đến mức xuất thần.
Từ sau khi Trường Y chết, hoa cỏ trên thế gian tựa hồ cũng đều mất đi một phần màu sắc. Trước đây khi Trường Y còn tại thế, hoa lê trong mưa trên thế gian này, thế nào cũng khiến người ngắm có cảm hứng như giai nhân hai mắt chứa chan dòng lệ, cũng có khi khiến người ta thương mến. Hôm nay lại chỉ giống như tiểu thiếu phụ chịu biết bao ức hiếp, co ro trong màn mưa, nhìn thấy chỉ khiến người ngắm phiền lòng.
Nhưng cảnh hoa lê trong mưa lạnh đầu xuân và cảnh hoa lê khiến người lòng người phiền muộn này, lại làm Liên Tống không biết tại sao, đột nhiên nhớ đến lần đầu gặp mặt Trường Y.
Chuyện đó quả thực là chuyện cũ của rất nhiều năm về trước. Rốt cuộc là bảy trăm năm trước hay là tám trăm năm trước, Liên Tống cũng không nhớ lại cặn kẽ, chung quy cũng là vào khoảng thời gian đó.
Lúc ấy Dao Trì trên Cửu Trùng Thiên còn chưa có người cai quản, trăm hoa trên đời còn chưa có Hoa Chủ. Vị trí Hoa Chủ không có người ngồi, có nhiều sự việc không thuận lợi, những chuyện này kỳ thực cũng không có liên quan gì tới chàng, đáng tiếc bạn tốt của chàng là Đông Hoa Đế Quân chưởng quản tiên tịch và chức vụ của chúng thần tiên, trong một lần chàng đánh cờ thua Đế Quân, Đế Quân liền qua quít ném cái trọng trách này lên đầu chàng, để chàng tạm thời thay quyền quản lý.
Chàng tạm thời đội cái chức vị đó trên đầu, nhìn đám hoa thần dưới trướng vì chức vị Hoa Chủ đấu tới đấu lui trong sáng ngoài tối, có một thời gian thấy bọn họ đấu nhau rất thú vị, lại có thời gian cảm thấy oanh oanh yến yến phiền lắm thay.
Mà phần lớn thời gian chàng đều thấy bọn họ rất phiền.
Cửu Trùng Thiên đồn đại rằng, Tam điện hạ chàng là một công tử đào hoa bậc nhất trong Thần tộc, cái danh phong lưu của chàng bốn biển đều biết, Thủy thần trẻ tuổi, anh tuấn thiện chiến, địa vị tôn quý, Thiên tộc lại luôn sùng võ, các cô nương tự nhiên đều yêu thích chàng.
Nhưng thế gian có loại phong lưu hữu tình đúc thành từ lời ngon tiếng ngọt, dịu dàng thân thiết, hoặc có thể nói cái gọi là phong lưu trên thế gian này đại đa số đều chính là loại phong lưu ấy; nhưng thế gian cũng có một thứ phong lưu vô tình đúc thành từ lãnh đạm thờ ơ, phải mà cũng như không phải, đây chính là loại phong lưu mà Tam điện hạ sở hữu.
Mà Tam điện hạ rất khác với hai vị ca ca từ nhỏ đã cẩn trọng tuân thủ lễ độ của Thiên tộc, gặp phải phiền phức, chàng liền lập tức một bước ra đi.
Thần tiên được xem như thần long thấy đầu không thấy đuôi nhất trên Cửu Trùng Thiên, chính là đang nói chàng. Bởi vì chàng từ nhỏ đã hành xử như vậy, Thiên Quân sớm cũng đã thấy bình thường, tuy đối với hai vị ca ca của chàng thì dùng lễ pháp nghiêm khắc trói buộc, nhưng đối với chàng thì luôn luôn dung túng.
Có một lần Liên Tống bị phiền phức quấn lấy đến mức rời khỏi Cửu Trùng Thiên, chạy đến Nam Hoang, tìm con trai út của Tương chi Ma Quân trong Ma Tộc Thất Quân là Thanh La quân để đánh cờ.
Hai vạn năm trước, sau loạn Quỷ tộc được dẹp yên, Quỷ quân Kình Thương làm phản bị phong ấn, tứ hải bát hoang được thái bình hiếm có, Thần tộc và Quỷ tộc xây dựng lại tình hữu nghị, xử lý chuyện này xem như không tệ. Dưới tình thế ấy, Ma Tộc Thất Quân nào trong đầu có chút tư tâm đều phải kiềm chế dã tâm rục rịch, thiên hạ nhìn vào bề nổi trong hơn hai vạn năm nay, cũng có thể xem như thái bình. Bởi vậy một thần đến tìm một ma để đánh cờ, cũng không phải chuyện gì hoang đường lắm.
Thanh La quân rất hay đãi khách, hễ gặp chuyện vui thì sẽ quét đình đãi khách, mà gã lại là một người cực kỳ lạc quan, cơ bản là mỗi ngày đều có thể moi ra từ cuộc sống Ma quân bình phàm không có gì hiếm lạ của mình một chuyện vui nào đó, thế nên gần như ngày nào cũng đãi khách cả.
Thế nhưng có một ngày kia Thanh La Quân đãi khách, nhưng trên mặt lại mang theo ưu sầu.
Một thanh niên mặt tròn ngồi đầu hàng bên dưới cợt nhã bông đùa bóc trần vết thương lòng của gã: “Thanh La quân đây lại bị Tương Vân Công chúa cho ăn canh bế môn, một chén canh lạnh ăn mãi ăn mãi, tích tụ tận tâm can, cuối cùng bao nhiêu ưu sầu mới lộ ra ngoài mặt thế này.”
Tương Vân Công chúa là người đẹp bậc nhất trong thế hệ này của Ma tộc, trong Ma tộc có lời đồn rằng, nàng so ra không hề kém cạnh bao nhiêu với đệ nhất mỹ nhân của Thần tộc là Thanh Khâu Bạch Thiển. Có điều Ma tộc vẫn luôn thích so kè cao thấp với Thần tộc, nhưng tranh lần nào thua lần nấy, thua lần nào tranh lần nấy, lại tranh lần nào thua lần nấy, khiến cho tâm lý có vấn đề cực lớn, tự mình phán đoán chuyện gì đều không được chính xác lắm, thế nên Liên Tống đối với các loại lời đồn trong tộc cũng không chút để tâm gì.
Thanh niên áo tro ngồi bên cạnh thanh niên mặt tròn biếng nhác tiếp lời: “Phi chi Ma Quân đối xử với Tương Vân theo kiểu ngậm trong miệng còn sợ tan, nuôi dưỡng nàng ta đến mức hai mắt chỉ ngước lên trời, Thanh La ngươi lại cứ khăng khăng nhớ nàng,” Song thấy Thanh La quân nhíu mày, liền cười ha ha nói: “Nếu ngươi chỉ để mắt tới mỹ mạo của nàng, tại sao không triệu Trường Y đến hầu hạ mấy ngày đi? Trường Y hiểu chuyện giỏi đoán lòng người, cho dù cái sự hiểu chuyện giỏi đoán lòng người này cần phải đem bạch trạch [3] ra hoán đổi, người khác thì ta không dám nói, chứ Thanh La ngươi thì, bao nhiêu bạch trạch mà ngươi chẳng cho được.”
Mọi người trong tiệc đều phá lên cười.
Bạch trạch chính là tiên trạch. Bát hoang có bốn tộc, Thần tộc, Ma tộc, Quỷ tộc, Yêu tộc tổng cộng vạn vạn sinh linh. Sinh linh mỗi tộc đều có khí trạch của riêng tộc mình, Thần tộc có bạch trạch, Ma tộc có huyền trạch, Quỷ tộc có thanh trạch, Yêu tộc có phi trạch [3]. Nhưng không cần biết là tộc nào, khí trạch trong người của trẻ sơ sinh lúc mới sinh ra luôn luôn phức tạp, cần phải trải qua nhiều loại tu luyện mới có thể tinh luyện đến mức thanh thuần. Sinh linh nào càng mạnh mẽ thì khí trạch trong người càng thanh thuần, thanh niên áo tro trêu chọc Thanh La quân là hoàng tử Ma tộc mà lại có nhiều bạch trạch, chính là đang cười gã học luyện không xong.
Thanh La quân là một gã thô kệch vai u thịt bắp, những kẻ tới đây cũng là những gã thô kệch vai u thịt bắp, người bên cạnh cười thầm gã không có tiến bộ gã đương nhiên không hề để tâm, nhưng chuyện đem Trường Y ra so với Tương Vân thì gã lại cực kỳ có ý kiến: “Trường Y, Trường Y làm sao so được với Tương Vân chứ?”
Thanh La quân thô lỗ thành tính, mọi người đã quen, đây đúng là khinh thường nữ tử Trường Y được gọi đến thay, nhưng đối với nữ tử, gã cũng sẽ không nói thêm lời nào hà khắc. Có điều trong một tiệc rượu đủ mọi hạng người, hạng không thể thiếu nhất tất nhiên là những gã a dua nịnh hót, thế nên lập tức có người hùa theo nói: “Tiểu hoàng tử nói rất phải, chỉ là một yêu hoa vô chủ, chẳng qua là dựa vào việc bán tiếng cười cho quý nhân bên người, được quý nhân bố thí chút thương hại sống tạm qua ngày mà thôi, thân đơn thế tiện, làm sao xứng đánh đồng với Tương Vân Công chúa chứ?”
Yêu tộc và Ma tộc cùng sinh sống ở Nam Hoang, Yêu tộc nhỏ yếu, từ xưa đã phải sống dựa vào Ma tộc. Mà các yêu hoa bởi vì sinh ra đã đẹp, thường bị Ma tộc có giai phẩm nuôi ở phòng sau. Yêu vô chủ ở Nam Hoang ít, yêu hoa vô chủ đã ít càng thêm ít.
Thanh La quân cũng ngấm ngầm đồng tình với lời xu nịnh này, nhưng có muốn hà khắc như vậy với nữ tử nhỏ yếu này hay không, gã lại thấy rất rối rắm, bèn lẩm bẩm nói: “Cũng không nên nói Trường Y như vậy, Trường Y thôi mà, nàng ta chính là, nàng ta chính là…” Nhưng “chính là” cái gì thì hết nửa ngày cũng không nói được một nguyên do.
Liên Tống quân từ đầu buổi vẫn luôn ngồi một bên nghiên cứu một cái bình nấu rượu tinh xảo, lúc này phá lệ lên tiếng: “Trường Y.” Hướng về Thanh La mà nói: “Tên Trường Y thật à?”
Vị Tam điện hạ này của Thiên tộc tuy rằng thường xuyên đến Nam Hoang tìm Thanh La quân uống rượu, trong rất nhiều tiệc rượu mà Thanh La quân sắp xếp, chàng tham gia cũng hơn bảy bảy tám tám phần, nhưng chỗ chàng ngồi xưa nay đều là vị trí tôn quý ở bên phải Thanh La quân, lúc cao hứng cũng chỉ cùng Thanh La quân đàm luận đôi lời. Nhóm công tử thiếu niên trong Ma tộc ngưỡng mộ Tam điện hạ muốn trả lời chàng không phải số ít, trước đây lại chưa từng có ai có cơ duyên được tiếp chuyện vị Điện hạ này một câu.
Trông thấy đây chính là một cơ hội có thể đáp lời Tam điện hạ, thiếu niên mắt hạnh mới vừa rồi còn xu nịnh Thanh La lảo đảo tròng mắt đen, lập tức hướng người về phía Liên Tống, ra vẻ lấy lòng nói: “Tam điện hạ không phải là người ở Nam Hoang chúng tôi, nên có điều không biết, Trường Y này nguyên bản vốn là một gốc sen đỏ, nhưng bởi vì bản thể sen đỏ của nàng lại bẩm sinh khiếm khuyết không thể nở hoa, nên chẳng có quý nhân nào tình nguyện thu nàng vào viện. Là một yêu hoa, nhưng vô chủ, vốn dĩ chính là một chuyện đáng chê cười, mấy năm gần đây không biết mắc lộn dây thần kinh nào mà lại muốn tu tiên, đi khắp nơi tìm kiếm bạch trạch,” Gã chế nhạo cười ra thành tiếng, nói: “Vì có được bạch trạch mà bán tiếng cười ở khắp mọi nơi, chẳng khác chi các cô gái phong trần ở phàm thế, ở Yêu tộc và Ma tộc…”
Liên Tống chống tay lên đầu nhìn về thanh niên mắt hạnh: “Đẹp đến mức nào?”
Thanh niên mắt hạnh đang cao hứng nói chuyện cực kỳ sinh động đột nhiên nghẹn họng, dừng một chút: “Tam điện hạ muốn nói…”
Liên Tống liền cười: “Vừa rồi nghe các người nói nàng ấy đẹp, đẹp đến mức nào?”
Nam nhân mà, đại để đều thích bình phẩm mỹ nhân, đặc biệt là sau khi uống chút rượu, xông chút hơi rồi bình phẩm mỹ nhân. Chúng quân trên bàn tiệc cân nhắc chủ đề Tam điện hạ vừa nói, ánh mắt ai nấy đều quét qua nhau, cho rằng bản thân đã lĩnh hội được sở thích của Tam điện hạ, nửa buổi tiệc rượu tiếp theo đều chìm trong đề tài bàn luận về sắc đẹp của Trường Y, không hề có ai chê cười xuất thân của Trường Y nữa.
Tam điện hạ khơi mào chủ đề này lại không nói thêm câu nào, nhìn mặt cũng không đoán ra là thích thú hay không thích thú, chỉ là thiết phiến nắm trong tay phải thỉnh thoảng lại gõ lên mép bàn, đó chính là biểu hiện không được tập trung.
Nam Hoang đang vào thời kỳ xuân thịnh, trời trong biển xanh, hoa cỏ um tùm, cảnh sắc tươi đẹp, Liên Tống bèn ở lại thêm mấy ngày.
Tám cõi đều cảm thấy Liên Tam phong lưu, hơn nữa còn tin tưởng đến mức không mảy may nghi ngờ, nhưng thứ mà tám cõi đều nắm không rõ, chính là thế gian mỹ sắc vạn nghìn, loại mà Tam điện hạ yêu thích rốt cuộc là loại nào đây?
Thiên Quân có ba người con trai, con trai cả Ương Thác trang nghiêm đứng đắn, con thứ hai Tang Tịch liêm khiết chính trực, đều là những vị chủ nhân không dễ nịnh bợ, không dễ dàng gì mới có vị Tam điện hạ Liên Tống khiến cho đám nhân sĩ có tâm nhìn thấy một cơ may nịnh hót để thượng vị, cơ mà tâm ý của Tam điện hạ thực sự khó mà nắm bắt. Ví như nói, ngươi cho rằng người đẹp mà Tam điện hạ thích là loại thế này, lần ấy bầu bạn bên người chàng quả thực cũng là loại mỹ nhân như thế này, ngươi cũng muốn tặng người đẹp cùng loại như vậy để khiến chàng vui vẻ, nhưng chưa biết chừng đến ngày thứ hai, người đẹp ở bên cạnh chàng đã đổi thành một loại tương phản hoàn toàn với người đẹp hôm trước rồi.
Trong bốn bể tám cõi, mọi người đều cảm thấy nếu nói về phong lưu, Tam điện hạ chưa thể xem là phong lưu nhất, nhưng nói về khó hầu hạ và không nhìn thấu được, Tam điện hạ hẳn đã đứng trên đỉnh rồi.
Có điều, mấy hôm trước trên bàn tiệc, Liên Tống có hỏi một câu Trường Y đẹp đến mức nào? Chuyện này ngược lại khiến cho nhóm quý tộc Nam Hoang có ý xu nịnh hoàng tử Thiên tộc nhìn thấy một tia hi vọng.
Liên Tống nhớ đến Trường Y, chính là ở một nơi sâu trong ánh nến.
Liên Tống đến Nam Hoang, vẫn thường ở lại một tòa tiểu viện trên sườn núi Tây Phong.
Lúc ấy đã vào nửa đêm, chàng vừa mới đánh cờ ở chỗ Thanh La trở về, giẫm lên trăng sáng bước vào cửa thùy hoa [4] của tiểu viện trên sườn núi, vừa ngẩng đầu lên, liền thấy có ánh đèn cháy trong phòng phía bắc.
Bên ngoài phòng phía bắc có một gốc cây hợp hoan, những đóa hoa hợp hoan giống như lông tơ trên cây bị ánh trăng và ánh nến nhuộm thành màu vàng óng ánh, trở nên đẹp đẽ hơn mấy phần. Trên gốc cây hợp hoan có cột một sợi dây thừng mảnh, kéo dài tận vào bên trong phòng bắc, sáng nay chính tay chàng đã đem một đầu khác của sợi dây cột vào một giàn hoa trong phòng bắc. Thứ được treo trên sợi dây mảnh đó, chính là mấy chục tờ giấy tiên đang được hong khô mà chàng làm lúc nhàm chán rảnh rỗi.
Trong vườn thổi lên một trận gió to, làm lay động ánh nến trong phòng, những tờ giấy tiên trên dây thừng cũng chao đảo muốn bay giống như cánh bướm. Liên Tống khẽ nhấc tay, cây lặng gió ngừng, khi bước qua, chàng thấy mình càng lúc càng đến gần ánh nến trong phòng bắc, ánh sáng mờ ảo xuyên qua những tờ giấy, sâu bướm cỏ hoa trên ấy liền hiện ra sinh động theo một cách khác biệt.
Chàng tùy ý lật giở những tờ giấy thư treo trên dây thừng suốt dọc đường đi, thong thả tiến vào phòng.
Ánh nến càng lúc càng sáng, cũng càng lúc càng dày đặc, có vài cây đặt trên giá cắm nến, cũng có vài cây đặt trên nền đất, sắp xếp cao cao thấp thấp hết sức thú vị. Ở nơi sâu nhất trong ánh nến, thiếu nữ áo đỏ có hơi ngẩng đầu lên gọi tôn hiệu của chàng: “Tam điện hạ.” Gương mặt này quả thực xinh đẹp, có thể ví như mày mắt như tranh.
Liên Tống dời mắt nhìn nàng, nhưng cũng chỉ dừng một chút, sau đó liền đưa mắt trở lại nhìn một đóa hoa tứ quý ấn trên một trang giấy, tùy tiện nói: “Trường Y.”
Đôi mắt nữ tử ánh lên vẻ kinh ngạc: “Sao Tam điện hạ lại biết tôi là Trường Y?” Giọng nói dịu dàng.
Người đời nói trong ba đứa con của Thiên Quân, người thông minh sắc sảo nhất chính là Nhị điện hạ Tang Tịch. Khi Tang tịch vừa sinh ra đã có ba mươi sáu con chim ngũ sắc từ núi Hác Minh Tuấn Tật bay thẳng lên trời cao, cất tiếng hót chúc mừng, ấy là trời giáng dị tượng tốt lành. Mà sau đó Tang Tịch cũng tu thành thượng tiên vào lúc mới ba vạn tuổi, ấy lại là minh chứng cho việc Tang Tịch là anh hùng lỗi lạc trong chúng thần tiên. Dưới ánh hào quang chói lóa của Nhị điện hạ Tang Tịch, hai vị huynh đệ khác của chàng bất luận là có tư chất hơn người hay là có công cán hơn người, tựa hồ cũng có mấy phần thất sắc. Nhưng cũng có vài vị thần tiên có cách nghĩ khác đối với sự việc này, tỷ như cái vị Đông Hoa Đế Quân từng là thiên địa cộng chủ.
Bởi vì khi Đông Hoa Đế Quân được sinh ra, trời chẳng giáng dị tượng gì, thế mà sau đó ngài vẫn nghiễm nhiên trở thành thiên địa cộng chủ, vì thế ngài không mê tín đi tin vào cái chuyện khi sinh ra, trời đất tỏa ra ánh sáng hoàng kim rồi có thêm mấy con chim rách bay lên trời lượn qua lượn lại thì sẽ có tiền đồ rộng mở. Đông Hoa Đế Quân trước sau vẫn cảm thấy Liên Tam mới thực sự là một kỳ tài, Thiên Quân có được Liên Tam, trên phương diện sinh con có thể ngừng ở đây luôn là được, dù sao có tiếp tục sinh nữa cũng không thể sinh ra ai thông tuệ hơn được chàng.
Bởi vì được một người hay bắt bẻ như Đông Hoa Đế Quân khen là thông tuệ, lần đầu tiên Liên Tam gặp mặt Trường Y, hiển nhiên sẽ tỉnh lược bớt mấy lời đối thoại thường quy như “Nàng là ai?”, “Tôi là Trường Y.”, “Ai đưa nàng đến phòng của ta?”, “Người này người nọ đã đưa tôi đến phòng của ngài.”, “Nàng đến đây làm gì?”, “Đến đây để hầu Tam điện hạ, nhưng mà Tam điện hạ, tôi bán nghệ chứ không bán thân.” các thứ các kiểu. Ngay cả một câu Tam điện hạ sao lại biết tôi là Trường Y, Tam điện hạ cũng cảm thấy vấn đề đơn giản thế này không cần lãng phí thời gian hồi đáp.
Chàng vẫn ung dung nhìn đóa hoa tứ quý trên tờ giấy hoa như cũ, tháo nó xuống xong lại đưa đến chiếu tới chiếu lui trên một cây nến gần đó, hồi lâu sau mới nói: “Cho dù bọn họ ức hiếp nàng, với năng lực của nàng, nếu không muốn đến thì đã không cần đến. Bọn họ e là đã lừa nàng nói bản quân là tiên, bạch trạch lấy mãi không hết, cho nên chỉ cần khiến bản quân vui vẻ, bản quân tự có rất nhiều bạch trạch có thể cho nàng lấy đi? Nhưng bản quân thanh tu đến nay,” Nói đến hai chữ ‘thanh tu’, giống như tự mình cũng cảm thấy buồn cười, lại nở một nụ cười cực kỳ lạnh nhạt, đổi lại nói: “Bản quân tu luyện đến nay, trên người đã không còn một tia thanh trạch nào nữa rồi, đứa em nhỏ bị hổ hai cánh trong động Thất U làm bị thương của nàng, cần là cần bạch trạch tương phản với thanh trạch, còn bạch trạch của bản quân, e rằng không có chút ích lợi nào cho em trai nàng cả.”
Thần sắc nữ tử có chút dao động, nhưng chỉ chốc lát sau đã bình phục trở lại. Một yêu hoa nho nhỏ, ở gần một hoàng tử Thiên tộc mà lại không có chút nào e dè sợ hãi.
Tiếng nói của tiểu hoa yêu vẫn nhẹ nhàng như trước: “Tam điện hạ minh giám, Tam điện hạ đã nhìn thấu việc này, Trường Y không lừa được Tam điện hạ, nếu như Tam điện hạ không có thứ mà Trường Y cần, Trường Y xin cáo biệt tại đây.”
Nói xong liền dứt khoát đứng lên, vỗ vỗ lên đầu gối không hề dính chút bụi đất, thong thả bước ra từ trong ánh lửa, lúc đi đến gần chỗ Tam điện hạ, liền suy nghĩ một chút, lại cúi đầu hành lễ, nghiêm túc nói: “Tam điện hạ, đêm đã khuya, ngài cũng nên ngủ sớm một chút, những ánh nến này tuy rằng không phải do Trường Y làm, nhưng nếu Tam điện hạ cảm thấy không thuận mắt, trước khi đi Trường Y có thể dỡ chúng đi, cũng xem như báo đáp một lời bộc bạch của Tam điện hạ với mặt Trường Y.”
Lúc này Liên Tam mới nghiêm túc xoay đầu lại nhìn nàng.
Người đẹp đến đến đi đi bên cạnh Tam điện hạ rất nhiều, cho dù không bận tâm, nhưng đám mỹ nhân thông thường làm dáng thế nào, chàng nhìn một hai vạn năm cũng đã quá quen. Sau khi chàng nói những lời kia, mỹ nhân hiểu chuyện giỏi đoán lòng người tất nhiên sẽ dáp: “Tam điện hạ nói đùa, Tam điện hạ tôn quý không ai sánh kịp, có thể hầu hạ Tam điện hạ đã là phần phúc của tiểu nữ, còn nói gì đến chuyện đòi bạch trạch, thanh trạch gì trên người Tam điện hạ chứ…” Nếu mỹ nhân không hiểu chuyện giỏi đoán lòng người bậc ấy, hẳn cũng nên đáp: “Tam điện hạ sao lại biết tôi tìm kiếm bạch trạch là vì em trai mình, mà không phải để tu tiên như thế nhân vẫn nói, Tam điện hạ tuệ nhãn nhìn thấu mọi chuyện, tiểu nữ tử bội phục tận đáy lòng…” các kiểu.
Tam điện hạ cảm thấy tiểu hoa yêu này có chút thú vị.
Tiểu hoa yêu đứng cách mấy bước trước mặt chàng, xem ra đang rất thành khẩn chờ chàng hồi đáp.
Cánh hoa tứ quý trên tờ giấy hoa trên tay nhuộm màu chưa đủ đồng nhất, Tam điện hạ bèn tiện tay đưa nó lên một ánh nến gần đó, “Bản quân nghe nói nàng là một người hiểu chuyện giỏi đoán lòng người,” chàng nói, đợi đến khi tờ giấy hoa kia cháy hết mới hơi ngước mắt lên: “Xem ra là không có chuyện này rồi.”
Nghe rõ lời chàng nói, tiểu hoa yêu rõ ràng có chút chấn kinh, tròn mắt nhìn chàng, lùi về sau hai bước nghiêm túc suy nghĩ một lát, mới lại nhìn chàng lần nữa: “Tam điện hạ cho tôi đi, tôi liền đi, trước khi đi còn muốn giúp Tam điện hạ dỡ giá nến, này này này còn chưa đủ hiểu chuyện giỏi đoán lòng người sao?”
Đây chính là Trường Y.
Chuyện cũ từ bảy tám trăm năm trước, từng chuyện từng chuyện thế mà chưa từng lãng quên, Tam điện hạ xoa xoa thái dương.
Khi Thiên Bộ đến phục vụ tại cung Nguyên Cực của Liên Tống ở cảnh trời thứ ba mươi sáu, liền trở thành tiểu tiên nga được việc nhất trong cung Nguyên Cực, đến phàm thế này tuy rằng không có pháp thuật, có rất nhiều chuyện không thể hoàn toàn thuận lợi mà làm, nhưng Thiên Bộ vẫn có thể tiếp tục an bài thỏa đáng mọi chuyện như khi còn ở cung Nguyên Cực, từ xa nhìn thấy Liên Tống đang ngâm mình trong suối nước nóng cứ đong đưa bình rượu, liền đoán ra một bình rượu này chàng đã uống xong, hơn nữa còn có hứng muốn uống thêm bình nữa, tức thời lại bưng thêm một bình rượu khác đang đặt trên bếp lò, góc váy lướt gió dâng đến đây.
Sau khi đặt bình rượu tử tế bên ao, Thiên Bộ đột nhiên nghe thấy chủ tử nhà mình mở miệng hỏi cô: “Nói ra thì, ngươi có cảm thấy Yên Lan và Trường Y, tính tình kỳ thực có chút khác nhau không.”
Thiên Bộ cẩn thận suy xét, đắn đo nói: “Yên Lan Công chúa là hồn châu của Hoa Chủ Trường Y chuyển thế, nhưng dù sao cũng lớn lên ở phàm thế, hơn nữa ký ức khi còn ở trên trời hay lúc ở Nam Hoang hầu như đã mất đi hơn phân nửa, tính tình có chút thay đổi cũng là chuyện khó tránh.” Lại thăm dò nói: “Điện hạ… có phải cảm thấy hơi đáng tiếc không?”
Liền thấy Liên Tống dựa vào thành hồ, hơi nhắm mắt lại: “Đúng là có hơi đáng tiếc.”
—————————-
[1] Thủ pháp song song: Nguyên văn là bài bỉ (排比): Là một loại thủ pháp tu từ trong văn học, sử dụng kết cấu tổ hợp hoặc câu từ liên kết có nội dung tương đồng, ngữ khí tương đồng, để gia tăng ý nghĩa của ngữ cảnh.
[2] Đan thanh (丹青): Nghĩa đen là màu đỏ và màu xanh, là một loại màu dùng để vẽ tranh. Nguyên văn vốn là “lộng được đan thanh (弄得丹青)”, hiểu đơn giản là vẽ được tranh.
[3] Trạch (泽) ở đây khả năng cao mang nghĩa là ánh sáng, hào quang. Bạch trạch có thể là một loại khí phát ra ánh sáng trắng. Tương tự, huyền trạch, thanh trạch, phi trạch có thể là một loại khí phát ra ánh sáng đen tuyền, xanh, và đỏ.
[4] Cửa thùy hoa (垂花门): Một loại cửa trong các ngôi nhà Trung Quốc thời xưa, có mái và 4 cây cột trụ, có chạm khắc hoa văn.