“Đương nhiên không có chuyện đó!”
Âm thanh trong trẻo từ bên ngoài các vọng vào, mọi người đều ngẩng đầu lên thì thấy hai thiếu niên mặc quần áo cũ nát đi vào, đứa đi đầu không kiêu ngạo không siểm nịnh, phong thái tuyệt trần, đứa sau mang thần thái linh động, mặt mày sáng sủa.
Chẳng qua quần áo hai người thực sự khó coi, học trò trong các chụm đầu ghé tai, ánh mắt khinh miệt bắn tới tấp, Hạ Hầu Liễm nghe được vài câu, đều là “Ăn mày ở đâu ra, tới đây diễu võ giương oai”, hoặc là “Đây là người Tạ gia chúng ta? Sao chưa gặp bao giờ” linh ta linh tinh.
Tạ Kinh Lan nhìn thẳng, cất cao giọng nói: “Học trò Tạ Kinh Lan, bái kiến Đới tiên sinh. Lời đại ca vừa nói không phải là sự thật, thỉnh tiên sinh minh giám.”
“Chẳng lẽ bổn thiếu gia đổ oan cho ngươi sao? Tạ Kinh Lan, rõ ràng ngươi là một tên trộm, nhiều người thấy như vậy, có muốn ta gọi bọn họ tới đây đối chất không?” Tạ Kinh Đào nghe vậy thì vỗ bàn đứng lên, đỏ mặt tía tai cãi cọ.
Tạ Kinh Lan khẽ mỉm cười, nho nhã lễ độ nói: “Kinh Lan có từng trộm của cải gì của đại ca sao? Chẳng qua là nhặt mấy quyển sách đại ca vứt ở nhà kho thôi mà.”
“Sách thì không phải là của cải à? Tu Văn Đường nhà chúng ta khắc vở, một quyển giá tận vài đồng. Hơn nữa là ta gửi ở nhà kho, không phải vứt, ngươi không hỏi mà tự ý lấy tức là trộm rồi!”
“Đại ca đừng nóng, tất cả chỉ là hiểu lầm. Thân thể Kinh Lan không tốt, phu nhân trạch tâm nhân hậu, chuẩn cho Kinh Lan không cần đến học đường, nhưng mà Kinh Lan ngưỡng mộ lời của thánh hiền đã lâu, song gia cảnh nghèo hèn, không có phúc phận, đành phải đến nhà kho nhặt sách của đại ca để lại, việc này Kinh Lan đã được quản sự nhà kho đồng ý, có lẽ là đại ca chưa từng hỏi qua, hiểu lầm Kinh Lan trộm, vừa khéo hôm nay nói cho rõ ràng.”
Lời này vừa nói ra thì trong lòng mọi người đều tỏ rõ, rõ ràng là chủ mẫu đương gia oán hận con vợ lẻ, không cho đi học, người ta không có cách nào đành phải đi nhặt đồ bỏ của đại thiếu gia miễn cưỡng mang về đọc, kết quả đại thiếu gia không những không cảm thông, ngược lại còn vu cáo người ta trộm cướp tài sản.
Tạ Kinh Đào nghẹn họng, nhưng lại không biết phản bác cái gì.
Lúc này, Tạ Bỉnh Phong lên tiếng nói: “Đào Nhi, vô duyên vô cớ bôi nhọ người ta, còn không mau xin lỗi?”
Tạ Kinh Đào đành phải thuận sườn núi hạ lừa, cười gượng nói: “Được được được, là đại ca không hỏi rõ, oan uổng tiểu đệ rồi.”
Hai người đều là ngoài cười nhưng trong không cười, bày ra bộ dạng huynh đệ hòa thuận tôn kính lẫn nhau, Hạ Hầu Liễm thấy mà đau cả trứng.
Tạ Kinh Lan hạ bệ Tạ Kinh Đào cũng là bất đắc dĩ, y không thể làm mất hết mặt mũi Tạ Kinh Đào được, đặc biệt là ở trước mặt Đới Thánh Ngôn. Nếu hôm nay không thuận lợi bái Đới Thánh Ngôn làm thầy thì Tạ Kinh Lan coi như xong đời, đến lúc đó tên béo muốn chỉnh y là việc dễ như trở bàn tay.
Tạ Bỉnh Phong quay đầu lại, bày ra một bộ dạng hiền từ nói với Tạ Kinh Lan: “Lão phu chưa gặp con bao giờ, con là dòng bên Tạ gia sao? Cha mẹ con là ai? Nếu trong nhà túng quẫn thì đến phòng thu chi nhận ít bạc mua đồ về mà dùng. Đối xử với bản thân tốt một chút, cũng có thể đi học đọc sách, không cần phải đóng tiền học.”
Lời này vừa nói ra, trong các tức khắc lặng ngắt như tờ.
Đùa gì vậy?
Tạ Bỉnh Phong không nhận ra con trai của mình ư?
Hạ Hầu Liễm kinh ngạc nhìn người đàn ông trung niên kia, mũ cao đai rộng, khuôn mặt luôn mang vẻ nghiêm túc, hai tay vững vàng đặt ở đầu gối, ngồi nghiêm chỉnh không hề cẩu thả, trên trán thiếu điều viết to bốn chữ “Chính nhân quân tử”. Nhưng Hạ Hầu Liễm vừa thấy gã liền nhớ đến 《 Yến Tẩm Di Tình Đồ 》, không chừng gã còn giấu 《 Ngọc Phòng Bí Quyết 》, 《 Đêm Xuân Bí Diễn 》ở đâu đó, vì thế bốn chữ “Chính nhân quân tử” kia lắc mình biến hoá thành “Ra vẻ đạo mạo”.
Sắc mặt Tạ Kinh Lan trắng bệch, bàn tay dưới ống tay áo nắm chặt lại.
Con cháu Tạ gia rất đông, Tạ Kinh Lan quanh năm ở Thu Ngô viện nên rất ít người nhận ra y, có người không biết còn đệm thêm: “Đúng vậy, nhà chúng ta xưa nay thích làm việc thiện, ngươi là dòng bên, đáng lý nên ra tay tương trợ.”
Lời này không khác gì giậu đổ bìm leo, Tạ Kinh Lan suýt nữa đứng không vững, y ngơ ngác nhìn Tạ Bỉnh Phong, vô số lần lúc tết hoặc thời điểm hiến tế y đều đứng giữa đám con cháu Tạ gia đông đảo hành lễ với gã, vô số lần lúc gã cưỡi ngựa lên kinh y đứng cuối cùng trong đám người nhà tiễn đưa gã
Gã quên cả rồi, hoá ra y chưa từng gần người này như vậy, hoá ra người này vốn dĩ không biết y là ai cả.
Tạ Kinh Đào cũng ngây người, ngơ ngác mà nói: “Dòng bên cái gì, cha, y là Tạ Kinh Lan, là con trai thứ ba của người!”
Tạ Bỉnh Phong cứng họng, nhìn Tạ Kinh Lan cả buổi trời cũng chưa nói chuyện được, khó khăn lắm mới kiềm được không khiến mình thất thố, chẳng qua trên mặt gã có kinh ngạc, có xấu hổ, có thẹn thùng, nhưng tuyệt nhiên không hề có áy náy.
Trong lòng Hạ Hầu Liễm chua xót, hắn vô thức tới gần Tạ Kinh Lan, lặng lẽ nắm lấy bàn tay lạnh lẽo của y.
Tạ Bỉnh Phong cười gượng: “Ha ha, Kinh Lan đã lớn vậy rồi à, vi phụ rời nhà khá lâu, vậy mà đã quên mất dáng vẻ của con. Kinh Lan sẽ không trách phụ thân chứ.”
Hạ Hầu Liễm nghĩ thầm, không nhận ra dáng, không lẽ đến tên cũng quên à? Hay là cái danh “Kinh Lan” này căn bản không phải gã đặt cho.
Âm thanh Tạ Kinh Lan hơi mơ hồ, gần như nghe không rõ: “Phụ thân thức khuya dậy sớm, bận rộn việc trong triều, Kinh Lan… hiểu được.”
“Hai vị tiểu hữu mau ngồi xuống đi.” Đới Thánh Ngôn vội vàng giải vây, “Đúng rồi, vị tiểu hữu bên cạnh còn chưa báo tên họ, mới nãy thấy ngươi ở xa xa chèo thuyền trên hồ, lão hủ rất muốn kết bạn với ngươi.”
Hạ Hầu Liễm đứng đó cả buổi trời, lúc này mới phát hiện ra rằng trong các đều là con cháu Tạ thị, không có thư đồng, cũng không có hạ nhân hầu hạ, bèn chắp tay nói: “Tiểu nhân Hạ Hầu Liễm, là thư đồng của Kinh Lan thiếu gia, mới vừa rồi vội vàng, không biết nơi này không cần thư đồng hầu hạ.” Đoạn dừng một chút, liếc qua Tạ Kinh Lan mất hồn mất vía bên cạnh, trong lòng không yên, “Bình thường nghe thiếu gia đọc sách, tiểu nhân cũng rất ngưỡng mộ đường lối của thánh hiền, mong rằng tiên sinh bao dung, cho phép tiểu nhân ở đây nghe giảng.”
“Đương nhiên có thể.” Đới Thánh Ngôn gật đầu mỉm cười, “Tiểu hữu có lòng cầu học, sao lão hủ lại ngăn trở?”
Uống xong chung trà, trò hề ban nãy tựa như theo nước trà vào trong bụng, tất cả mọi người không hẹn mà cùng quên luôn chuyện kia. Đới Thánh Ngôn vuốt ve chòm râu, giọng nói lanh lảnh, giống thuyết thư tiên sinh vỗ mộc kinh đường, tức khắc cả các đều yên lặng, đôi mắt đồng thời nhìn cái miệng nhăn nhúm kia, chỉ chờ ông mở miệng.
“Xin hỏi chư vị tiểu hữu, ngươi gian khổ học tập đọc sách thánh hiền, là vì điều gì?”
Sau khi nghe xong, tất cả hai mặt nhìn nhau.
Là vì điều gì?
Còn không phải là vì thăng quan phát tài sao? Nếu không phải bởi vì khoa cử triều đình, nào có ai cả ngày chăm chăm ôm cuốn kinh thư mà nhai chứ?
Cao thượng hơn, nói đến nói đi cũng là vì mấy chữ “Tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ” thôi. Đạo lý định quốc an bang, trị loạn bình tang mở miệng là có thể nói, đề bút là có thể viết. Mấy lời này, người đọc sách thời trước nhai đi nhai lại không biết bao nhiêu lần, từ lâu đã mất đi ý nghĩa riêng của nó rồi.
Chẳng qua, mấy thứ này đều không phải suy nghĩ của Tạ Kinh Lan.
Trong lòng Tạ Kinh Lan hiểu rõ nguyện vọng của chính mình.
Y chưa bao giờ muốn kinh bang tế thế, giúp đỡ thiên hạ, y chưa bao giờ quan tâm người bán rong đầu đường bán được điểm tâm nhiều hay ít, bãi tha ma mới chôn thêm bao nhiêu người, càng không quan tâm nơi nào đại hạn, nơi nào ngập lụt. Mặc dù thiên hạ máu chảy thành sông, chỉ cần y có thể an ổn ngồi trong nhà, mấy chuyện đó thì liên quan gì đến y?
Y chỉ muốn Tạ gia trước giờ bỏ rơi y, khinh nhục y, oán hận y có một ngày sẽ quỳ dưới chân y khóc lóc thảm thiết, hối hận lúc trước không nên như thế!
Y chỉ cần tưởng tượng đến viễn cảnh kia là nhiệt huyết sôi trào, vạn phần sung sướng, sung sướng này khiến y rất vui vẻ, dù cho đầu váng mắt hoa cũng muốn nuốt tất cả thánh hiền vào trong bụng.
Nhưng lời này y chỉ có thể để trong lòng, trước hết y phải giả làm chính nhân quân tử ái quốc yêu dân, giấu hết mấy tâm tư xấu xa này vào trong bụng, không được để lộ ra cho người khác biết.
Bị chính cha ruột mình tổn thương, Tạ Kinh Lan vô thức bước đi trên con đường hận thù này càng lúc càng xa, oán hận trong lòng y mọc rễ nảy mầm như dây leo, kết thành một nút chết cắt không được, càng gỡ càng rối, hết thảy chuyện này đều giấu dưới cái vỏ bọc thiếu gia nhu nhược, chỉ là nụ cười theo thói quen trên gương mặt không dễ chịu gì mấy.
Hạ Hầu Liễm chọc chọc tay y, Tạ Kinh Lan nắm ngược lại tay Hạ Hầu Liễm, nhẹ nhàng nói: “Đừng lo.”
Tạ Kinh Đào không biết lấy đâu ra tự tin, lên tiếng đầu tiên: “Học trò cho rằng, tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ, đây gọi là học giả làm quan.”
Đới Thánh Ngôn không khen cũng không chê, chỉ lắc lắc cái đầu trên cần cổ gầy guộc, ý bảo người kế bên lên tiếng.
Tạ Kinh Đào ngồi xuống, nhị thiếu gia Tạ Kinh Đàm đáp: “Học trò thiển cận, chí hướng không gửi nơi thiên hạ, chỉ nguyện bay xa vạn dặm, tiêu dao bất hối.”
Đới Thánh Ngôn cười nói: “Tâm không có thiên hạ, cũng là việc lớn.”
Người trong các lần lượt phát biểu, chỉ trừ Tạ Kinh Lan, ánh mắt ông dừng trên người y, nhẹ nhàng gật đầu.
Tạ Kinh Lan lạy dài một cái, sau đó đáp: “Học trò ngu dốt, nhưng cầu không thẹn với lòng, không hối hận việc đã làm, không oán với người.” Thần sắc y nhàn nhạt, tựa như mới vừa rồi chưa từng xảy ra chuyện gì.
Đới Thánh Ngôn nhìn vào mắt y, đoạn thở dài, Tạ gia đời này không bằng đời trước, lúc trước ông hồ đồ mới thu người cha không nên thân của bọn chúng làm đồ đệ, không từ chối được lời mời của Tạ Bỉnh Phong nên đến làm khách Tạ phủ, chỉ định thử qua một chút. Quả nhiên con cháu Tạ thị ai nấy cũng không ra hồn, lớn lên mù mờ không nói, đầu óc cũng có vấn đề.
Chẳng qua không ngờ giữa đám gà trống sặc sỡ này lại có một con bạch hạc, nhưng tính tình con bạch hạc này quá quật cường, sống lưng ưỡn rất thẳng, sợ là sớm muộn gì cũng gãy mất.
Đới Thánh Ngôn sống đến cái tuổi gần đất xa trời này, loại người nào mà chưa từng gặp qua? Tạ Kinh Lan này cố làm ra vẻ tự nhiên trước mặt ông. Nắm tay siết chặt, khoé mắt đỏ ửng, sống lưng căng cứng, tất cả đều chứng minh thiếu niên choai choai này không hề bình tĩnh như vẻ ngoài của y.
Y chỉ là dốc hết toàn lực giữ cho chút mặt mũi chẳng còn sót lại bao nhiêu của mình mà thôi.
Nghe xong một vòng, Đới Thánh Ngôn chỉ gật đầu với Tạ Kinh Lan, mọi người đều đã biết đáp án, Hạ Hầu Liễm thở phào một hơi, chuyến này coi như không uổng công.
Tạ Kinh Lan làm lễ bái sư trước mặt mọi người, Đới Thánh Ngôn nâng y đứng dậy, móng tay của ông dường như bắt chặt lấy cánh tay Tạ Kinh Lan, mùa đông khắc nghiệt, Tạ Kinh Lan mặc dày, còn cảm thấy tay ông nóng bỏng như hàn sắt, gần như muốn thiêu đốt xuyên qua lớp áo ngoài.
“Kinh Lan, con chưa có tên tự phải không.”
“Học trò chưa đến nhược quán, vẫn chưa lấy tự.”
“Không sao,” Đới Thánh Ngôn nhìn tiểu đồ đệ của mình, mí mắt giật giật, đôi mắt đục ngầu loé lên vài tia sáng, “Tuy con nếm nhiều gian khổ, lòng vững như đá, ý chí kiên cường, vô cùng đáng quý, nhưng mà tính tình quá cứng cỏi, tâm địa quá ương ngạnh, tương lai không thành đại thiện, tất thành đại ác! Vi sư lấy tự ‘Dịch An’ cho con, nguyện con một đời an ổn, tiêu dao bất hối.”
“Nhưng hãy nhớ rằng thế đạo nhiều gian khó, vẫn phải giữ được trái tim lương thiện.”
Tạ Kinh Lan tựa như bị xối một gáo nước lạnh, ướt từ đầu đến chân. Tâm tư xấu xa mà y tốn công che giấu lại bị Đới Thánh Ngôn nhìn thấu rõ ràng.
Cái gì không thẹn với lòng, Tạ gia dập đầu tạ lỗi mấy năm khuất nhục của y mới có thể không thẹn.
Cái gì không hối hận việc đã làm, nắm quyền sinh sát trong tay mới có thể không hối hận.
Cái gì không oán với người, người có lỗi với y phải ngã xuống bùn không ngóc đầu dậy nổi mới có thể không oán!
Vừa rồi y không nói hết, Đới Thánh Ngôn lại thấy rất rõ ràng, Tạ Kinh Lan không chốn dung thân, theo bản năng muốn chạy trối chết. Y không hiểu, vì sao Đới Thánh Ngôn còn muốn thu người như y làm đệ tử chứ?
Y gian nan hành lễ tạ ơn, nói: “Học trò ghi nhớ.”
Hạ Hầu Liễm nghe cả buổi xong như lọt vào sương mù, không hiểu ông già gầy trơ xương này rốt cuộc là khen hay chê Tạ Kinh Lan nữa.
Thôi thôi, quản ông khen chê làm gì, dù sao thu nhận Tạ Kinh Lan là được.
Tuy nghe không hiểu, nhưng hắn nhìn ánh mắt ghen tỵ từ bốn phía, cho dù không phải hắn bái sư, nhưng cái đuôi nhỏ ở phía sau vẫn đắc ý vểnh lên, hắn lướt qua mấy ánh mắt ghen ghét đó, nghênh ngang theo sau Tạ Kinh Lan rời khỏi Vọng Thanh Các.
Tạ Kinh Lan trầm mặc suốt dọc dường, sắc mặt tái nhợt, bộ dạng còn ốm yếu hơn trước.
Cái đuôi đắc ý của Hạ Hầu Liễm lập tức cụp xuống, chân tay luống cuống đi bên cạnh, tính tình hắn thích náo nhiệt, một khi không khí chùn xuống sẽ vô cùng bất an. Tạ Kinh Lan đầu tiên là bị cha ruột đánh đòn phủ đầu, sau đó thành công qua ải Đới Thánh Ngôn, vừa buồn vừa vui, hắn cũng không biết nên an ủi hay chúc mừng.
Nói chung là nói cái nào cũng không ổn hết.
Bỗng nhiên hắn nghĩ ra cái gì đó, bèn bước nhanh đến trước mặt Tạ Kinh Lan, mở vòng tay ôm Tạ Kinh Lan vào ngực, Tạ Kinh Lan khiếp sợ, không giãy giụa được, cả giận nói: “Ngươi làm gì!?”
Hạ Hầu Liễm ôm chặt Tạ Kinh Lan, sức lực hắn rất lớn, Tạ Kinh Lan đã lĩnh giáo qua, quả nhiên vẫn là tránh không được.
“Mẹ ta nói, mỗi khi buồn thì ôm một cái là xong. Kinh Lan thiếu gia, ngoại trừ mẹ ta, ta chưa từng ôm người nào khác, hời cho ngươi rồi.”
Tạ Kinh Lan không giãy nữa, y chôn mặt trên vai Hạ Hầu Liễm, trầm mặc rất lâu, bỗng nhiên trên má ươn ướt, trong miệng có hương vị mặn chát. Y sợ Hạ Hầu Liễm biết mình khóc, cố ý lạnh lùng nói: “Ta không cần ngươi thương hại!”
Đáng tiếc công phu che giấu học không tới, lời còn chưa nói xong, chua xót giấu sâu bên trong đã bị lộ tẩy.
Hạ Hầu Liễm buông Tạ Kinh Lan ra, sau đó nắm chặt cổ tay y chạy như bay.
“Này, ngươi làm gì đó!” Tạ Kinh Lan đại kinh thất sắc.
Hạ Hầu Liễm không nói lời nào lôi y chạy như điên, dọc đường đi không biết đâm phải bao nhiêu hạ nhân, khiến bọn họ chửi ầm lên. Gió táp vào mặt đau rát, Tạ Kinh Lan cảm giác phổi của mình như cái lò bể cũ nát bị thợ kéo chạy hết công suất, gió lạnh hít vào trong miệng biến thành khí nóng thở ra, tiêu tán thành khói trắng, nước mắt trên mặt cũng bị gió hong khô.
Y bị đưa tới vách tường phía sau phòng bếp, Hạ Hầu Liễm bảo y đứng tại chỗ, hắn đạp lên tường, vươn hai tay, lấy đà nhảy vào bên trong. Tạ Kinh Lan còn đang thở hổn hển, hai người chạy quá nhanh khiến phổi y như muốn nổ tung, nhất thời không ngăn tên khốn kiếp náo loạn kia lại.
Y hối hận không thôi, nhìn trái nhìn phải một phen, xác nhận không có người mới dốc hết sức lực trèo lên tường, vất vả lắm mới ló được cái đầu lên. Không nhìn thì thôi, vừa nhìn thì tức khắc sợ tới mức hồn phi phách tán. Tên khốn kia vậy mà trèo cửa sổ vào phòng bếp, bên trong có rất nhiều đầu bếp và hạ nhân bận rộn, không ai để ý tới vị khách không mời mà đến này. Hạ Hầu Liễm cong eo, nhón chân đi như con mèo, nấp sau bếp lò, lấy một bầu rượu cất vào trong ngực, sau đó nhảy ra ngoài cửa sổ.
Chờ Hạ Hầu Liễm từ đầu tường nhảy xuống, trái tim treo ở cổ họng mới hạ xuống, y tức muốn hộc máu nắm lấy cổ áo Hạ Hầu Liễm mắng to: “Rốt cuộc ngươi muốn làm gì!?”
“Bình tĩnh bình tĩnh,” Hạ Hầu Liễm ôn hòa nói với Tạ Kinh Lan đang bùng nổ, “Rượu có thể giải trăm sầu, còn có thể chúc mừng hỉ sự, vừa hợp lúc này, đi, uống rượu đi!”
Hạ Hầu Liễm kéo Tạ Kinh Lan đến một chỗ vắng vẻ, biết Tạ Kinh Lan ưa sạch sẽ, còn dùng tay áo lau đi lau lại phiến đá bảy tám lần mới dám mời Tạ Kinh Lan ngồi.
Hạ Hầu Liễm hớp một ngụm rượu, rượu cay xè đến mức nước mắt chảy ròng, hắn đưa rượu cho Tạ Kinh Lan, Tạ Kinh Lan không tiếp, y không uống rượu, càng không uống rượu người khác uống qua. Hạ Hầu Liễm khuyên cả buổi trời Tạ Kinh Lan mới không tình nguyện ngửa đầu, dốc bầu rượu uống một ngụm, đầu lưỡi mới vừa chạm rượu liền hối hận, ho sặc sụa mấy cái.
Hạ Hầu Liễm cười ha ha, ngừng trong chốc lát mới nói nói: “Thiếu gia, ta không có thương hại ngươi. Ta là vì không muốn thấy người khác buồn, nếu ngươi buồn, ta cũng buồn theo ngươi. Hơn nữa, ngươi có gì mà đáng thương, ngươi không có cụt tay cụt chân, lại không thiếu ăn thiếu mặc. Mỗi ngày có ăn có uống, còn có thể đọc sách thi khoa cử, tiền đồ vô lượng, đáng thương chỗ nào?
“Trên đời này người đáng thương còn nhiều hơn ngươi, trước kia ta theo mẹ vào nam ra bắc thấy rất nhiều người đáng thương, có đàn ông bệnh lạ người nổi đầy mủ, có người hầu bị chủ tử đánh đến mức thoi thóp rồi ném tới bãi tha ma tự sinh tự diệt, có ông lão có đứa con trai chết trên chiến trường, trong nhà còn lại người con dâu và đứa cháu bé bỏng. Ngươi ấy à, không phải chỉ là cha không thương mẹ không yêu thôi sao, so với bọn họ, cuộc sống của ngươi quả là đào nguyên tiên cảnh.”
Tạ Kinh Lan mấp máy môi, không nói lời nào.
“Lão già kia lấy tự gì cho ngươi nhỉ? ‘Dịch An’? Ta cảm thấy ngươi sống dễ dàng an nhàn lắm mà. Vai không cần khiêng tay không cầm nặng, trước kia lúc trên núi mất mùa, ta bận đến nỗi cả ngày chân không chạm đất ấy chứ.”
Tạ Kinh Lan dường như hiểu được thảm cảnh trong mắt Hạ Hầu Liễm là như thế nào.
Xem ra ở chỗ Hạ Hầu Liễm ăn không đủ no áo rách quần manh, sống không được chết không xong, vô cùng bi thảm. Tấm lòng Hạ Hầu Liễm phải bao la đến cỡ nào mới hiểu được nỗi khốn khổ cả thể xác lẫn tâm hồn như thế? Nhưng nói đi nói lại, y không khỏi tò mò cuộc sống trước đây của Hạ Hầu Liễm, dù sao cũng cảm thấy không được tốt lắm.
“Ngươi vừa mới nói ngươi theo mẹ vào nam ra bắc, mẹ ngươi làm việc trong gánh hát sao?”
________