Phương Phức Nùng đang ngồi trong một câu lạc bộ đêm ở khu đèn đỏ, bắt đầu giải thích cho Hạ Vĩ Minh đầu đuôi chuyện mình bị hắt sơn. Nơi sân khấu lớn, hai người đẹp ngực khủng đang biểu diễn múa cột trên một sân khấu cỡ nhỏ xoay tự động hình tròn được nâng cao hơn, trông giống như một hòn đảo nhô lên trên mặt biển. Chọn cái nơi đàng điếm thối nát thế này, sự cố xảy ra cũng được miêu tả lại một cách đầy trầm bổng.
Hắn ném Đường Ách ở khách sạn. Hắn hoàn toàn không hề lo lắng Đường Ách làm loạn sau lưng Chiến Dật Phi, hắn bóng gió mấy người mẫu da trắng cao to bị mắc một loại bệnh hiểm nghèo nào đó, ở nơi này, Ernest Đường ngay cả một từ đơn tiếng Anh còn chẳng hiểu gần như là nửa bước cũng khó đi.
Hắn đã từng tới đây thời còn đi học, không ngờ sau mười năm mà bàn ghế vẫn y hệt năm xưa. Ánh mắt Phương Phức Nùng hờ hững dừng lại trên cơ thể mấy cô em, hắn nói với Hạ Vĩ Minh ban đầu đúng là mình và Albers nói chuyện với nhau rất vui vẻ, chỉ hận gặp nhau quá muộn, nhưng bỗng dưng lão già gàn dở đó lại trở mặt, lớn tiếng chất vấn cậu là người mẫu thật à?
“Tôi có thể phân biệt được một người có phải model hay không, không những từ động tác lắc mông khi bước đi mà còn qua cả lời ăn tiếng nói và cử chỉ. Không có một ai, không có một đứa model nào có thể nhìn ra được linh cảm trong tác phẩm này của tôi đến từ series ‘Hộp’ của Joseph Cornell (*), bọn họ chỉ biết trợn cái đôi mắt xinh đẹp, mở cái đôi môi cũng xinh đẹp của mình mà rằng, trong mắt tôi mấy bức vẽ của ông chẳng khác gì bọn trẻ con viết ngoáy.”
(*) Nghệ thuật của Joseph Cornell là nghệ thuật sử dụng vật liệu để tạo tác phẩm. Những vật liệu ông sử dụng là những món phế thải, những đồ vật đã bị vứt đi của người dân New York. Cornell chú trọng sự tương quan giữa các đồ vật và ông giới hạn sự tương quan này trong một khuôn khổ của một cái hộp. Thông thường mặt trước của hộp có kính che.
Công nhận đúng thế thật.
Lão già da trắng lập dị nhận định đây là một nghệ sĩ trẻ tới từ phương Đông, kiểu như chính ông ta vài thập niên trước, vì miếng cơm manh áo mà buộc phải làm những việc dựa vào cái vẻ ngoài của mình.
Trong một khoảnh khắc, Phương Phức Nùng định chối, nhưng cuối cùng hắn vẫn quyết định tôn trọng phán đoán của người nghệ sĩ này, hắn giải thích bản thân không phải một nghệ sĩ mang nỗi khổ sinh nhai, hắn chỉ là một doanh nhân đang tìm kiếm chỗ trống trong tâm trí của khách hàng tiềm năng.
Quả nhiên Albers nổi khùng lên.
“Tôi chúa ghét doanh nhân! Thương mại hóa và nghệ thuật không hợp nhau, toàn bộ lũ con buôn đều tỏa ra cái mùi hôi thối gay hết cả mũi!” Ông ta ném cái chổi sơn xuống, nổi giận đùng đùng, “Cậu quá giả dối! Tôi nghĩ chúng ta không nên hợp tác đâu!”
Phương Phức Nùng đã tính đến việc này từ trước, hoàn toàn không mảy may hoang mang: “Trước khi đuổi tôi ra khỏi cửa, có thể để tôi nói hết không.”
Ông già da trắng huơ huơ ngón tay như cành cây khô của mình, ý bảo đối phương nói nốt.
“Ông mở miệng ra là nói mình chúa ghét thương mại hóa, nhưng sự thật là ông lại không thể bỏ qua thậm chí còn cực kỳ ỷ lại vào phát triển kinh doanh…”
“Cậu đang vu cáo không có bằng chứng…”
Albers cắt lời Phương Phức Nùng, Phương Phức Nùng lại cắt lời ngược lại, “Tôi có căn cứ,” Hắn cười cười, “nếu tôi nói sai, thì ông lại cáu tiếp cũng chưa muộn.”
“Ông rời Ba Lan tới New York năm mười chín tuổi, kiếm sống bằng nghề vẽ tranh lề đường, chỉ năm đô-la một bức thôi nhưng lại chẳng có ai đoái hoài, lý do là vì ông vẽ không hề giống, bị những người qua đường từng thuê chửi là quá tệ!”
“Một bức từ ba đến tám đô-la, cùng lắm cũng chỉ bán được mười bức một ngày!”
“Bụng ông sôi ùng ục vì đói khi chẳng bán được bức nào, nhưng lúc bán được mười bức một ngày thì ông lại càng thêm bất an, vì sức sáng tạo của ông đang bị bóp chết, ông buộc phải cố hết sức mình để khiến nhân vật dưới ngòi bút của ông giống với người khách cho ông tiền, mắt thì phải đủ hai, mũi cũng không được mọc dưới miệng, đây không phải nghệ thuật, đây chẳng qua là vẽ tả thực – à mà tự truyện của ông không viết đoạn này, tôi tự đoán thôi.”
Thật sự đúng là một lão già vừa khờ khạo vừa đáng yêu, bị người ta nói toạc hết ra xong thì lập tức không giấu nổi tâm trạng nữa. Phương Phức Nùng đã dự liệu từ trước, đối với một cao thủ ngành Sales thì bước đầu tiên là tạo sự đồng cảm, bước thứ hai sẽ là chiếm cứ tâm trí khách hàng.
“Vào năm bảy tư, ông đã đưa gần chục cô gái mại dâm tới để triển lãm nghệ thuật trình diễn của mình tại một lễ hội âm nhạc nổi tiếng toàn cầu, ông vốn tưởng rằng vụ này sẽ khiến mình được chú ý, nhưng đáng tiếc là ở một nơi mà đâu đâu cũng toàn dân Hippie hành động kỳ quái, để trần nửa thân hoặc lõa thể hoàn toàn thì bọn họ đều nghĩ ông chẳng có gì khác biệt, vừa thấy ca sĩ Rock and Roll là chẳng thèm để mắt tới ông nữa. Lần trình diễn đó chẳng mang lại bao nhiêu tiếng vang, không ai có thể hiểu được ông đã cống hiến bao nhiêu công sức cho nghệ thuật, thế là ông sinh ra rối loạn nhân cách hoang tưởng (*) nghiêm trọng, ảo giác, ảo thính, cuối cùng buộc phải vào bệnh viện tâm thần. Những ngày trong bệnh viện tâm thần cực kỳ gian nan, nhưng lại chính là thời kỳ hoàng kim trong sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của ông. Tác phẩm được đón nhận nhất của ông cũng được sinh ra ở nơi đó.” Phương Phức Nùng dừng một chút, nở nụ cười, “Mấy cái này thì tôi đọc trong tự truyện của ông.”
(*) Rối loạn nhân cách hoang tưởng là một rối loạn sức khỏe tâm thần, trong đó người mắc phải có xu hướng không tin tưởng vào người khác và nghi ngờ về động cơ của mọi người. Đồng thời họ thường có niềm tin cực đoan rằng ai đó luôn tìm cách hãm hại mình.
“Sau đó ông quen được người cộng sự Thomas, ông ta trở thành người duy nhất kết nối ông với thế giới bên ngoài. Trong một khoảng thời gian rất dài, dài tận hơn hai mươi năm, ông chỉ lo miệt mài sáng tạo, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật của riêng mình, Thomas thì phụ trách toàn bộ hoạt động thị trường mà ông cho là thô tục không chịu nổi, ông ta chịu trách nhiệm quyết định danh sách những ngôi sao tham gia triển lãm Venice Biennale, để không đến độ những tác phẩm của ông bị khiêng ra khỏi cửa. Ông ta cho ông cơ hội hợp tác liên ngành cùng với rất nhiều nhãn hiệu đồ xa xỉ hoặc nhãn hiệu thời trang, biến năng khiếu trời ban của ông thành vàng thật bạc thật… Hai người vẫn luôn là đối tác tốt – cho tới hai năm trước.” Phương Phức Nùng lại ngừng, “Phải nói là thủ đoạn quan hệ công chúng của Thomas quá giỏi, chưa chắc tôi đã có thể làm được như ông ta.”
Lão già da trắng không nói câu nào, vẫn cố chấp hếch cằm.
“Hai năm trước ông từ New York tới Amsterdam, ngoại trừ việc gái mại dâm ở đây khá xinh đẹp thì tôi nghĩ nguyên nhân chủ yếu là bệnh tâm lý của ông tái phát.” Thấy ánh mắt đối phương khẽ biến, định há miệng bao biện, Phương Phức Nùng tiếp tục bổ sung, “Trước khi vào đây, tôi thấy có hộp thuốc risperidone (*) trong thùng rác, ông không việc gì phải che giấu vấn đề về tâm thần của mình, dù gì phần lớn nghệ sĩ chân chính cũng toàn là những người mắc bệnh tâm thần.”
(*) Risperidone, được bán dưới tên thương mại Risperdal cùng với một số những tên khác, là một loại thuốc chống loạn thần. Chúng chủ yếu được sử dụng để điều trị tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực, và khó chịu ở những người bị chứng tự kỷ.
“Việc hợp tác với những nhãn hàng đồ xa xỉ lớn cũng chẳng thoải mái như ông tưởng tượng, ví dụ như ông có thể thiết kế một đống những hình kiểu dạng chóp nón hướng lên trên trong bộ sưu tập Xuân Hè may sẵn của Dior, nhưng lại không được phép vẽ thẳng cơ quan sinh dục của nam giới vào. Điều này làm ông lại nghĩ về những tháng ngày vẽ dạo lề đường năm mười chín tuổi, ông nhận ra khả năng sáng tạo của mình lại héo úa một lần nữa.”
Đối với một người làm nghệ thuật, không có gì nghe nhục nhã hơn là sức sáng tạo bị vắt kiệt. Albers giận dữ, ngón tay như mấy cành cây khô run lẩy bẩy: “Sao cậu dám -”
“Giống như tác phẩm mà ông đang sáng tạo đây, ông nói ý tưởng lấy từ ‘Hộp’ của Joseph Cornell, nhưng thực ra từ năm tám mươi hai, ‘Rhapsody Ba Lan’ của ông đã lấy cảm hứng từ đây rồi. Một người nghệ sĩ phải đi đạo chính ý tưởng của mình, chẳng nhẽ không phải là đã hết thời rồi hay sao -”
Lúc này những ngón tay khô quắt kia đã mò được tới thùng sơn, Albers vung tay, hất nửa thùng sơn thừa màu đỏ về phía thẳng mặt đối phương.
Phương Phức Nùng phản ứng rất nhanh, lấy mũ chặn lại một phần, nhưng vẫn bị chỗ sơn kia giội đầy người.
“Cậu vốn là một thằng con buôn hôi hám không thể tả, giờ cũng phải dính vào hơi thở nghệ thuật rồi.” Albers rất hài lòng trước dáng vẻ chật vật của hắn, nói, “Suýt nữa thì tôi đã bị cậu lừa.”
Hắn mỉm cười đứng lên, cúi người hành lễ với lão già đang thở phì phò, “Tôi rất có thành ý, ngày mai tôi sẽ tới tiếp.”
Rồi đi mất.
Tới thăm hỏi thêm vài lần, nhưng lần nào cũng kết thúc bằng một màn chửi mắng té tát, lần nào cũng khiến Đường Ách cười đến gập cả người, chẳng cần cậu ta ra tay, Phương Phức Nùng đã tự làm hỏng vụ này. Vẻ lo lắng trên mặt Ernest Đường bay biến sạch, tâm trạng tốt đến lạ kỳ, đáng đời! Tưởng bản thân làm gì cũng được chắc? Để rồi xem anh định nói với ông chủ anh thế nào!
Nhưng lần tới thăm gần nhất lại có khả năng chuyển biến tốt, Phương Phức Nùng vừa tới studio của Albers thì nhìn thấy hai ông già da trắng đang chửi nhau trên đường, bọn họ cầm loa khuếch đại âm thanh, đứng trên ban công của ngôi nhà nhỏ xây bằng gạch đỏ, la lối với nhau qua một con đường rộng hai mươi mét.
Phương Phức Nùng đứng hóng hớt một lúc, tình hình chửi bới không hề cân sức, Thomas vốn là một người làm quan hệ công chúng biết ăn nói, một chuỗi chửi phun ra không gián đoạn, chửi không câu nào trùng với câu nào, trong khi đó Albers lại chỉ có thể miễn cưỡng chống đỡ bằng mấy câu đơn giản như “Lão chó đẻ” hay “Đồ khốn”.
Thấy Thomas càng chửi càng hăng, Albers gần như không nói chen vào được, Phương Phức Nùng quyết định trèo thẳng lên ban công – mười bảy tầng còn chẳng là gì, cao có nhiêu đây thì dễ như ăn bánh. Hắn cướp cái loa từ tay Albers, há miệng hướng về phía Thomas ở ban công đối diện: “Đ*t cụ nhà ông!”
Thomas hoàn toàn không kịp trở tay, ông ta nghe chẳng hiểu chữ nào nhưng vẫn cảm nhận được ý giễu cợt tát thẳng vào mặt. Ông ta tức giận ném cái loa xuống, tức tối bỏ đi.
Đại thắng trở về, cuối cùng lão già nghệ sĩ vừa gàn dở khó ưa lại vừa đáng yêu này cũng hòa hoãn hơn, ông ta nói không thể chỉ dựa vào mồm mép mà lay động được tôi, thứ tôi muốn thấy không chỉ là thành ý, cậu phải lấy ra được một tác phẩm nghệ thuật có thể khiến người ta phải thét chói tai.
Kiểu gì cũng thấy ông ta có ý muốn đối phương biết khó mà lui.
Phương Phức Nùng giải thích với Hạ Vĩ Minh, mỗi ngày lão già này đều được những tập đoàn đồ xa xỉ như LVMH hay Kering mời chào, âm thanh thị trường tạp nham đến bức bối, ông ta làm vậy chẳng qua là để cho khách hàng của mình một ấn tượng thương hiệu.
“Ấn tượng thương hiệu?” Tuy rằng Hạ Vĩ Minh là chuyên gia trong lĩnh vực sáng tạo ý tưởng nhưng thực sự không thể ra vẻ khôn ngoan trước mặt Albers hơn được Phương Phức Nùng, “Cậu chọc vào một người mà không ai dám chọc vào dù chỉ một cọng lông, toàn bộ ấn tượng của ông ta về Miya chỉ dừng lại ở một trưởng phòng Quan hệ công chúng không biết tự lượng sức, không biết trời cao đất rộng!”
“Thế chẳng phải là tốt lắm còn gì, ít nhất thì giờ trong mắt ông ta, tôi cũng khắc sâu ấn tượng như Marc Jacobs vậy. Với lại chỉ có người tầm thường mới ghim mấy chuyện vặt vãnh này thôi, một người làm nghệ thuật tuyệt đối sẽ không nhỏ nhen như thế.” Huýt sáo với hai em vũ nữ mơn mởn đang ra sức biểu diễn trên sân khấu, Phương Phức Nùng nghiêng đầu cười với Hạ Vĩ Minh, “Tôi cảm thấy lão già này sắp yêu tôi rồi.”
“Không thể đâu, cậu không phải type của ông ta.”
“Ông ta thích George Clooney à?”
“Không. Sao lại đoán thế?”
“Thì tôi thích.” Phương Phức Nùng nhếch khóe môi mê người, chân mày cũng nhướng lên quyến rũ, trong mắt ngập tràn cợt nhả, “Nếu Clooney muốn tôi, tôi sẽ cởi quần ngay tắp lự.”
Hạ Vĩ Minh lườm hắn một cái rồi nói, “Thời còn trẻ, Albers từng có một mối tình khắc cốt ghi tâm, không cho phép bất cứ ai đề cập đến, cũng chỉ viết phiên phiến trong tự truyện, tôi cũng tình cờ nghe Thomas nhắc tới mới biết thôi.”
“Ồ?” Phương Phức Nùng tỏ ý bản thân đang rất tò mò.
“Vào thời điểm bệnh tâm thần nặng nhất, ông ta từng tới phương Đông tìm linh cảm, đi qua Ấn Độ, Ả Rập Xê-út, Campuchia rồi lại đến Nhật Bản, bản thân vốn không còn đồng nào, cuối cùng được một thanh niên Nhật Bản tốt bụng cho ngủ nhờ, mà một lần ấy dài cả một năm. Về sau chàng trai người Nhật Bản đó thành tình nhân của ông ta, khơi dậy tất thảy những cảm xúc sáng tạo mãnh liệt của ông ta. Ông ta từng muốn vẽ một bức tranh hoặc làm một món điêu khắc cho người đó, nhưng lần nào cũng hủy tác phẩm ngay khi sắp hoàn thành, ông ta nói bất cứ một nghệ sĩ người trần mắt thịt nào cũng không thể ghi lại một người đẹp như thế, chỉ Thượng Đế mới làm được. Tôi chỉ nhớ mang máng chàng trai người Nhật Bản kia tóc đen mắt phượng, ngoại hình tuấn tú, nói chung là khác hẳn cậu.”
Hai em gái múa cột đã biểu diễn xong, nhạc nền trên sân khấu bỗng chuyển thành ca khúc “Lady Marmalade” từng cực kỳ thịnh hành vào những năm bảy mươi tư, tám cô gái trang điểm diêm dúa, mông tròn căng mẩy đột nhiên đi ra từ hậu đài, trong tay cầm mấy món đạo cụ như bút vẽ, sơn màu v.v.
Cả căn phòng trở nên nhốn nháo, bình thường biểu diễn sex show kiểu này sẽ chỉ có một hoặc hai người, rất ít khi có thể chứng kiến một màn phô trương như thế. Trong lúc đó, Phương Phức Nùng lại chống tay xuống mượn lực, phi thẳng qua hàng ghế, tiến về phía sân khấu.
Hạ Vĩ Minh kinh hãi lắp bắp: “Cậu định… đi đâu thế?”
“Tôi nghe được từ trợ lý ở studio của Albers, đêm nay lão già đó cũng sẽ tới đây tìm vui,” Phương Phức Nùng kéo đứt hàng cúc áo sơ-mi ra, để lộ cơ ngực và cơ bụng rắn chắc xinh đẹp, hắn nhoẻn miệng cười, “It’s my turn.”
Lúc này trưởng phòng Quan hệ công chúng còn chưa hề biết, Chiến Dật Phi đã liên hệ với trợ lý của Đường Ách và Hạ Vĩ Minh, vì tiến độ quay chụp liên tục bị trì hoãn kéo dài, cuối cùng tổng giám đốc của Miya cũng không nhịn được nữa mà đích thân tới Amsterdam.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT