Những ngày ở Ellesméra, Er­agon không thể phân biệt được thời gi­an trong thành phố ngàn thông này. Mùa như không tuổi, thậm chí bóng tối âm u bao phủ rừng cây vào những buổi chiều. Những buổi tối cũng như kéo dài bất tận. Tháng nào muôn hoa cũng khoe hương sắc bằng quyền uy phép thuật và bùa chúa của thần tiên.

Er­agon đã yêu thương quyến luyến Ellesméra, với vẻ đẹp và sự êm đềm tĩnh lặng, với những ngôi nhà duyên dáng mọc ra từ những thân cây, những bài ca mê hoặc vang lên trong mỗi buổi chiều, những lúc trầm tư mặc tưởng, cũng như những tiếng cười giòn rộn rã của thần tiên.

Thú hoang dã tại Du Welden­var­den không phải lo sợ thợ săn. Từ ngôi nhà trên cây Er­agon thường thấy một thần tiên vuốt ve âu yếm một con nai, một con chồn; hoặc thì thầm trò chuyện với một chú gấu e thẹn lăn lông lốc trên đồng cỏ. Có những con thú Er­agon không thấy hình dạng chúng, vì chúng xuất hiẹn về đêm – di chuyển, lèm bèm trong bụi rậm - chạy biến ngay khi Er­agon tién lại gần. Một lần Er­agon thoáng thấy một sinh vật giống như con rắng phủ đầy lông. Lần khác nó lại thấy một cô gái áo trắng toát thoắt hiện nguyên hình thành một con sói cái nhe nanh nhọn hoắt.

Mỗi khi có dịp, Er­agon và Saphi­ra lại tiếp tục khám phá Ellesméra. Hai đứa cùng sư phụ Orik, vì Arya đã không còn nhập chung bọn nữa. Cô cũng không để Er­agon gặp mặt từ khi cô đập tan bức fairth của nó. Đôi khi Er­agon thấy cô thấp thoáng qua những hàng cây, vừa định tiến lại nói lời xin lỗi, cô lẩn đi ngay, bỏ lại nó một mình giữa những cây thông cổ thụ. Sau cùng Er­agon quyết định phải nắm thế chủ động đợi có dịp nối lại mối gi­ao hảo với cô. Vì vậy, một buổi chiều, Er­agon hái một bó hoa rồi thới Tial­darí, nhờ một thần tiên chỉ đường tới cung của Arya.

Chiếc cửa lưới để ngỏ khi Er­agon bước vào cung. Gõ cửa, không ai trả lời. Nó bước vào trong, vừa ngóng chờ tiếng bước chân của ai đó, vừa nhìn quanh căn phòng khách rộng phru đầy đây nho. Nối với phòng khác, một bên là phòng ngủ nhỏ, một bên là thư phòng. Trên tường treo hai bức fairth: một bức chân dung vị thần tiên nghiêm trang quắc thước, tóc màu bạc (Er­agon đoán là đức vua Evan­dar), còn bức kia là một tiên ông trẻ, Er­agon không biết là ai.

Dạo qua các phòng, Er­agon ngắm nghía từng hiện vật, để đoán biết sở thích riêng tư của nàng trong đời sống. Bên giường ngủ, trong quả cầu thủy tinh là một bông hoa màu đen còn đọng sương mai8. Trên bàn viết, các cuộn giấy xếp gọn gàng, có ghi từng tựa như: Báo cáo thu hoạch mùa; Ghi chú hoạt động của giám sát Gil’lead…Trên thành cửa sô là ba cây bon­sai mọc ngoằn nghèo theo dạng chữ cổ: An, lực, trí. Bên mấy cây đó, một mảnh giấy với những dòng phác thảo một bài thơ dở:

Dưới vừng trăng rực rỡ

Giữa cỏ hoà và giữa rừng thông

Mặt hồ bạc im lìm phẳng lặng

Từ đâu viên đá nhẹ rơi

Làm tan vỡ mặt trăn ánh bạc

Mảnh sáng vỡ sắc ngời như kiếm

Lao xao gợn sóng khắp mặt hồ

Rồi êm ả lại hoàn êm ả

Hồ cô đơn trở lại cô đơn

Trong bóng đêm nặng nề ảm đạm

Chiếc bóng buồn bối rối bay qua

Bay qua nơi đã một lần…


Bước lại, đặt bó hoa lên chiếc bàn nhỏ kê ngay lối vào, Er­agon vừa định quay ra, bỗng sững ngời khi thấy Arya đứng bên khung cửa. Cô có vẻ ngỡ ngàng khi thấy Er­agon hiện diện tại nơi đây, nhưng rồi bình thản lại ngay.

Cả hai lặng lẽ nhìn nhau.

Er­agon nhặt bó hoa lên, ngập ngừng trao cho Arya:

- Tôi không biét tạo ra một đoá hoa riêng cho nàng như Faolin, nhưng đây là những đoá hoa chân thành, những đoá hoa đẹp nhất mà tôi kiếm được.

- Tôi…không thể nhận, Er­agon

- Đây không là…không phải là quà tặng. Trước đây, tôi đã không biết rằng bức fairth của tôi đã đặt nàng vào hoàn cnảh khó khăn đến thế, vì vậy, tôi tha thiết cầu mong nàng tha thứ…Tôi chỉ cố gắng hoàn tất bức fairth, đâu ngờ tạo nên rắc rối. Arya, tôi biét việc học hành của mình là rất quan trọng, nàng đừng sợ tối sẽ chểnh mảng việc học để chỉ mơ màng đến nàng.

Chóng mặt đến lảo đảo, Er­agon phải tựa lưng vào tường nói tiếp:

- Chỉ có vậy thôi.

Arya nhìn Er­agon một lúc lâu, rồi chậm rãi giơ tay cầm bó hoa, đưa lên mũi. Đôi mắt cô vẫn chăm chăm nhìn chàng thiếu niên kỵ sĩ:

- Hình như chàng không được khoẻ? Chàng bị bệnh?

- Không. Chỉ tại cái lưng thôi.

- Tôi có nghe nói, nhưng không ngờ…

Đứng thẳng lại, Er­agon nói:

- Tôi nên đi thì hơn…

- Khoan…

Arya ngập ngừng, rồi đưa Er­agon đến ngồi trên chiếc ghế dài, kê bên cửa sổ. Lấy từ trên kệ xuống hai cái cốc, cô bóp vụn lá tầm ma khô vào cốc, rồi vừa rót đầy nước vừa nói: “Sôi đi”.

Nhận cốc trà nóng từ Arya, Er­agon cầm bằng cả hai tay để hơi ấm truyền vào cơ thể. Nó nhìn qua cửa sổ: trên mặt đất gần mười mét dưới kia, các thần tiên thong thả dạo trong vườn ngự uyển, chuyện trò ca hát và trong làn ánh sáng mờ tỏ, từng bầy đom đóm lập loè bay lượn.

Er­agon nói nhỏ:

- Ước gì…được mãi mãi thế này. Êm đềm, tĩnh mịch làm sao.

- Saphi­ra sao rồi?

- Vẫn vậy. Còn nàng?

- Tôi sửa soạn trở về Var­den

Er­agon giật mình:

- Khi nào?

- Sau hội Huyết thệ. Tôi nấn ná lại đây quá lâu rồi, nhưng ra đi cũng là điều miễn cưỡng. nữ hoàng thì chỉ mong tôi ở lại. Ngoài ra, tôi chưa bao giờ tham dự hội Huyết thệ, một lễ hội quan trọng nhất của thần tiên.

Chăm chăm nhìn Er­agon qua thành cốc, Arya hỏi:

- Oromis tiền bối cũng không giúp gì được cho sức khoẻ của chàng sao?

- Sư phụ đã cố đủ cách rồi.

Cùng nhấp trà và nhìn những đôi dạo dưới vườn, Arya lại hỏi:

- Việc tập luyện của chàng tiến bộ chứ?

Er­agon gật đầu. Không biết nói gì thêm, nó cầm mảnh giấy lên chăm chú xem như lần đầu đọc mấy vần phác thảo của nàng:

- Nàng vẫn thường làm thơ?

Arya với tay cầm mảnh giấy, cuốn tròn rồi bỏ vào một cái ống:

- Theo phong tục, ai dự lễ Huyết thệ đều phải mang theo một bài hát, một bài thơ hoặc một tác phẩm nghệ thuật khác do chính mình làm ra. Bài này chưa làm xong…

- Tôi thấy bài thơ hay lắm.

- Nếu chàng đã từng đọc nhiều thơ thì…

- Tôi cũng được đọc nhiều thơ rồi…

Im lặng một lúc, Arya cúi đầu nói nhỏ:

- Tôi xin lỗi…tôi không thể…Vì chàng không phải là người đầy tiên gặp tôi tại Gil’ead.

- Không.Tôi…

Er­agon xoay xoay cái cốc tìm lời nói:

- Arya …nàng sắp ra đi, tôi sẽ cảm thấy vô cùng đáng trách nếu đây là lần gặp cuối cùng giữa hai ta. Sao chúng ta không thể thường gặp nhau như trước kia? Sao nàng không thể hướng dẫn tôi Saphi­ra tham quan hoàng cung Ellesméra nữa?

Giọng cô dịu dàng nhưng nghiêm khắc:

- Điều đó cũng chẳng thay đổi được gì đâu

- Đó là cái giá phải trả cho tình bạn của chúng ta chỉ vì một hành động vô tình của tôi sao? Thú nhận, tôi không thể ngăn được tình cảm của tôi đối với nàng, nhưng thà tôi chịu đau đớn vì một vết thương nữa của Tà thần, còn hơn để sự ngu ngốc của tôi huỷ diệt tình bạn cua hai ta. Vì…tôi rất quý trọng tình cảm đó.

Uống cạn cốc trà, Arya mới trả lời:

- Er­agon, tình bạn của chúng ta vẫn tồn tại. Chuyện chúng ta lại cùng nhau…thì có lẽ phải chờ tương lai sẽ ra sao. Lúc này tôi rất bận, không thể hứa trước được điều gì.

Những lời cô gần như một lời hoà giải, và Er­agon cũng chỉ mong có vậy thôi. Nó cúi đầu:

- Tôi hiểu, thưa công nương Arya.

Sau vài câu chuyện vui vẻ, Er­agon trở lại cùng Saphi­ra, trong lòng tràn trề hy vọng. Khi ngồi trước bàn học, mở cuộn giấy cuối cùng của Oromis, nó thầm nhủ: “Bây giờ chỉ còn trông vào số mệnh an bài”.

***

Rút từ cái túi nhỏ đeo nơi thắt lưng, Er­agon lấy ra một ống đá đựng chất nal­gask – sáp ong hoà cùng dầu hạt dẻ - thoa lên môi để chống nẻ. Cắt ống nal­gask vào túi, nó ôm cổ Saphi­ra, vùi đầu vào trong vòng tay để tránh ánh sáng chói chang hắt lên. Những cú vỗ cánh mạnh mẽ của Saphi­ra – cao hơn và nhanh hơn Glae­dr – làm ù hai tai Er­agon.

Suốt từ rạng đông tới xế chiều, hai con rồng bay về hướng tây nam, thỉnh thoảng glae­dr và Saphi­ra lại trổ tài quyết đấu trên không. Những lúc đó, Er­agon phải ôm chặt yên cương mới không bị lộn cổ khỏi lưng cô em rồng đangn hăng say biểu diễn những pha nhào lộn, làm ruột gan ông anh nhộn nhạo cả lên.

Cuộc hành trình chấm dứt tại một cụm bốn ngọn núi vươn lên giữa rừng già. Đây là những ngọn núi đầu tiên Er­agon nhìn thấy tại Du Welden­var­den. Những đỉnh núi phủ tuyết trắng, lộng gió, xé toạc màn mây, khoe ra những bờ vách cheo leo lạnh lẽo dưới mặt trời.

Saphi­ra bình phẩm: “So với rặng Be­or, đám núi này trông bé tí tẹo”.

Theo thói quen suốt mấy tuần lễ tĩnh toạ trầm tư, Er­agon phóng tư tưởng về các ngả, gi­ao tiếp với những sinh vật chung quanh, dò tìm có kẻ nào đó có thể làm hại nó không. Er­agon cảm thấy hơi ấm trong tổ một con chồn, nhận thức sự hiện diện của quạ, chim sâu, diều hâu, vô số sóc lăng xăng trên những cành cây, và phía dưới núi, rất nhiều bầy đàn côn trùng thường gặp; và những con rắn đang trườn mình trong bụi săn lùng chuột

Khi Glae­dr đáp xuống một bãi trống trên đỉnh núi thứ nhất, Saphi­ra phải chờ cho rồng vàng xếp gọn đôi cánh khổng lồ, mới có đủ chỗ cho nó hạ cánh. Đó là một triền đá phủ đầy địa y vàng rực, phía trên mờ mờ ẩn hiện một vách đứng đen ngòm. Vách đá tạo thành một trụ tường chống đỡ một mái hiên nước đóng băng xanh ngắt. Những mảnh băng rung rời theo làn gió, vỡ vụn trên những tảng đá nằm bên dưới.

Rồng vàng Glae­dr lên tiếng: “Ngọn núi này có tên gọi là Fionu­la. Ba ngọn anh em kia là Ethrun­dr, Mero­goven và Grim­ins­mal. Mỗi ngọn đều có một truyền thuyết, trên đường về ta sẽ kể, còn bây giờ ta sẽ nói về mục đích của chuyến đi hôm nay. Đó là thực chất mối ràng buộc giữa loài rồng với thần tiên, sau đó là với con người. Hai người đều đã biết chút ít về chuyện này, nhưng đã đến thời điểm phải hiểu rõ một cách nghiêm túc và sâu sắc hơn ý nghĩa mối kết hợp giữa hai người, để có thể duy trì khi ta và Oromis không còn có mặt nữa. Er­agon, người muốn hỏi gì vậy?”

Er­agon cuốn chăn quanh người, hỏi:

- Sao sư phụ không đến đây cùng chúng ta?

“Vì đây là trách nhiệm của ta. Trách nhiệm của những rồng già từ suốt bao nhiêu thế kỷ qua, là phải bảo đảm cho thế hệ kỵ sĩ mới thông hiểu sự quan trọng của địa vị được trao. Và…vì Oromis không được khoẻ như bề ngoài của ông ấy đâu”.

Đá lách tách rạn nứt khi Glae­dr cuộn mình giữa triền núi, vươn cái đầu khổng lồ uy nghi khỏi mặt đất, chăm chú nhìn Er­agon và Saphi­ra bằng một con mắt to đùng và sáng rực. Gió thổi tản mạn ngọn khói đen toả ra từ hai lỗ mũi rồng vàng: “Một phần những gì ta sắp nói đây là sự hiểu biết thông thường của thần tiên, kỵ sĩ và những con người có học; nhưng rất nhiều điều chỉ những thủ lãnh kỵ sĩ, một số ít thần tiên, vua chúa của loài người mới được biết. Tất nhiên loài rồng hẳn phải được biết rồi. Bây giờ hãy lắng nghe. Khi hoà bình trở lại sau cuộc chiến giữa rồng và thần tiên, kỵ sĩ được thành lập để bảo đảm một cuộc xung đột như vừa qua sẽ không tái diễn giữa hai loài nữa. Nữ hoàng Tar­muno­ra của thần tiên và con rồng được bầu lên đại diện cho loài rồng, tên là…”

Glae­dr ngừng lại truyền hàng loạt tư tưởng sang Er­agon: răng dài, răng trắng; chiến thắng, chiến bại; hai mươi trứng đực, mười chín trứng nở lớn tới trưởng thành…tất cả đều không thể diễn tả bằng bất kỳ ngôn ngữ nào.

“Vậy là nữ hoàng cùng rồng đại diện với cái tên rất khó gọi đó đi đến quyết định: một hiệp ước bình thường như vậy vẫn chưa đủ để bảo đảm hoà bình. Chữ ký trên giấy chẳng có nghĩa gì đối với một con rồng. Máu loài rồng luôn sôi sùng sục, chỉ cần một thời gi­an, việc xung đột lại với thần tiên là điều không thể nào trành khỏi, như việc từng xảy ra với người lùn hàng thiên niên kỷ. Nhưng không giống như đối với người lùn, cả thần tiên và loài rồng chúng ta đều không thể để cho một cuộc chiến nữa xảy ra: vì cả hai loài đều quá mạnh. Chiến tranh xảy ra, hai loài sẽ tận diệt lẫn nhau. Chỉ còn một cách là phải cùng đồng tâm hợp lực củng cố mối liên kết giữa hai loài bằng phép thuật”.

Thấy Er­agon rùng mình vì lạnh, Gleadr vui vẻ bảo Saphi­ra: “Sao em không nung nóng mấy hòn đá này lên cho anh chàng kỵ sĩ sưởi, khỏi bị rét run lên như thế kia?”

Saphi­ra vươn cổ, một luồng lửa xanh phun ra từ giữa những chiếc nanh nhọn, làm cháy đen đám địa y trên sườn đá, toả ra một mùi chát đắng. Hơi nóng bốc lên làm Er­agon phải vội quay mặt đi. Nó cảm thấy côn trùng dưới tảng đá lèo xèo cháy vụn trong ngọn lửa. Một phút sau, Saphi­ra khép miệng, để lại một vành đai đá đỏ rực chung quanh.

“Cám ơn” Er­agon nói rồi hơ tay sưởi ấm.

Gleadr căn dặn Saphi­ra: “Lần sau phải nhớ dùng lưỡi điều khiển nguồn lửa. Nào bây giờ tiếp tục…Phải mất chín năm ròng, những thần tiên cao tay nhất mới phát minh ra được những câu thần chú cần thiết, rồi tụ tập hai loài tại Ilirea. Thần tiên cung cấp cấu trúc thần chú, loài rồng cung cấp sức mạnh, cùng nhau kết hợp linh hồn của hai loài”.

Mối liên két đó làm thay đổi chúng ta. Loài rông đạt được cách sử dụng ngôn ngữ và những dáng vẻ văn minh, còn thần tiên chia sẻ sự trường thọ của loài rồng. Trước đó, đời sống thần tiên cũng ngắn ngủi như loài người thôio. Phép thuật của rồng thấm đẫm trong truyền thuyết và được truyền sang thần tiên, cho họ một vẻ duyên dáng và sức mạnh đầy vẻ khoa trương. Loài người chưa bao giờ có được quyền lực mạnh mẽ như thần tiên, vì loài người tới sau khi phép thuật đã được hoàn thiện và loài người không có nhiều thời gi­an như thần tiên. Tuy nhiên…”Mắt rồng vàng long lanh khi nói tiếp “loài người cũng được chút ảnh hưởng từ những kẻ lần đầu tiên đặt chân lên đất Ala­gae­sia, dù bị thoái hoá từ sau sự cố suy sụp của kỵ sĩ”.

Er­agon hỏi:

- Người lùn có bị ảnh hưởng gì không?

“Không. Đó là lý do chưa bao giờ có một kỵ sĩ lùn. Họ không ưa chúng ta, cũng như chúng ta không ưa họ. Người lùn cảm thấy không yên tâm khi kết hợp với loài rồng. Có lẽ đó cũng là điều may mắn, vì nhờ vậy họ đã tránh được sự suy tàn như loài người và thần tiên.”

“Suy tàn? Sư phụ mà bị suy tàn?”

Er­agon thấy rõ giọng giỡn cợt của cô rồng. Nhưng Gleadr trả lời rất nghiêm túc: “Phải, suy tàn. Nếu một trong ba loài chúng ta - thần tiên, người và rồng - bị đau khổ, thì cả ba đều bị ảnh hưởng. Sát hại rồng, Gal­ba­torix đã gây tổn thương đồng loại lão, và cả thần tiên. Mới tới Ellesméra nên các ngươi không biết, thật ra thần tiên đang bị suy tàn; quyền lực của họ xưa kia không giống như bây giờ đâu. Còn loài người thì đang rối loạn, nền văn hoá bị mất mát quá nhiều. Cách duy nhất để lập lại trật tự thế giới là phải lấy lại thế quân bình giữa ba loài”.

Rồng vàng bóp nát mấy tảng đá dưới móng, ráng bình tĩnh tiếp: “Với phép thuật, nữ hoàng Tar­muno­ra cho phép một rồng con kết nối với kỵ sĩ của nó. Khi một rồng mẹ quyết định trao trứng cho các kỵ sĩ, sẽ thì thầm mấy câu thần chú với trứng (mấy câu này hai người sẽ được ta dạy sau)”, để tránh việc rồng con nở trước khi chọn đúng người, cũng như để rồng con có thể ở trong trứng vô thời hạn mà không bị làm hại. Chính em là một thí dụ đó, Saphi­ra.

Mối ràng buộc được tạo ra giữa kỵ sĩ và rồng làm con người và thần tiên trở nên mạnh mẽ và thanh lịch hơn; vẻ hung dữ của rồng cũng bớt đi nhiều…Ta thấy Er­agon có điều muốn nói. Chuyện gì vậy?”

- Chỉ là…tôi không tưởng tượng nổi Glae­dr và Saphi­ra lại còn có thể hung dữ đến thế nào nữa…

Rồng vàng khùng khục cười đến rung cả dất: “Nếu mi gặp một con rồng chưa hề ràng buộc với kỵ sĩ thì sẽ không bao giờ thắc mắc về điều đó. Một con rồng đơn lẻ không hề khuất phục trước bất cứ ai, bất cứ điều gì. Nó chỉ hành động theo ý thích, chỉ tỏ ra dễ chịu với họ hàng thân tộc của nó thôi. Rồng cái lại càng khủng khiếp hơn. Một rồng đực, đã sống chung cùng kỵ sĩ, phải là một cao thủ cực kỳ mới mong kết bạn tình với một rồng cái hoang dã. Mối ràng buộc giữa Gal­baror­ix và Shruikan, con rồng thứ hai của lão, là một sự kết hợp bỉ ổi. Vì Shruikan không chọn lão, mà chính lão đã sử dụng tà thuật bắt nó phục vụ những mưu đồ điên loạn của lão”.

Nhìn Er­agon và Saphi­ra với đôi mắt đầy xúc động Glae­dr tiếp: “Mối liên hệ giữa hai người vượt khỏi sự ràng buộc đơn giản của tâm tưởng. Đó là sự liên kết giữa hai linh hồn. Er­agon, người có tin linh hồn của một con người có thể tách rời khỏi thân xác không?”

- Tôi không biết. Nhưng đã một lần, Saphi­ra đưa tôi ra khỏi thể xác, để tôi nhìn thế giới qua con mắt nó…Khi đó…dường như tôi không còn mối quan hệ nào với thể xác mình nữa.

Vươn đầu móng sắc nhọn, Glae­dr lật một tảng đá, để lộ ra một con chuột đang ẩn mình trong tổ. Chiếc lưỡi đỏ lòm của rồng vàng, lẹ như tia chớp, chụp con mồi. Er­agon nhăn mặt khi cảm thấy mạng sống của con vật bị kết thúc.

Glae­dr nói: “Khi thể xác bị huỷ diệt, linh hồn cũng bị huỷ diệt theo”

- Nhưng một con vật không phỉa là một con người

Sau những lần tĩnh toạ trầm tư, ngươi có thật sự tin chúng ta khác xa với một con chuột không? Có tin là chúng ta được ban cho một khả năng siêu việt mà các loài khác không có được và khả năng đó, bằng cách nào đó sẽ bảo quản cho chúng ta được toàn vẹn sau khi chết không?

- Không.

"Ta cũng đã nghĩ là không. Vì chúng ta gắn kết quá chặt chẽ với nhau, nên khi một con rồng hay một kỵ sĩ bị thương, họ phải lấy hết can đảm tách rời mối gắn kết đó để bảo vệ cho nhau, tránh khỏi những đau đớn không cần thiết. Thậm chí có thể gây thành điên loạn, làm họ không chống lại được sức cám dỗ cố đem linh hồn bạn vào cơ thể mình. Kết quả là cả hai đều chết. Cho dù điều đó có thể thực hiện, thì mộ thể xác chứa đựng nhiều linh hồn là một sự ghê tởm không thể chấp nhận được."

- Chết một mình, xa rời người thân thương nhất, thật là khủng khiếp.

"Ai cũng phải chết một mình thôi, Er­agon ạ. Cho dù ngươi là một vị vua bỏ mạng ngoài chiến địa, hay một nông dân nghèo hèn chết trên giường giữa gia đình, chẳng kẻ nào theo người về cõi u minh đâu…Nào, bâ giờ ta sẽ hướng dẫn hai ngươi cách tách rời tâm tưởng. Bắt đầu là…"

Trong căn tiền sảnh của ngôi nhà mọc trên cây, Er­agon lom lom nhìn khay đồ ăn tối: bánh mì với bơ hạt dẻ, dâu, đậu, một bát rau xanh, hai quả trứng luộc (theo tin tưởng của thần tiên đó là trứng không nở được), và một bìh nước suối tinh khiết. Dù biết mỗi món trong bữa ăn của nó, đều đã được chăm chú với tất cả tài năng của bếp núc tinh xảo nhất của thần tiên, và nó cũng biết ngay cả nữ hoàng Is­lanzadí cũng ăn giống hệt thế này thôi, nhưng chỉ nhìn thấy những món này, Er­agon đã không chịu nổi.

Bước rầm rầm về phòng ngủ, Er­agon càu nhàu:

- Mình muốn ăn thịt. Cá, chim, thịt gì cũng được, trừ mấy món rau củ triền miên này. Mình đâu phải là một con ngựa? Làm sao có thể béo tốt khoẻ mạnh như một con ngựa khi ăn mấy món này?

Saphi­ra duỗi chân, bước lại gần mấy lỗ hổng ngó xuống Ellesméra: “Mấy hôm nay em cũng chưa được ăn gì, anh đi cùng em không? Tha hồ nấu nướng, thần tiên không biết được đâu”

Er­agon hớn hở: “Đi chứ. Có phải lấy yên cương không?”

“Gần thôi mà”

Er­agon vội vàng lấy muối, dược thảo, gia vị rồi leo lên Saphi­ra .

Khi lên cao khỏi thành phố, Saphi­ra lượn theo dòng suối chảy xuyên qua Du Welden­var­den, tới một hồ nướ cách đó chừng vài dặm. Nó hạ cánh, rạp sát mình cho Er­agon dễ dàng leo xuống rồi căn dặn: “Trong những bụi cỏ gần bờ nước, nhiều thỏ lắm. Thử xem anh bắt được con nào không. Trong khi đó, em đi săn nai”

“Cái gì? Em không muốn chia mồi cho anh sao?”

“Không đâu. Nhưng nếu tới mấy con chuột quá khổ đó mà anh cũng không vồ nổi, em sẽ chia cho anh tí ti mồi”.

Er­agon cười cười khi cô rồng cái bay vút đi, rồi nhìn quanh những bụi cỏ quanh hồ, sửa soạn săn tìm bữa ăn tối.

Chưa đầu một phút sau, Er­agon đã có một xâu thỏ chết. Chỉ một thoáng với tâm tưởng, nó đã phát hiện mấy con thỏ trong hang và sử dụng một trong mười hai câu thần chú sát thủ để giết chết hết cả bầy. Với phép thuật được sư phụ truyền dạy, Er­agon mất hết hứng thú của sự thách thức, rượt đuổi. Nhớ lại những năm tháng mài dũa khả năng lần theo dấu vết con mồi, Er­agon thầm nhủ: “Thậm chí lần này mình không cần phải lén lút rình mò. Thật vô nghĩa nếu cần bao nhiêu, mình cũng có thể nhét đầy vào giỏ. Khi đi săn cùng ông Brom chỉ với một hòn sỏi, ít ra còn có một sự thách thức thú vị hơn. Như thế này…khác gì là một cuộc tàn sát đâu”.

Câu nói của người đàn bà trui luyện kiếm vang lên trong nó: “Khi có được bất cứ điều gì, chỉ với vài câu thần chú, mục đích chẳng còn ý nghĩa gì nữa”

Er­agon chợt tỉnh: “Đáng lẽ mình phải lưu tâm hơn đến lời nói của bà ta”.

Với những động tác thành thạo, Er­agon rút dao săn, lột da, mổ bụng thỏ - để tim, gan, phổi, thận sang một bên - rồi chôn kỹ bộ lòng để không bốc mùi hấp dẫn loài thú chuyên ăn thịt thối. Sau đó, đào một hố nhỏ, chất đầy cành khô, Er­agon nhóm lửa bằng phép thuật. Trong khi chờ củi cháy thành than, nó chặt một nhánh dương đào, róc hết cành lá, thui trên than hồng cho cháy hết phần nhựa đắng, rồi xỏ xâu xác thỏ, gác qua miệng hố trên hai nhánh cây cắm trên mặt đất. Er­agon đặt một phiến đá bằng phẳng lên một góc hố than làm chảo, lấy mỡ thỏ rán phần nội tạng.

Saphi­ra trở về bắt gặp Er­agon đang ngồi bên bếp lửa, từ từ xoay trở xâu thịt. Nó đáp xuống đất với một con nai mềm oặt ngậm trong hàm, con thứ hai quắp dưới móng. Cô ả nằm dài trên bãi cỏ thơm nhai rau ráu cả da lẫn thịt con mồi. Tiếng xương gãy vụn giữa những cái răng sắc như dao, như tiếng cành cây bị giông gió bẻ gãy.

Thịt thỏ chín, Er­agon vung vẩy cho nguội bớt. Nó vừa ngắm nghía những miếng thịt óng vàng vừa hít hà mùi thơm đầy hấp dẫn.

Nhưng ngay khi mở miệng cắn miếng đầu tiên, tư tưởng nó bất ngờ hiện ra những lần tĩnh toạ. Nó nhớ lại những khi len lỏi vào tâm trí của những con chim, sóc, chuột. Chúng đã chứng tỏ mình sôi nổi đến thế nào, hăn hái đến thế nào trong chiến đấu để tồn tại trước hiểm nguy. “Chẳng lẽ tất cả những gì chúng có được trong đời sống này chỉ là vậy thôi sao.”

Er­agon ném xâu thịt ra xa, kinh hoàng như việc nó giết mấy con thỏ cũng ghê sợ như việc giết người vậy.

Saphi­ra ngừng ăn, trợn mắt nhìn.

Er­agon hít sâu một hơi, ấn mạnh nắm tay lên gối, cố bình tĩnh lại để tìm hiểu vì sao nó lại có thể xúc động đến thế. Suốt đời nó vẫn thường ăn thịt, cá, gia cầm. ăn rất ngon lành. Vậy mà bây giờ chỉ nghĩ đến việc ăn mấy miếng thịt thỏ kia đã làm nó phát bệnh. Nhìn Saphi­ra, Er­agon nói: “Anh không thể nào ăn nổi”

“Sao anh ngược đời vậy? Quy luật trên đời này, vật này ăn vật khác là đương nhiên”.

Nó suy nghĩ câu hỏi của Saphi­ra. Nó không chê trách, kết tội người ăn thịt, vì biết đó là phương tiện sống còn của nhiều nôgn dân nghèo khổ. Nhưng phần nó, không thể nào nuốt trôi một miếng thịt đựơc nữa, có lẽ trừ khi đói lả. Đã từng xâm nhập vào tâm trí thỏ, đã từng cảm thấy những gì thỏ cảm thấy…ăn một con thỏ chẳng khác nào ăn thịt chính mình.

Er­agon trả lời Saphi­ra: “Vì chúng ta có thể tự làm cho mình tốt đẹp hơn. Chẳng lẽ chúng ta đầu hàng sự thèm muốn thôi thúc, để gây thương tích hay chết chóc cho những kẻ làm ta tức giận, chiếm đoạt tất cả những gì mình muốn của những kẻ yếu hơn, bất chấp vui buồn, đau khổ của kẻ khác. Chúng ta không được sinh ra như những sinh vật hoàn thiện, thì phải coi chứng những sai lầm có thể dẫn đến sự huỷ hoại chính mình”.

Chỉ xác mấy con thỏ, Er­agon tiếp: “Như sư phụ đã nói, sao chúng ta lại có thể gây ra những đau khổ không cần thiết như vậy được?”

“Anh định từ bỏ hết mọi thú vui trên đời sao?”

“Anh từ bỏ những gì mang tính huỷ hoại”.

“Nhất quyết?”.

“Đúng. Nhất quyết như vậy”

Saphi­ra tiến lại gần mấy con thỏ thơm nức mũi: “nếu vậy, đây sẽ là món tráng miệng tuyệt vời cho em”.

Chỉ trong chớp mắt, cô ả tóm gọn mấy con thỏ, liếm láp sạch bách tim gan rán trên phiến đá: “Em không thể sống thiếu thịt được. Cây cỏ là thực phẩm của lũ trâu bò lừa ngựa, không phải của rồng. Chẳng có gì phải xấu hổ khi bồi dưỡng cho chính mình. Mọi vật trên đời đều có chỗ của nó chứ. Kể cả một con thỏ cũng phải hiểu điều đó”.

‘Anh đâu định làm em cảm thấy mình có lỗi. Đây là một quyết định cá nhân. Anh không hề gây áp lực với bất kỳ ai”.

“Vậy là không đấy”. Saphi­ra nói mỉa.

Trứng tan tành - tổ tơi tả

- Er­agon, tập trung vào mà học chứ.

Nghe sư phụ sẵng giọng, Er­agon chớp mắt cố tập trung vào những hàng chữ cổ:

- Con xin lỗi.

Nhưng một nỗi lo lắng như trói chặt chân tay nó. Nhìn những con chữ ngoằn nghèo, Er­agon cố nâng bút lông bắt đầu viết.

Qua khung cửa sổ sau lưng Oromis, mặt trời đang lặn, vạch những bóng đen lên màu xanh trên đỉnh vực Tel’naéir. Xa xa, những dải mây nhẹ nhàng trôi trên bầu trời.

Một cơn nhói đau từ chân dội lên, làm tay Er­agon giật mạnh, mực từ đầu bút lông văng khắp mặt giấy. Bên kia bàn, sư phụ nó cũng giật mình, nắm vội cánh tay phải.

- Saphi­ra!

Er­agon bật kêu lên. Nó bỗng hốt hoảng vì không thể liên lạc đựơc với Saphi­ra. Cô em rồng đã tạo rào cản chung quanh. Er­agon cảm thấy như đang cố nắm bắt một quả cầu bằng đá phủ đầy dầu mỡ. Nó nhìn sư phụ:

- Có chuyện gì xảy ra rồi, phải không ạ?

- Ta không rõ. Glae­dr đang trở về, nhưng nó không chịu nói gì với ta cả.

Với tay lấy thanh kiếm Naegling trên tường, ông bước vội ra ngoài, đứng bên bờ vực, ngẩng cao đầu ngóng đợi rồng vàng.

Đứng bên ông, Er­agon lo lắng nghĩ về tất cả những gì có thể xảy ra cho Saphi­ra.

Trưa nay, hai con rồng đã cùng bay về hướng bắc, tới một nơi có tên là Trụ đá trứng vỡ. Ngày xưa, nơi đây từng là hang ổ của những con rồng hoang dại.Er­agon thầm nhủ: “Đường tới đó có gì nguy hiểm đâu? Chắc chắn không có Ur­gal, thần tiên cũng chẳng đến đó làm gì”.

Sau cùng, Glae­dr xuất hiện trên bầu trời mây xám. Khi rồng vàng hạ cánh, Er­agon thấy trên lưng chân trước – bên phải - của Glae­dr có một vết thương lớn bằng bàn tay, máu đỏ thấm ướt lớp vảy chung quanh.

Oromis bước lại gần, nhưng nghe tiếng rồng vàng gầm gừ, ông ngừng lại, kiên nhẫn đứng chờ. Glae­dr tập tễnh bước lại bìa rừng, cuộn mình dưới tán cây. Quay lưng lại Er­agon, rồng vàng bắt đầu liếm vết thương.

Oromis lại gần hơn, nhưng vẫn giữ một khoảng cách, quỳ gối chờ đợi. Er­agon bồn chồn với từng giây phút trôi qua. Cuối cùng Glae­dr cũng để cho Oromis tiến lại, quan sát vết thương trên chân. Dấy hiệu ged­wey ig­na­sia trên bàn tay sáng lên màu bạc khi ông đặt vào vết rách trên da Glae­dr.

Thấy sư phụ vừa rụt tay về, Er­agon hỏi ngay:

- Nặng không, thưa thầy?

- Trông đáng sợ vậy thôi, nhưng với thân hình to lớn của Glae­dr thì chỉ như một vết trầy.

- Còn Saphi­ra? Con vẫn không thể liên lạc được với nó.

- Con phải tới chỗ nó ngay. Nó bị thương. Glae­dr không nói nhliều về chuyện gì đã xảy ra, nhưng thầy đoán là nghiêm trọng đó. Con mau đi thooi.

Er­agon nhìn quanh, rên lên khổ sở vì không biết sẽ đi bằng phương tiện gì đây.

- Đường xa, không có lối mòn, làm sao con tới đó được?

- Bình tĩnh, Er­agon. Con vật nào đã đưa con từ Sílthrim tới đây?

Phải mất một lúc Er­agon mới nhớ ra:

- Folkvír.

- Vậy hãy dùng phép thuật mà gọi nó. Kêu đúng tên nó và cho nó biết con cần gì.

Vận dụng phép thuật vào giọng nói, Er­agon gào lên, gửi lời năn nỉ của nó vang vọng qua núi rừng, tới tận Ellesméra

Oromis gật gù, khen ngợi:

- Khá lắm.

Mười hai phút sau, Folkvír xuất hiện từ bóng tối giữa rừng cây như một bóng ma màu bạc. Er­agon vắt một chân lên lưng con “tuấn mã” nhỏ bé của thần tiên, nói vội với sư phụ:

- Con sẽ cố về ngay.

- Cứ lo việc của con đi

Thúc chân vào hai bên sườn Folkvír, Er­agon la lớn:

- Chạy, chạy mau Folkvír.

Folkvír phóng vọt lên, khéo léo vù vù vượt qua những cành thông rậm rạp. Với những hình ảnh trong trí, Er­agon hướng dẫn nó tới chỗ Saphi­ra.

Xuyên rừng già, không đường mòn như thế này, một con ngựa chiến cỡ Hoả Tuyết phải mất hai ba giờ mới tới được Trụ đá trứng vỡ, nhưng Folkvír chỉ phóng mất hơn một giờ.

Tới chân khối đá dựng đứng, vượt cao khỏi cây rừng cả trăm mét, như một cột trụ bằng đá vân xanh, Er­agon lên tiếng: “Ngưng lại.

Bước xuống đất, Er­agon nhìn lên đỉnh khối đá cao vòi vọi. Saphi­ra đang ở trên đó.

Nó bước quanh, tìm đường nhưng vô vọng. Không một kẽ hở, không mọt cái hốc gần mặt đất để có thể bám vào, leo lên.

Er­agon dặn dò Folkvír: “Ở lại đây. Nếu thích thì gặm cỏ, nhưng đừng đi đâu. Được chứ?”.

Con vật nhìn lại Er­agon với đôi mắt thông minh, hiểu biết: “Được. Khá lắm, chàng trai

Chăm chsu nhìn lên đỉnh khối đá, Er­agon vận nội công, nói bằng cổ ngữ.

- Lên!

Sau đó Er­agon mới nhận ra, nếu không quen bay cùng Saphi­ra, nó đã không thể kiểm soát nổi thần chú và đã lộn cổ xuống chết rồi. Mặt đất vù vù trôi ngược dưới chân, cây cối đan ken vào nhau khi bay vút lên bầu trời chiều trên đầu. Cành cây như những ngón tay vươn ra vồ chụp mặt và hai vai nó. Không như những lần nhào lộn cùng Saphi­ra, Er­agon phải giữ ý thức về trọng lượng, như vẫn đang đứng trên mặt đất dưới kia.

Lên khỏi đỉnh Trụ đá trứng vỡ, Er­agon từ từ hạ xuống một mắt phẳng phủ rêu. Lún mình dưới lớp rêu, nó mệt nhoài chờ đợi phản ứng của vết thương trên lưng vì sự ráng sức vừa qua, rồi thở dài nhẹ lòng khi không cảm thấy đau đớn gì.

Trên đỉnh cao này, những tháp canh mấp mô tách khỏi nhau bởi những đường nứt toang hoác, lưa thưa hoa dại mọc. Trên vách loáng thoáng hang hốc tối tăm, có cái tự nhiên có cái do những móng vuốt to dùng đào bới. Nền hang phủ đầy những lớp xương chồng chất, tàn tích của những con rồng bị giết từ thuở xa xưa. Chim chóc làm tổ nơi đã có lần là chỗ cư trú của loài rồng. Những con chim ưng, diều hâu, dại bàng hau háu nhìn Er­agon, sẵn sáng tấn công để bảo vệ ổ trứng.

Er­agon thận trọng lách mình qua vùng cấm địa bầy chim hung dữ, khép hai cánh tay, để không làm rớt một viên đá nhỏ; cũng không dám đi quá gần mé vực. Nếu chỉ sơ sẩy, nó sẽ rơi tõm xuống khoảng không thăm thẳm. Nhiều lần phải bò qua triền dốc cao, nhiều lần phải bay bổng lên bằng phép thuật, Er­agon thấy bằng chứng cư dân loài rồng rải rác khắp nơi: từ những vết cào sâu hoắm tới những đống đá bị nung đến rã rời; những chiếc vảy xỉn màu cong queo lẫn trong đống xương vụn. Thậm chí Er­agon còn đạp lên một vật sắc bén, khi nhặt lên quan sát, mới phát hiện ra đó là một mảnh vỏ trứng rồng màu xanh.

Pháo đài cao nhất nằm chính giữa, quay về hướng đông là hang động to rộng nhất. Và chính tại dây, Er­agon đứng nhìn Saphi­ra nằm co quắp trong một hốc vách, mặt hướng ra cửa hang. Các vách hang đầy những vết cháy sém còn mới, từng đống xương vụn tung toé khắp nơi, như mới có một cuộc chiến tại đây.

- Saphi­ra.

Er­agon lớn tiếng gọi vì con rồng cái vẫn khép kín tâm tưởng. Nó ngẩng đầu nhìn Er­agon như nhìn một người xa lạ. Hai con ngươi cô ả mảnh như hai kẽ hở màu đen vì chói ánh mặt trời đang lặn sau lăng Er­agon. Gầm gừ như một con chó hoang, ả nâng cánh, trở mình qua hướng khác, để lộ một vết cắt dài và sâu trên đùi. Tim Er­agon thót lại.

Biết Saphi­ra không để nó lại gần, Er­agon bắt chước cách sư phụ cư xử với rồng vàng. Nó quỳ gối giữa đống xương vụn, chờ đợi.

Er­agon qùy như vậy cho đến khi chân tê dại và hai tay cóng lại vì giá lạnh. Không thốt một lời hay có một cử chỉ nôn nóng, bực bội, vì nó vui lòng làm tất cả nếu có thể cứu được Saphi­ra.

Mãi sau, Saphi­ra mới truyền ý tưởng cho Er­agon: “Em là một con ngốc.

“Đôi khi tất cả chúng ta đều tỏ ra ngốc nghếch”.

“Nhưng khi biết mình ngốc, thật chẳng dễ chịu chút nào”.

“Anh cũng đoán vậy”.

“Em luôn biết mình phải làm gì. Khi cậu Gar­row mất, em biết việc truy lùng Ra’zac là đúng. Khi ông Brom chết, em biết chúng ta nên tới Gil’ead, để từ đó đến với Var­den. Và khi thủ lãnh Aji­had tử trận, em biết anh cần phải tuyên thệ cùng Na­sua­da. Em nhìn mọi chuyện một cách sáng suốt, nhưng lần này…chỉ riêng lần này, em đã lạc đường”.

“Chuyện gì vậy, Saphi­ra ?”

Thay vì trả lời, Saphi­ra đổi đề tài, hỏi: “Anh có biết vì sao nơi này được gọi là Trụ đá trứng vỡ không?”

“Không”.

“Vì trong chiến tranh giữa rồng và thần tiên, thần tiên đã lần theo dấu vết rồng tới đây, mở cuộc tàn sát trong khi rồng say ngủ. Họ phá huỷ hang ổ và trứng rồng tan nát thành từng mảnh bằng phép thuật. Ngày hôm đó, máu đổ như mưa xuống những khu rừng dưới kia. từ đó không còn một con rồng nào sống tại nơi này nữa”.

Er­agon im lặng. Lúc này, đó không phải là điều nó quan tâm. Nó chờ đợi Saphi­ra cho biết tình trạng của cô ả hiện giờ. Nhưng Saphi­ra lại chỉ bảo: “Anh nói gì đi chứ”.

“Để anh chữa vết thương cho em nhé”.

“Không cần đâu”.

“Vậy thì anh sẽ im lìm như tượng cho đến khi rã thành cát bụi, vì từ em, anh cũng có sự kiên nhẫn của loài rồng”.

Giọng Saphi­ra cay đắng, tự mỉa mai mình: “Em thật xấu hổ khi phải thú thật điều này: lần đầu tiên thấy Glae­dr, em đã vui mừng biết bao, vì ngoài Shruikan, dòng giốgn em vẫn còn một con rồng nữa. Trước kia em chưa từng thấy một con rồng nào khác, chỉ toàn từ những chuyện kể của ông Brom. Rồi em tưởng…em tưởng Glae­dr cũng vui mừng vì sự tồn tại của em, như em mừng vì thấy anh ta”.

“Nhưng…Glae­dr cũng vui mừng mà”.

“Anh không hiểu đâu. Em ngỡ anh ta sẽ kết bạn cùng em, để cùng nhau gầy dựng lại giống nòi…”

Một ngọn lửa sáng rực ào ra từ mũi Saphi­ra khi nó hậm hực tiếp: “Em lầm. Anh ta không ưa em”.

Er­agon lựa lời an ủi: “Có thể vì Glae­dr biết duyên số em đã gắn bó với một kẻ khác; có thể là một trong hai trứng còn lại. Vả lại, Glae­dr cũng không thể kết đôi bạn với em một khih đã là sư phụ của em”.

“Hoặc chỉ vì anh ta thấy em không đẹp”.

“Saphi­ra, không con rồng nào xấu xí cả. Em là một cô rồng xinh đẹp nhất”.

“Em là một cô rồng ngu ngốc nhất thì cố”.

Tuy nói vậy, nhưng cô ả nâng cánh, cho phép Er­agon chăm sóc vết thương.

Er­agon lê đôi chân tê dại đến bên Saphi­ra. Nhìn vết thương đỏ au, nó mừng vì đã được đọc nhiều tài liệu về giải phẫu học của sư phụ.

Cú đánh – không biết bằng răng hay móng vuốt – xé toạc cơ đùi dưới lớp da, nhưng chưa đến nỗi để lộ xương ra ngoài. Khép bề mặt vết thương như Er­agon đã nhiều lần làm trước đây không đủ, mà phải khâu thịt liền lại với nhau.

Những câu thần chú Er­agon sử dụng dài dòng và phức tạp, thậm chí nó không thông hiểu hết, vì nó chỉ nhớ lại phần hướng dẫn bằng cổ ngữ: “Bùa chú này chỉ làm lành những vết thương nhẹ, xương không bị gãy, nội tạng còn nguyên”. Mấy câu thần chú vừa thốt lên, Er­agon sững sờ khi bắp thịt Saphi­ra chuyển động dưới bàn tay nó: mạch máu, dây thần kinh, thớ thịt kết nối vào nahu, rồi nguyên lành như cũ. Nhưng vì vết thương hơi lớn, và trong tình trạng sác khoẻ lúc này, Er­agon không dám dốc toàn nội lực, nó dựa thêm vào sức của Saphi­ra.

Khi Er­agon hoàn tất, cô em rồng lên tiếng: “Ngứa quá”.

Dựa lưng vào vách đá lởm chởm, Er­agon thở dài nhìn cảnh hoàng hôn bên ngoài: “Anh mệt tới không còn cử động nổi. Chắc em phải cõng anh xuống khỏi trụ đá này”.

Saphi­ra cựa mình, đặt đầu lên đống xương, nhỏ nhẹ: “Từ khi tới Ellesméra, em đã cư xử không phải với anh. Đáng lẽ lắng nghe, em đã làm ngơ những gì anh khuyên nhủ. Chính anh đã cảnh giác em về chuyện Glae­dr, nhưng em kiêu ngại tới nỗi không nhận ra sự thật trong những lời nói của anh. Em đã làm anh thất vọng, không xứng dáng là một con rồng, và đã làm ô danh kỵ sĩ của anh”.

“Không đâu, Saphi­ra. Em chưa bao giờ làm anh thất vọng trong bổn phận. Có thể em đã phạm sai lầm, nhưng là một sai lầm chân thật, một sai lầm mà ai cũng có thể phạm phải, nếu đứng vào địa vị của em”.

“Điều đó cũng chẳng thể bào chữa cho thái độ của em đã đối với anh”.

Er­agon cố nhìn vào mắt nó, nhưng Saphi­ra nhìn đi chỗ khác cho đến khi Er­agon vuốt cổ cô em rồng, ân cần nói: “Saphi­ra này, thành viên trong một gia đình luôn phải tha thứ cho nhau, kể cả khi không hiểu nguyên nhân hành động của nhau…Cũng như anh Ro­ran, em là gia đình anh. Không điều gì em làm có thể đổi thay được điều đó”.

Saphi­ra vẫn nín thinh. Er­agon ngoáy tai cô ả: “Ê, nghe anh nói gì không?”

Ả húng hắng ho, gượng vui: “Mặt mũi nào em gặp lại Glae­dr đây? Anh ta giận như điên…Trụ đá khổng lồ này còn phát run lên đừng nói gì em”.

“Dù sao, em chỉ cần xin lỗi Glae­dr là êm chuyện.”

“Xin lỗi?”

“Ờ, thì đến gặp và bảo là em rất tiếc, là em mong được tiếp tục khoá huấn luyện, và là…chuyện kia sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Làm xong điều đó em sẽ thấy thoải mái hơn nhiều. Anh có kinh nghiệm rồi mà”.

Er­agon cười cười nhắc khéo vụ Saphi­ra khuyên nó xin lỗi Arya.

Cô ả ậm ừ, tiến ra cửa hang, nhìn xuống rừng già bên dưới: “về thôi, sắp tối rồi”.

Nghiến răng, Er­agon phải ráng hai lần mới leo lên được cổ rồng.

“Er­agon, cám ơn anh đã tới. Em biết, với cái lưng đau đó, anh đã phải liều mình lắm mới lên được tới đây”.

Er­agon vỗ vỗ lên vai Saphi­ra: “Chúng ta lại là một chứ?”

“Chúng ta là một”.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play