Ro­ran quỳ một gối, gãi gãi chòm râu mới mọc, nhìn xuống Nar­da.

Thị trấn nhỏ bé và chật chội, trông như những mảnh vụn bánh mì nhồi nhét trong một khe nứt dọc theo bờ biển. Qua khỏi thị trấn, biển đỏ như rượu nho lấp lánh dưới những tia nắng của mặt trời chiều. Ro­ran mê mẩn nhìn mặt nước mênh mông, hoàn toàn khác hẳn với những gì nó thường nhìn thấy.

“Cuối cùng chúng ta cũng đã tới được nơi này.” Ro­ran thầm nhủ.

Rời mỏm đá, nó trở về lều, khoan khoái hít thật sâu làn không khí mặn nồng của biển.

Dân làng cắm trại dưới chân núi Spine, tránh sự phát hiện của bất kỳ kẻ nào có thể tố giác với triều đình.

Qua những nhóm ngồi quây quần dưới tán cây, Ro­ran nhìn tình cảnh họ, vừa xót xa vừa căm phẫn. Hành trình cam go từ thung lũng Palan­car đã làm nhêìu người ốm đau, kiệt sức; mặt mày họ vêu vao vì thiếu ăn; quần áo tả tơi. Hầu hết mọi người đều quấn giẻ hai bàn tay để tránh sương muối lạnh ngắt về đêm trên núi. Những tuần lễ mang vác nặng nề làm đôi vai kiêu hãnh của họ cong oằn xuống. Nhưng tội nghiệp nhất là đám trẻ con: gầy guộc, ngơ ngác…

Ro­ran nghĩ: “Họ xứng đáng được hưởng tình trạng hơn thế này nhiều, vì nếu không có họ che chở thì giờ đây mình đã nằm trong tay hai tên Ra’zac rồi”.

Nhiều người tiến lại gần Ro­ran, hầu hết chỉ để vỗ vai anh hoặc để nói vài câu khích lệ. Có người mời anh một miếng đồ ăn. Không thể từ chối nổi, anh đành nhận, để rồi lại đem cho người khác. Có những người chỉ đứng xa tròn mắt nhìn Ro­ran với đôi mắt nhợt nhạt. Anh biết họ đã nói gì về mình: Anh là một gã điên, anh bị quỷ thần ám và rằng kể cả Ra’zac cũng đã không thể nào hạ nổi anh.

Xuyên qua núi Spine cam go hơn Ro­ran tưởng. Đoàn người đống đúc phải len lỏi qua những lối mòn trong rừng chi chít như bàn cờ, chật hẹp, trơn dốc và khúc khuỷu. Dân làng phải chặt cây, phát bụi. Một công việc vừa vất vả vừa phải vô cùng thận trọng để không lưu lại dấu vết cho quân triều đình có thể lần theo. Tuy nhiên, nhờ vậy sức khoẻ của Ro­ran dần hồi phục, dù trong một vài động tác vết thương trên vai vẫn còn hơi nhói đau.

Một tai hoạ ập đến làm đoàn người thêm tổn thất: mưa giông thình lình kéo đến khi họ đang cố vượt qua một ngọn đồi trọc. Ba người chết cóng trong tuyết, đó là Hi­da, Bren­na và Nes­bit, toàn người già yếu. Đêm đó, lần đầu tiên Ro­ran nhận thức một điều: toàn thể dân làng có thể bỏ mạng vì đã theo anh.

Sau đó là vụ một đứa bé trai ngã gãy tay, rồi South­well chết đuối trên dòng suối đóng băng. Gấu và chó sói giết hại gia súc bất chấp những bếp lửa canh gác mà dân làng đã nhóm ngay sau khi khuất khỏi tầm nhìn từ Palan­car và đám lính triều đình. Lại thêm cái đói bám lấy đoàn người như loài ký sinh gặm nhấm bụng mọi người, ngấu nghiến sức lực của họ, làm cạn kiệt ý chí tiếp tục lên đường.

Vậy mà họ vẫn dai dẳng sống; ngoan cường, dũng cảm y như tổ tiên họ từng sống trong thung lũng Palan­car: bất chấp nạn đói, chiến tranh và dịch bệnh. Dân làng Car­va­hall có thể chần chừ suốt một thời gi­an dài dằng dặc mới đi đến quyết định, nhưng một khi họ đã quyết tâm, không gì có thể cản ngăn họ đi tới cùng.

Bây giờ đã tới sát Nar­da, một tinh thần hồ hởi tràn trề hy vọng toả khắp trại. Không ai biết rồi đây chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng sự thật hiển nhiên là họ đã vượt qua được đoạn đường quá xa, làm tất cả đều tin tưởng.

Ro­ran thầm nhủ: “Chưa ra khỏi đế quốc này, vẫn chưa được an toàn. Chính mình phải đảm bảo làm sao cho dân làng không bị bắt. Mình có trách nhiệm với tất cả mọi người ở đây…”.

Đó là một trách nhiệm Ro­ran nhiệt tình nhận lãnh với tất cả con tim, vì trách nhiệm đó vừa là bảo vệ dân làng khỏi bàn tay tàn bạo của Gal­ba­torix, vừa theo đuổi mục đích giải thoát Ka­tri­na.

“Nàng bị bắt quá lâu rồi, liệu còn sống sót không?” Ro­ran rùng mình cố xua đuổi ý nghĩ đó ra khỏi tâm trí. Nếu cứ ngẫm nghĩ mãi đến thân phận của Ka­tri­na, chắc chắn anh sẽ hoá điên lên mất.

Chạng vạng sáng, Ro­ran cùng chú Horst, Bal­dor, bà lang Gertrude và ba người con trai của ông Lor­ing lên đường vào Nar­da. Họ xuống núi, lẩn lút dọc lối mòn trước khi ra đường cái. Dưới vùng thấp này, Ro­ran cảm thấy không khí đặc quánh, hơi thở khó khăn như đang chìm trong nước.

Ro­ran nắm chặt cán búa dắt trong thắt lưng khi tiến tới cổng thị trấnh Nar­da.

Hai tên lính gác mặt mày khó đăm đăm, trợn mắt ngắm nghía nhóm người quần áo tả tơi của Ro­ran, rồi cầm ngang cây rìu, chặn lối vào. Gã đứng bên phải chỉ chừng hơn hai mươi tuổi, nhưng đầu tóc đã bạc trắng, lên tiếng hỏi:

- Từ đầu tới?

Chú Horst khoanh tay, ưỡn ngực trả lời:

- Loanh quanh trong thành Teirm ấy mà.

- Đến đây làm gì?

- Mua bán. Mấy ông chủ sai tụi này đi mua hàng trực tiếp tại Nar­da, thay vì cứ phải mua qua tay đám con buôn.

- Vậy sao? Hàng gì?

Chú Horst còn đang ngập ngừng, bà lang Gertrude nói ngay:

- Phần tôi thì mua thảo dược và mấy cây thuốc. Cây thuốc từ đây mang đến chỗ chúng tôi toàn là thứ cằn cỗi, thối mốc không à. Vì vậy mới phải lặn lội đến tận đây để tìm hàng tốt.

Dar­mmen tiếp:

- Còn anh em mình tới Nar­da để thương lượng với đám thợ đóng giày. Giày miền bắc đang là thời trang ở Dras-​Leona và Uru’baen mà…

Hắn nhăn nhó nói thêm:

- Nhưng là phải do chúng tôi đặt theo mẫu mã kìa.

Chú Horst gật đầu, tự tin trở lại:

- Tớ thì tìm phương tiện vận chuyển hàng sắt thép cho lò rèn của ông chủ.

Tên lính chỉ cây rìu bên sườn Ro­ran:

- Còn thằng này?

Ro­ran bảo:

- Đồ gốm.

- Đồ gốm?

- Thì đã nói rồi đó, đồ gốm.

- Xách búa theo làm gì?

- Thế…anh tưởng lớp men phủ tự nứt ra à? Phải gõ chứ.

Ro­ran nhìn đôi mắt nghi ngờ của gã đầu bạc, như thách hắn trả lời. Tên lính ậm ừ liếc cả bọn rồi nói:

- Trông các người chẳng giống dân buôn bán chút xíu nào, cứ như lũ mèo đói vậy.

Bà lang gật đầu:

- Phải đấy. Tụi này khốn khổ suốt dọc đường mà.

- Từ Teirm tới đây? Ngựa đâu?

- Để lại nơi tụi này cắm trại

Vừa nói Hu­mund vừa chỉ về hướng nam, ngược chiều với nơi dân làng đang trú ẩn.

- Không có xu nào để trọ trong thị trấn chứ gì…

Tên lính lèm bèm, rồi ra hiệu cho gã kia dựng thẳng cây rìu, mở lối cho mọi người:

- Thôi được, qua đi. Khôn hồn, đừng lộn xộn, ấm ớ là bị gô cổ lại, đừng trách.

Vừa qua khỏi cổng, chú Horst kéo Ro­ran vào lề đường, ghé tai cằn nhằn:

- Sao cháu ngốc vậy. Buôn đồ gốm mà lại gõ cho nứt men là cái gì? Muốn đánh nhau với tụi nó sao? Chúng ta không thể…

Bà lang bỗng thì thầm:

- Trông kìa

Bên trái lối vào, một tấm bảng dựng đứng với mái gỗ chem một miếng giấy vàng. Nửa bảng là thông tin cáo thị hành chính; nửa còn lại treo những bức vẽ chân dung đủ loại tội phạm. Trang trọng ngay chính giữa là bức hoạ Ro­ran không có râu.

Giật mình, Ro­ran vội nhìn quanh để biết chắc không có người lạ đứng gần, so sánh anh và bức hoạ, rồi mới chăm chú nhìn lên bảng. Dù vẫn chờ đợi ngày bị quân triều đình truy đuổi, nhưng nhìn chứng cứ này, anh không khỏi bàng hoàng. “Chắc chắn bạo chúa đã tung tin khắp nơi để lùng bắt dân làng và mình. Giờ đây hình ảnh mình chắc được dán khắp nước rồi”.

Ro­ran tủm tỉm cười, mừng vì đã không cạo râu và đã đồng ý cùng mọi người dùng tên giả khi ở Nar­da.

Giá trị tiền thưởng in ngay dưới bức hoạ. Gar­row chưa bao giờ dạy Ro­ran và Er­agon đọc và viết, nhưng ông đã dạy hai anh em làm toán. Vì như ông nói: “Các con phải biết giá cả món hàng mình có và biết số tiền mình bán được là bao nhiêu, như vậy mới không bị những kẻ bất lương lừa gạt.” Vì vậy, Ro­ran mới biết tiền thưởng là mười ngàn crow, đủ sống thoải mái mấy chục năm trời. Một cách ương bướng, số tiền thưởng lại làm anh cảm thấy vui vui, vì bỗng nhiêu Ro­ran trở thành một nhân vật quan trọng đến thế.

Ro­ran liếc sang tấm hoạ kế bên.

Đó chính là Er­agon!

Ro­ran tự hỏi. Rồi qua cơn sững sờ, mối căm thù cũ về vai trò của thằng em họ gây ra cảnh cha chết, nhà tan cửa nát lại ngùn ngụt trong anh, cùng mối khát khao bỏng cháy muốn biết: vì sao triều đình lại săn lùng Er­agon. “Chắc chắn phải có mối quan hệ giữa hòn đá xanh và việc tụi Ra’zac lần đầu tiên tới làng Car­va­hall”.

Một lần nữa Ro­ran lại tự hỏi, anh và dân làng đang vướng mắc vào mưu ma chước quỷ gì đây?

Thay vì con số tiền thưởng, dưới bức họa của Er­agon lại là hai dòng chữ cổ. Ro­ran hỏi bà lang Gertrude:

- Nó bị tội gì vậy?

Những vết nhăn quanh mắt hằn sâu khi bà nhíu mày chăm chú đọc:

- Tội phản quốc. Cả hai anh em cháu. Thông cáo đó nói: Gal­ba­torix sẽ ban thưởng tước hầu, tước bá cho ai bắt được Er­agon, nhưng cũng cảnh giác kẻ nào làm việc đó phải thận trọng vì Er­agon là một tội phạm vô cùng nguy hiểm.

Ro­ran chớp mắt ngỡ ngàng. Thằng nhóc Er­agon? Vô cùng nguy hiểm ư? Dường như Ro­ran không thể nào tin nổi cho đến khi anh tự xét lại chính mình. “Mấy tuần vừa qua mình đã thay đổi đến thế nào. Trong huyết quản hai anh em chảy cùng dòng máu. Làm sao biết được, có lẽ từ ngày bỏ nhà ra đi Er­agon còn làm nhiều việc động trời hơn cả mình”.

Bal­dor thấp giọng:

- Này, tội giết lính của vua và chống đối lại Ra’zac chỉ treo thưởng mười ngàn; tội gì mà treo thưởng cả một cái ghế quan to thế nhỉ?

- Đủ rồi. Giữ mồm giữ miệng một chút, Bal­dor. Còn Ro­ran, đừng làm mọi người chú ý đến cháu nữa. Với số tiền thưởng đó, người ta sẽ xúm vào mà dòm ngó từng khách lạ để so sánh với bức hoạ. Nào, bây giờ chúng ta đều có việc phải làm. Trở lại đây vào buổi trưa, báo cáo diễn tiến thế nào.

Tất cả chia làm ba nhóm. Ba anh em Dar­mmen, Larne và Hu­mund cùng nhau đi mua lương thực cho dân làng. Bà Gertrude đi tìm mua thảo dược, thuốc nước và thuốc mỡ. Chú Horst, Ro­ran và Bal­dor tiến qua con đường dốc để đến cảng, hy vọng sẽ thuê được một con tàu chuyên chở dân làng tới Sur­da, hay ít ra cũng tới được thành phố Teirm.

Khi tới con đường lát ván trên bãi biển, Ro­ran ngừng lại lom khom nhìn đại dương bao la. Mặt nước xám ngoét dưới bầu trời mây nặng nề xuống thấp. Anh không bao giờ tưởng tượng chân trời lại phẳng phiu đến thế. Tiếng nước vỗ ì ầm vào những cây trụ dưới chân, làm anh cảm thấy như mình đang đứng trên mặt một cái trống khổng lồ. Mùi cá – tươi, ươn, thối rữa - lấn át tất cả những mùi vị khác.

Chú Horst nhìn Ro­ran rồi lại ngó Bal­dor - cả hai đều đang ngẩn ngơ trước biển.

- Đẹp quá, phải không?

Ro­ran gật đầu:

- Dạ.

- Trước cảnh tượng này, người ta cảm thấy mình thật nhỏ bé, đúng không?

Bal­dor cũng chỉ biết gật đầu. Chú Horst nói tiếp:

- Cha nhớ lần đầu tiên thấy biển, cha cũng có cảm giác giống như vậy.

Ngoài những con hải âu đang bay liệng trên vịnh, Ro­ran còn chú ý đến một loài chim khác thường đậu rải rác trên những bờ kè. Thân hình chúng xấu xí, vụng về với cái mỏ có sọc lặc lè trước ngực làm chúng giống như một lão già khó tính, tự cao tự đại. Một con bỗng vươn cổ, khoe cái túi da dài thòng lọng dưới mỏ.

Ro­ran hỏi chú Horst:

- Lần đầu tiên chú thấy biển là khi nào?

- Bar­tram – ông chủ lò rèn - chết năm chú mười lăm tuổi. Mà việc học nghề còn một năm nữa mới hoàn tất, chú phải đi tìm một chủ lò rèn khác sẵn lòng truyền nghề. Vậy là chú tới Ce­unon, một thành phố bên bờ biển bắc. Chsu đã gặp Kel­ton, một ông già khó tính cực kỳ, nhưng lại rất giỏi nghề. Ông ta đồng ý nhận chú…

Horst cười lớn:

- Ông ấy trái tính trái nết tới nỗi, học nghề xong chú không biết nên cám ơn hay…rủa cho ông một trận.

Bal­dor nói ngay:

- Cám ơn là cái chắc, vì nếu không cha đã không cưới được mẹ con.

Ro­ran lèm bèm khi quan sát bến cảng:

- Chỉ lèo tèo có mấy con tàu…

Hai tàu đánh cá neo cuối cảng, chiếc thứ ba đậu bên kia cảng giữa mấy chiếc thuyền câu bé tí teo. Cặp thuyền đậu về hướng nam, một chiếc với cánh buồm rách tả tơi. Dù không có kinh nghiệm đi biển, nhưng Ro­ran thấy không có thuyền nào đủ sức chuyên chở gần ba trăm dân làng.

Dò hỏi hết thuyền này tới thuyền khác, ba cha con chú cháu được biết các thuyền đều đã có người thuê bao. Chiếc có cánh buồm rách thì phải vài tháng nữa mới sửa chữa xong. Chiếc Wa­verun­ner, trang bị buồm da thì sửa soạn lên đường về phương bắc, tới những hòn đảo hắc ám, chuyên trồng cây dầu Sei­thr. Còn chiếc Al­ba­tross, chiếc cuối cùng, thì vừa từ Fe­in­ster xa xôi trở về, đang xảm trét lại để kịp chuyên chở hàng len.

Nghe chú Horst hỏi, một công nhân cảng hinh híc cười:

- Các ông đến vừa quá sớm lại vừa quá muộn. Vào mùa xuân như thế này, hầu hết tàu thuyền đến và đi ba tuần trước cả rồi. Một tháng nữa, gió mùa tây bắc bắt đầu mạnh, đám thợ săn hải cẩu trở về, thuyền bè từ Teirm và khắp nước mới đổ về đây mua da, thịt và đầu. Lúc đó các ông mới có thể thuê một thuyền trưởng và một chiếc tàu rảnh rỗi được.

Ro­ran gặng hỏi:

- Không còn cách nào chở hàng từ đây tới Teirm sao? Không cần phải đầy đủ phương tiện hay tốc độ cao đâu. Không cần phải đầy đủ phương tiện hay tốc độ cao đâu.

Ông ta chỉ tay về mấy lán trại bằng gỗ bồng bềnh trên mặt nước, tiếp:

- Hắn có mấy xà lan chở ngũ cốc vào mùa thu. Thời gi­an còn lại trong năm, hắn chỉ câu cá kiếm sống cũng như tất cả mọi người ở Nar­da. Nhưng…các ông chở hàng gì? Cừu thì đã cắt lông rồi, còn mùa gặt lại chưa tới…

Chú Horst ném cho lão một đồng tiền, ỡm ờ:

- À, tụi này chở…cái này cái kia ấy mà.

Lão bỏ tiền ngay vào túi, nháy mắt:

- Hiểu. Nhìn qua là biết liền. Nhưng đừng lo, lão Ul­ric này kín miệng như bưng. Hẹn gặp lại các ông.

Lão vừa huýt sáo vừa rảo bước quay đi.

Không tìm thấy Clo­vis trên cảng, sau khi hỏi thăm, ba người đi khoảng nửa giờ mới tới nhà hắn ở phía cuối thị trấn Nar­da. Clo­vis đang trồng mấy củ diên vĩ dọc lối đi trước nhà. Đó là một người đàn ông to béo, mà rám nắng, râu muối tiêu.

Phải mất thêm cả giờ nữa để thuyết phục - bất chấp thời tiết, họ rất muốn được thuê mấy xà-​lan của hắn mới làm Clo­vis đồng ý dẫn ba người tới lán gỗ. Hắn mở khoá, bên trong lán là ba chiếc xà-​lan giống nhau, với những cái tên: Mary­bell, Ede­line và Trăn đỏ.

Mỗi chiếc xà-​lan dài chừng 22-23 mét, rộng khoảng 6 mét và đều sơn màu đỏ. Các khoang chứa hàng bỏ ngỏ, nhưng có thể phủ bằng vải dầu. Một cột buồm dựng đứng chính giữa, với một cánh buồm hình vuông. Mấy ca-​bin nhỏ nằm trên sàn, phía cuối tàu (hay theo Clo­vis là…đuôi tàu).

Clo­vis bảo:

- Coi vậy chứ các ông đừng sợ chúng không chịu đựng nổi thời tiết xấu. Tuy nhiên phải cố tránh những cơn giông bão thật sự. Mấy chếc này không thiết kế để ra biển lớn, chỉ có thể di chuyển gần dất liền thôi. Tôi nói thật, thời gi­an này ra khơi là tệ nhất. Suốt tháng, chiều nào cũng có giông.

Ro­ran hỏi:

- Ông có đủ thuỷ thủ đoàn cho cả ba chiếc chứ?

- Cũng hơi rắc rối đấy. Để coi nào….Hầu hết người của tôi đã đi săn hải cẩu, vì ở đây chẳng còn việc gì làm. Tôi chỉ cần họ sau mùa gặt, nên họ muốn đi đâu thì đi…Chắc quý ông cũng hiểu…

Clo­vis vừa cười cười vừa nhìn hết Ro­ran tới Bal­dor, chẳng biết “quý ông” nào thật sự là người đứng ra thuê mướn xà lan của hắn.

Ro­ran bước dọc chiều dài chiếc Ede­line quan sát. Tuy cũ kỹ nhưng gỗ còn tốt và nước sơn còn mới. Anh hỏi Clo­vis:

- Nếu chúng tôi thay thế những người vắng mặt của ông, giá cả ba xà lan này tới Teirm là bao nhiêu?

- Cũng tuỳ. Thuỷ thủ được trả mười lăm xu một ngày, ăn thì thoải mái và…ngoài ra còn thêm tí ti rượu nữa. Tiền bạc tuỳ theo công việc chứ. Thường thì chúng tôi mướn bảo vệ đi theo, nhưng họ đã…

Họ cũng đã đi săn hải cẩu. Tôi hiểu. Chúng tôi sẽ cung cấp bảo vệ cho ông.

- Vậy thì…quá tốt. Tôi chỉ tính hai trăm đồng crown cộng với khoản bồi thường thiệt hại những hư hỏng nếu người của các ông gây ra. Phần tôi - vừa là chủ vừa là thuyền trưởng sẽ hưởng hai phần trăm trên lợi nhuận món hàng của các ông.

- Chuyến đi này chúng tôi không có lợi nhuận gì hết

Câu hỏi của Ro­ran có vẻ làm Clo­vis ngán ngẩm nhất. Hắn rờ cằm, lắp bắp mãi mới nói ra lời:

- Nếu vậy thì…phải thêm bốn trăm nữa là…trọn gói. Tôi…mạn phép hỏi, qúy ông vận chuyển thứ gì vậy?

“Mình làm hắn hoảng mất rồi”, nghĩ vậy, Ro­ran nói:

- Gia súc.

- Trừu, dê, bò hay ngựa?

- Đủ cả

- Chuyển tới Teirm làm gì?

- Chúng tôi có lý do riêng. Ông có định qua khỏi Teirm không?

- Ồ không đâu. Teirm là giới hạn cuối cùng. Xa hơn nữa, tôi mù tịt, không thuộc con nước. Vả lại tôi không muốn xa vợ con lâu.

- Bao giờ ông sẵn sàng lên đường?

- Có thể năm hoặc sáu hôm nữa. Không, không, phải một tuần nữa mới đi được, vì tôi có nhiều vịêc phải làm trước lúc lên đường.

- Tôi trả thêm mười đồng để khởi hành ngay ngày mai, được chứ?

- Tôi không…

- Mười hai.

- Ngày mốt đi. Tôi sẽ cố thu xếp.

Ro­ran gật đầu, không nhìn Clo­vis, nói:

- Cho tôi một phút bàn bạc với người của tôi được chứ?

- Vâng, xin ông tự nhiên. Tôi đi loanh quanh một chút chờ các ông bàn tính.

Chưa ra tới cửa lán, hắn quay lại hỏi:

- Xin lỗi, đầu óc tôi lú lẫn quá, tên ông là gì nhỉ?

- Tên tôi là Cây-​búa Dũng-​mãnh.

- Tên hay đấy. Thật mà.

Cánh cửa khép lại, cha con chú Horst xúm lại Ro­ran. Bal­dor hấp tấp nói:

- Chúng ta không thể mướn hắn được.

- Chúng ta không thể mướn hắn thì đúng hơn. Không có vàng để mua xà-​lan, không biết lái tàu, trong khi sinh mạng của mọi người tuỳ thuộc vào chuyện đó. Mướn xà-​lan vừa nhanh hơn vừa an toàn hơn.

Chú Horst bảo:

- Nhưng đắt quá.

Ro­ran gõ tay lên thành xà-​lan:

- Chúng ta đặt cọc hai trăm trước. Ngay khi tới Teirm, tôi đề nghị, chúng ta trộm xà-​lan, áp dụng những gì học hỏi được trên chuyến đi, hoặc vô hiệu hoá Clo­vis và người của hắn, cho tới khi chúng ta có thể chuồn qua một phương tiện khác. Bằng cách đó, chúng ta không phải trả thêm bốn trăm nữa.

- Làm một công việc đàng hoàng mà lại đi lừa người khác như vậy, không hợp với bản tính chú.

- Cháu cũng đâu muốn vậy. Nhưng chú thử nghĩ coi, còn cách nào khác nữa đâu?

- Đưa mọi người xuống xà-​lan bằng cách nào?

- Để họ đón Clo­vis dưới bãi, khuất tầm mắt nhìn từ Nar­da khoảng một dặm.

Chú Horst thở dài:

- Thôi được rồi, đành làm theo cách đó, nhưng chú vẫn cứ cảm thấy chua xót quá. Bal­dor, gọi Clo­vis vào đây, thu xếp cho xong.

******

Chiều hôm đó, dân làng tụ tập quanh đống lửa, nghe những gì đã diễn ra tại Nar­da. Ro­ran quỳ gối, đăm đăm nhìn ánh than hồng, lắng nghe bà lang Getrude và ba người con trai oong Lor­ing kể lại những chuyện họ thấy sau khi tách riêng nhóm. Vụ hình ảnh của Ro­ran và Er­agon làm mọi người rì rầm bàn tán.

Sau khi Dar­mmen dứt lời, chú Horst tóm tắt ngắn gọn về việc Nar­da đang khan hiếm tàu bè, việc người công nhân già giới thiệu Clo­vis và việc ngã giá với hắn ta. Nhưng ngay sau khi Horst vừa bật ra cầu “xà-​lan”, dân làng rầm rầm phản đối.

Lor­ing tiến ra trước đám đông, đưa cao hai tay:

- Xà-​lan? Chúng tôi không đời nào leo lên phương tiện ghê tởm đó đâu.

Nói xong ông nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất. Dân làng rào rào tán thành.

Delmin vội lên tiếng:

- Im lặng. Muốn chết cả đám hay sao mà la lối ầm lên như vậy? Tôi đồng ý với Lor­ing. Không thể chấp nhận đi bằng xà-​lan được. Vừa chậm chạp vừa rất dễ bị tấn công. Hơn nữa, nhồi nhét nhau lên xà-​lan trong chuyến đi chẳng biết bao lâu mới tới là không thể được. Horst, nên nhớ là Elain đang mang bầu sáu tháng, không thể để chị ấy và những người già cả, đau yếu phơi nắng trong suốt mấy tuần lễ.

Horst trả lời:

- Chúng ta có thể che nắp khoang bằng vải nhựa. Không thoải mái lắm, nhưng cũng tránh được mưa nắng phần nào.

Brig­it lên tiếng, tất cả ngừng cả bàn tán, nhường chỗ cho chị tiến đến trước đống lửa:

- Tôi lại quan tâm đến chuyện khác. Với hai trăm sẽ đưa Clo­vis và số tiền anh em Dar­mmen đã chi tiêu lương thực và vật dụng khác, chúng ta đâu còn bao nhiêu? Không như dân thành phố, tài sản của chúng ta không nằm trong vàng hay tiền mặt, mà là đất đai và gai súc. Đất không còn nữa, gia súc chỉ còn lại mấy con. Cho dù chúng ta trở thành hải tặc, cướp mấy chiếc xà-​lan kia, lấy gì mua lương thực tại Teirm để tiếp tục lên đường đi xa hơn về miền nam?

Horst sôi nổi nói:

- Điều quan trọng là hãy tới Teirm trước đã, sau đó hãy lo chuyện khác. Phải chọn lựa phương án nghiêm trọng nhất chứ.

Bộ mặt gầy gò của Lor­ing nhăn nhúm lại:

- Nghiêm trọng? Anh nghĩ thế nào mới là nghiêm trọng. Toàn thể cuộc phiêu lưu này không đủ là nghiêm trọng sao? Thây kệ anh nói gì thì nói, tôi nhất định không leo lên mấy cái xà-​lan chết tiệt đó. Khốn khổ vượt qua được Spine để leo lên xà-​lan à. Xà-​lan chỉ dành cho ngũ cốc và trâu bò thôi. Điều chúng tôi mong muốn là một con tàu có phòng ốc, có giường tầng để được ngủ nghỉ cho thoải mái. Sao không đợi thêm ít tuần nữa, có thể có tàu cặp bến để chúng ta thuê? Tại sao không….

Lão tiếp tục suốt mười lăm phút, đưa ra cả trăm lý do để phản đối, trước khi để cho Thane và Ri­dley lên tiếng bàn cãi.

Sau đó, khi mọi tranh luận tạm lắng xuống, Ro­ran duỗi thẳng chân đứng dậy. Tất cả dân làng nín lặng chờ đợi, hy vọng anh đưa ra những lời lẽ sâu sắc khác. Nhưng Ro­ran chỉ buông mấy câu gọn lỏn:

- Xà-​lan hoặc cuốc bộ. Tùy ý…

Rồi anh quay vào lều ngủ.

Búa lại vung lên

Trăng lên cao khi Ro­ran rời lều ngủ chung cùng Bal­dor, ra thay phiên gác cho Al­briech.

- Yên tĩnh, không có gì.

Al­briech thì thầm rồi quay vào. Ro­ran mắc dây nỏ, cắm ba mũi tên lông ngỗng xuống mặt đất, cuốn mền, ngồi dựa lưng vào tảng đá. Vị thế này cho anh một tầm nhìn khá tốt xuống dưới và qua những núi đồi chìm trong bóng tối.

Theo thói quen, Ro­ran chia khung cảnh làm bốn phần, quan sát kỹ lưỡng từng phần, luôn cảnh giác từng dấu hiệu chuyển động hay một đốm sáng khả nghi, để kịp phát hiện nếu kẻ thù đang tiến tới. Nhưng chỉ được một lúc, tâm trí Ro­ran lại vẩn vơ từ chuyện này sang chuyện khác với những giấc mơ chập chờn. Anh cắn hai má trong để tập trung vào nhiệm vụ canh phòng. Thời tiết êm dịu thế này, thật khó mà tỉnh táo nổi. Nhưng anh cũng mừng vì tránh được ca gác trước rạng đông, vì sau đó rất khó ngủ lại, sẽ bải hoải suốt cả ngày.

Một cơn gió bỗng thoảng qua làm hai tai anh nhột nhạt và da cổ nổi gai ốc, như báo hiệu một điềm chẳng lành. Cảm giác đó làm Ro­ran hốt hoảng, không còn nghĩ đến điều gì khác, ngoài chuyện tin chắc anh và toàn thể dân làng đang gặp nguy hiểm. Toàn thân chấn động như lên cơn sốt, cố kềm mình không đứng bật lên, bỏ chạy. Thậm chí phải ráng sức, Ro­ran mới nhổ được một mũi tên.

“MÌnh làm sao thế này”, Ro­ran tự hỏi.

Từ hướng đông, một bóng đen tách khỏi chân trời. Hình dạng vật đó như một khoảng không đen ngòm giữa các vì sao, bồng bềnh như một tấm mạng rách trôi qua bầu trời cho đến khi nó che phủ mặt trăng. Nhờ ánh trăng phía sau, Ro­ran có thể thấy những màng cánh trong mờ của một con vật Ra’zac từng cưỡi.

Con quái đen thui há mỏ, phát ra một tiếng rít lanh lảnh kéo dài. Ro­ran đau đớn nhăn mặt. Tiếng rít như đâm qua màng nhĩ, làm máu anh như đóng băng, nó làm bao niềm vui, hy vọng thoắt trở thành tuyệt vọng. Tiếng tru tréo đó làm cả khu rừng thức giấc. Chim muông dã thú hàng dặm chung quanh bật lên những tiếng rên rỉ đau đớn. Ro­ran lo lắng không biết bầy gia súc còn lại của dân làng sẽ sao đây.

Lẩn lút qua những gốc cây, Ro­ran trở lại nơi cắm trại, thì thầm với những người anh gặp:

- Tụi Ra’zac đó. Im lặng ở yên tại chỗ.

Toán gác khác cũng đang len lỏi giữa những người dân đang hoảng hốt căn dặn như Ro­ran.

Fisk cầm cây giáo, nhào ra từ trong lều, la lớn:

- Mình bị tấn công à?

Ro­ran xô gã thợ mộc, hai người cùng lăn đùng xuống đất làm vai anh đau nhói. Anh rít nho nhỏ vào tai hắn:

- Im. Razac đó.

Fisk đờ người, thì thào:

- Làm gì bây giờ?

- Giúp tôi làm bầy gia súc bớt hoảng đi.

Cả hai băng qua trại, tới bãi cỏ thả dê, trừu, lừa, ngựa. Các nông dân chủ bầy gia súc cũng đã thức dậy và đang vỗ về chúng.

Ro­ran mừng vì anh đã lo xa, cương quyết bắt họ thả gia súc rải rác ngoài rìa bãi cỏ, nơi cây cối rậm rạp có thể ngụy trang, che phủ chúng.

Vừa vỗ về một con trừu, Ro­ran vừa ngước nhìn bóng đen khủng khiếp vẫn còn đang che phủ mặt trăng như một con dơi khổng lồ.

Bóng đen bỗng bắt dầu di chuyển về hướng dân làng đang ẩn núp. Ro­ran khiếp đảm nghĩ: “Nếu con quái đó lại tru lên, chúng ta sẽ chết mất.”

Khi Ra’zac lượn vòng trên đầu, bầy gia súc im thin thít, nhưng một con lừa chợt lồng lộn hí vang. Không chút ngập ngừng, Ro­ran quỳ một gối, gắn tên, bắn mũi tên xuyên qua giữa mạng sườn con vật. Con lừa đổ vật xuống, không một tiếng kêu.

Nhưng đã quá muộn. Tiếng lừa hí đã làm Ra’zac chú ý. Quái vật quay đầu, chuyển hướng về phía bãi cỏ. Há hốc mỏ, mùi hôi thối thốc tới trước, rồi nó xòe móng từ từ hạ xuống…

“Giờ là lúc ta thử xem có diệt nổi cơn ác mộng này không”. Ro­ran thầm nhủ, trong khi đó bên anh, Fisk thu mình trong khóm cỏ, nâng cây giáo, sẵn sàng phóng tới khi nhắm đúng tầm.

Ro­ran vừa giương nỏ, bỗng tiếng huyên náo trong rừng làm anh dừng lại.

Bầy đoàn nai ào ạt phóng qua những bụi cỏ, bất chấp dân làng và gia dúc, chúng hoảng hốt tìm đường chạy trốn. Gần một phút bầy nai chen chúc vượt qua Ro­ran, móng vuốt cày nát mặt đất và những đôi mắt chúng rực sáng dưới ánh trăng. Chúng chạy sat bên, đến nỗi Ro­ran nghe rõ từng hơi thở hồng hộc của chúng.

Chắc chắn bầy nai đông đúc đã cứu dân làng, vì chỉ lượn thêm một vòng trên bãi cỏ, quái vật có cánh quay về phương nam, là là chìm xuống núi Spine, tan vào bóng tối.

Ro­ran và các bạn sững sờ tại chỗ, như mấy con thỏ bị săn đuổi, nơm nớp sợ sự Ra’zac bỏ đi chỉ là một mưu mẹo hòng lùa họ ra khoảng trống, hoặc hai con quái sinh đôi sẽ bất ngờ xuất hiện phía sauHọ chờ đợi suốt hai tiếng, căng thẳng lo âu, chỉ dám nhúc nhích khi kéo sợi dây nỏ.

Khi trăng sắp lặn, tiếng tru tréo lạnh xương của Ra’zac vọng từ xa xa tới… rồi không gi­an hoàn toàn tĩnh lặng.

Thức dậy vào buổi sáng hôm sau, Ro­ran thầm nhủ: “Chúng ta đã gặp may, nhưng không thể dựa vào may mắn để thoát chết lần sau được nữa.”

Sau sự xuất hiện của Ra’zac, dân làng không còn phản đối việc ra đi bằng xà-​lan nữa. Trái lại, họ nóng ruột muốn đi ngay thay vì phải đợi tới ngày mai. Ro­ran bảo:

- Tôi cũng rất muốn vậy, nhưng chúng ta còn nhiều việc phải làm.

Anh cùng chú Horst và một toán đàn ông knữa lội bộ vào tận Nar­da ăn sáng. Biết rằng đi cùng họ là rất liều lĩnh, nhưng nhiệm vụ của họ rất quan trọng, ngoài ra anh tin diện mạo của mình hiện nay khác xa với hình vẽ, không ai có thể nhận ra.

Họ không gặp khó khăn khi qua cổng, vì bọn lính gác đã thay thế toán hôm qua. Ro­ran lập tức hướng dẫn mọi người ra bến cảng và trao hai trăm cho Clo­vis.

Đang bận rộn giám sát nhóm người làm sửa soạn cho xà-​lan sẵn sàng ra khơi, Clo­vis thắt chặt túi tiền vào thắt lưng bảo Ro­ran:

- Cám ơn Cây-​búa Dũng-​mãnh. Không gì sướng hơn bắt đầu một ngày mới bằng những đồng tiền vàng sáng ngời như thế này.

Đưa tất cả đến bàn làm việc, Clo­vis trải tấm hải đồ quanh vùng Nar­da (đầy đủ ghi chú về những đoạn nước chảy xiết, đá ngầm, ụ cát…), kéo một đường bằng ngón tay từ Nar­da tới một vịnh nhỏ về hướng nam, hắn nói:

- Chúng ta sẽ đón gia súc tại đây. Mùa này thủy triều rất dễ chịu, tuy vậy vẫn phải phòng xa, tốt nhất là lên đường ngay khi thủy triều vừa lên cao.

Ro­ran hỏi:

- Sao không chờ thủy triều xuống, nước kéo xà-​lan ra, có phải dễ hơn không?

- A, đúng vậy. Nhưng phải cần thêm rất nhiều người. Điều tôi ngại nhất là, nước ào vào rút ra, quăng quật người của chúng ta khi vận chuyển đàn gia súc lên tàu.

Ro­ran gật đầu, tin tưởng vào kinh nghiệm của Clo­vis:

- Ông cần bao nhiêu người để bổ sung thủy thủ đoàn?

- Tôi đã ráng kiếm bảy chàng trai khỏe mạnh, thật thà, thạo nghề đi biển và đồng ý ra khơi chuyến này. Đám người còn lại say xỉn không ngóc đầu lên nổi, chúng nốc rượu hết ráo tiền chuyến đi vừa qua. Vậy là tôi chỉ có được bảy, còn cần thêm bốn nữa.

- Người của tôi chưa thạo đi biển, nhưng đều khỏe mạnh và ham học hỏi lắm.

- Thôi cũng được, dù sao tôi vẫn thường cho mấy cậu mới vào nghề đi theo. Tuy nhiên chúng phải biết vâng lời, nếu không, công việc lộn bậy lên hết ráo. Còn chuyện bảo vệ, tôi muốn có chín người. Mỗi xà-​lan ba người. Phải là những người gan dạ…

Ro­ran cười cười:

- Những người đi cùng tôi, từng chứng tỏ khả năng lâm trận nhiều lần rồi.

- Và đều được quý ông tin tưởng chứ, Cây-​búa Dũng-​mãnh?

Vừa nói Clo­vis vừa gãi cằm ngắm nghía Gedric, Del­win và mấy người mới đi cùng Ro­ran:

- Bao nhiêu người đi cùng ông?

- Cũng… vừa đủ thôi.

- Vừa đủ, tôi đoán ông sẽ nói vậy. Nhưng đừng bận tâm, chỉ hỏi vậy thôi mà. Cha tôi thường bảo tôi là đưa hay mau mồm mau miệng tào lao. Tor­so, người bạn nghề thân cận nhất của tôi, đang đi mua sắm cho chuyến đi. Ông có lương thực cho gia súc rồi chứ?

- Chúng tôi đã lo trang bị đầy đủ tất cả.

- Vậy chì chuyển bầy gia súc tới sớm đi, chúng tôi sẽ cho chúng xuống khoang hầm ngay khi dựng buồm.

Suốt ngày hôm đó nhóm của Ro­ran chuyển những món mấy con trai ông Lor­ing đã mua vào lán trại. Nhìn Ro­ran chuyển bao bột mì xuống khoang hầm của chiếc Ede­line, Clo­vis thắc mắc:

- Toàn những thứ không phải là thức ăn gia súc?

- Không, nhưng là những thứ chúng tôi cần.

Thùng đồ cuối cùng được chuểyn xong, Clo­vis nói với Ro­ran:

- Quý ông đi được rồi, tôi và mấy chàng trai kia lo phần còn lại, nhưng phải nhớ có mặt, cùng với mấy anh chàng quý ông đã hứa, tại bến ba tiếng sau tảng sáng, nếu không sẽ không kịp thủy triều đâu.

- Yên tâm, chúng tôi sẽ đúng hẹn.

Trở vào núi, Ro­ran giúp thím Elain và mọi người sửa soạn khởi hành. Tất cả đã quen nhổ trại mỗi sáng nên công việc rất mau lẹ. Sau đó anh chọn mười hai người đàn ông để đưa đến Nar­da ngày hôm sau. Trai tráng trong làng đều là những chiến sĩ dũng cảm, nhưng Ro­ran yêu cầu những người có khả năng nhất, như chú Horst và Del­win, sát cánh cùng dân làng, phòng xa bị lính triều đính phát hiện hay Ra’zac trở lại.

Ngay khi đêm xuống, hai toán rục rịch lên đường. Thu mình trên một tảng đá, Ro­ran nhìn chú Horst hướng dẫn đoàn người xuống núi, tiến về vịnh nhỏ để chờ xà-​lan.

Or­val leo lên tảng đá, khoanh tay hỏi Ro­ran, giọng đầy lo lắng:

- Anh tin họ được an toàn không?

Dù cũng đang lo ngại, Ro­ran nói:

- Mình tin. Cá với cậu một thùng rượu, ngày mai tàu cặp bờ họ vẫn còn đang ngủ ngon lành. Cậu sẽ được có niềm vui đánh thức Nol­la dậy. Sướng nhé.

Nghe nhắc đến tên vợ, Or­val toe toét cười, vẻ yên tâm.

“Hy vọng mình đúng.” Im lìm trên tảng đá, Ro­ran lặng lẽ như một bức tượng, trông theo hàng người dần khuất khỏi tầm nhìn.

Thức dậy trước khi mặt trời mọc, ánh sáng còn nhợt nhạt và không khí ẩm ướt của đêm làm mấy ngón tay tê cóng, Ro­ran vỗ nước lên mặt, rồi sửa soạn cung tên, cây búa bất ly thân cuàng tấm khiên của Fisk và cây giáo của chú Horst. Mười hai người kia còn đem theo mấy thanh kiếm chiến lợi phẩm trong cuộc đụng độ với lính triều đình tại làng Car­va­hall.

Mười ba người đều cố chạy xuống sườn núi gồ ghề, ra đường cái Nar­da, phóng vội đến cổng thị trấn.

Ro­ran sững người khi thấy hai tên lính gác hôm đầu tiên lại ngả ngang cán rìu chặn lối vào. Tên đầu bạc quan sát nhóm người của Ro­ran, rồi lom lom nhìn anh:

- Lần này còn đông hơn, mà ngoài mày ra, lại toàn mặt lạ. Chắc mày mong tao tin những khiên giáo kia dùng để gõ đồ gốm đấy nhỉ?

- Không. Chúng tôi được Clo­vis thuê làm bảo vệ xà-​lan tới thành Teirm.

Tên lính gác cười hô hố:

- Chúng mày làm lính đánh thuê à? Tao nhớ mày bảo là dân buôn bán mà.

- Chuyển qua nghề này tốt tiền hơn.

- Nói láo. Tao cũng đã từng thử thời vẫn đó rồi, đói chết mồ luôn. Nào, tóm lại, nhóm “con buôn” chúng mày có bao nhiêu thằng? Hôm qua bảy, hôm nay mười hai. À, kể cả mày là mười ba chứ. Các chủ hàng… hơi bị nhiều nhân công đấy nhỉ?

Hắn lim dim mắt ngắm nghía Ro­ran:

- Trông mày quen quen. Ê, tên gì?

- Cây-​búa Dũng-​mãnh.

- Chẳng lẽ là thằng Ro­ran, nếu…

Ro­ran thúc ngọn giáo ngay yết hầu tên lính gác. Máu ộc ra như suối. Thu hồi mũi giáo, Ro­ran vừa nâng khiên đỡ cây rìu của tên lính thứ hai, vừa xoay người rút búa choảng mạnh xuống đầu hắn. Chiếc mũ sắt tan tành.

Dứng giữa hai cái xác, Ro­ran thở hào hển nghĩ: “Ôi, vậy là mình đã giết mười mạng người rồi!”

Or­val và mười một người kia bàng hoàng nhìn Ro­ran. Không chịu đựng nổi ánh mắt họ, chỉ đường cống ngầm dưới lòng đường, anh cộc cằn ra lệnh:

- Giấu mấy cái xác ngay, đừng để có người nhìn thấy.

Trong khi họ làm theo lời anh, Ro­ran lên tường phòng hộ nhìn xuống. Rất may, lúc đó không một bóng người. Cúi xuống, Ro­ran rút ngọn giáo, chùi sạch máu lên bụi cỏ.

Man­del chiu lên, dù râu ria che khuất vẫn thấy rõ mặt chàng thanh niên xanh lè khi nói:

- Xong.

Ro­ran gật đầu, lạnh lùng nhìn tất cả:

- Nghe đây. Chúng ta rảo bước tới bến, nhưng phải rất thận trọng. Đừng chạy. Nghe từng động tĩnh, nhưng không được hoảng hốt. Đừng có hành động nào gây nghi ngờ. Mạng sống của gia đình, bạn bè các anh tùy thuộc vào điều đó. Nếu bị tấn công, nhiệm vụ duy nhất của các anh là nhìn xà-​lan ra khơi. Không còn vấn đề nào khác nữa. Rõ cả chứ?

Tất cả đều lên tiếng:

- Rõ.

- Vậy thì theo tôi.

Khi băng qua thị trấn, Ro­ran cảm giác toàn thân căng thẳng như sắp vỡ tung thành từng mảnh. Nhìn từ đàn ông tới đàn bà, từ con chó tới đứa trẻ con, cố gắng phát hiện ra những biểu hiện của kẻ thù. Tất cả những gì chung quanh dường như sáng lên một cách bất thường, nổi rõ từng chi tiết; dường như anh có thể nhìn thấu từng đường kim mũi chỉ trên quần áo mọi người.

Nhưng rồi họ yên ổn tới cảng, Clo­vis vui vẻ nói:

- Tới sớm vậy, Cây-​búa? Nhưng tôi rất khoái những người như vậy, chúng ta càng có nhiều thời gi­an thu xếp trước lúc khởi hành.

- Đi ngay bây giờ được chưa?

- Phải chờ nước lên cao hẳn đã…

Nhìn khắp lượt mười ba người, Clo­vis thắc mắc:

- Chuyện gì vậy? Trông các vị như vừa gặp hồn ma của Gal­ba­torix vậy?

- Ôi, chỉ vài giờ hít thở không khí biển thì chuyện gì cũng ổn cả thôi mà.

Ro­ran cố gượng cười nói qua loa cho anh chủ xà-​lan yên lòng.

Clo­vis huýt sáo gọi hai thủy thủ từ xà-​lan lên. Cả hai da rám nắng, nâu sậm như vỏ hạt dẻ. Chỉ anh chàng đứng bên phải với hình xăm trên vai là một con rồng, Clo­vis giới thiêuK

- Đây là Tor­son, phụ tá của tôi. Cậu ấy quản lý chiếc Mer­ry­bell. Còn anh chàng đen nhỏm này là Flint, trông nom chiếc Ede­line. Trong thời gi­an mọi người ở trên tàu, lời nói của hai cậu này là lệnh, cũng như tôi trên chiếc Trăn Đỏ. Các người phải theo lệnh tôi, chứ không phải Cây-​búa… Nào, rõ cả chưa?

- Rõ.

- Ai trực thuộc quyền tôi, ai thuộc quyền hai bạn nghề của tôi đây?

Bất chấp Clo­vis đã cảnh báo hắn là chỉ huy, không phải Ro­ran, mấy anh trai làng vẫn cứ nhìn Ro­ran đợi lệnh. Anh gật đầu, họ mới phân làm hai nhóm. Clo­vis chia họ thành ba nhóm nhỏ, phân phối lên mỗi xà-​lan.

Suốt nửa tiếng sau đó Ro­ran cùng các thủy thủ mới xong công việc trên chiếc Trăn Đỏ. Vừa nhìn mực nước mấp mé kè đá, anh vừa suy tính: “Cứ nấn ná ở đây, không bị giết cũng bị bắt mất thôi.”

Trừng trừng nhìn Clo­vis đang bóp trán, Ro­ran mới rút cây búa được nửa chừng, hắn bỗng nhướng mày nhìn anh nói:

- Cây-​búa, tôi đã quan sát anh, và tôi thắc mắc gì sao anh chiếm được sự nể trọng của họ. Tôi không nhớ xuể đã phục vụ bao nhiêu đời thuyền trưởng, nhưng chưa ai làm người khác phải tuân lệnh mà không phải đưa lên một ngón tay như anh.

Ro­ran phì cười:

- Tôi giải đáp thắc mắc của ông ngay đây: tôi cứu họ khỏi cảnh nô lệ và khỏi bị ăn tươi nuốt sống.

Clo­vis trơn tròn hai mắt:

- Hả? Tôi rất muốn được nghe chuyện này.

- Ông không nên biết thì hơn.

- Phải, có lẽ đúng vậy. Mỗi người có một hướng đi riêng. A, con gái bé nhỏ của tôi tới rồi kìa. Lúc nào cũng đúng giờ răm rắp.

Nói xong người đàn ông vạm vỡ nhảy phóc lên cầu tàu, chạy lên bến, ôm chặt một bé gái tóc đen chừng mười ba tuổi và người đàn bà, chắc là mẹ cô bé. Clo­vis vò tóc con gái, bảo:

- Con sẽ ngoan ngoãn khi cha vắng nhà, phải không nào, Gali­na?

Nhìn Clo­vis tạm biệt vợ con, Ro­ran chợt nghĩ đến cái chết của hai người lính gác: “Chắc họ cũng có gia đình. Có vợ con để thương yêu, có một mái ấm để trở về mỗi ngày…”. Miệng đắng chát, anh phải quay đi, nhìn mực nước lên, cô stránh cơn buồn nôn.

Những người trên xà-​lan mặt đầy vẻ lo âu. Sợ họ mất tinh thần, Ro­ran lăng xăng đi lại trên boong, ra vẻ chăm chú tính toán như anh đang rất bình tĩnh.

Sau cùng, Clo­vis nhảy lên Trăn Đỏ, kêu lớn:

- Nhổ neo, các bạn ơi, nước cao rồi.

Cầu tàu được kéo lên, tháo dây neo và cả ba cánh buồm căng phồng trong gió.

Phía sau, mẹ con Gali­na đứng nhìn theo, nghiêm trang lặng lẽ.

Clo­vis vỗ vai Ro­ran:

- Cây-​búa, chúng ta may mắn rồi, hôm nay có chút gió, không phải chèo trước khi thủy triều thay đổi.

Khi Trăn Đỏ ra tới giữa vịnh, chừng mười phút nữa mới tới vùng biển tự do, điều lo sợ của Ro­ran đã xảy ra: tiếng chuông, tiếng kèn từ những tòa nhà đá lan tỏa trên mặt nước. Anh vội hỏi:

- Chuyện gì vậy?

Clo­vis nhìu mày nhìn về thị trấn:

- Không biết. Chắc là một đám cháy, nhưng sao không thấy khói. Hay họ phát hiện có Ur­gal trong vùng…

Hắn lo lắng hỏi Ro­ran:

- Trên đường đi sáng nay có bị ai dòm ngó không?

Ro­ran chỉ biết lắc đầu, vì chính anh cũng không biết chắc điều đó.

Từ chiếc Ede­line chạy song song, Flint gào qua:

- Mình quay lại chứ, ông chủ?

Ro­ran nắm chặt thành tàu, sẵn sàng năn nỉ, nhưng lại tỏ ra quá lo âu. Ngay lúc dó Clo­vis đã hướng qua Flint gào lại:

- Không. Lỡ con nước mất.

- Được thôi, thưa ông. Nhưng tôi dám hy sinh một ngày lương để biết chuyện gì mà om sòm dữ vậy.

Clo­vis lèm bèm:

- Tao cũng đang sốt cả ruột lên đây.

Khi nh cửa đã khuất dạng phía sau, Ro­ran lại cuối tàu, ngồi ôm gối, dựa lưng vào ca-​bin. Anh nhìn bầu trời xanh thăm thẳm rồi nhìn vật nước chiếc Trăn Đỏ lướt qua với những dải rong biển lất lây trong làn sóng. Xà-​lan lắc lư như một chiếc nôi làm anh cảm thấy như được vỗ về an ủi. “Một ngày tuyệt đẹp” Ro­ran thầm nhủ, khoan khoái vì được có mặt tại đây để thưởng thức cảnh quan này.

Qua khỏi vịnh nhỏ, Ro­ran thoải mái leo thang lên buồng lái, sau ca-​bin. Clo­vis đang điều khiển bánh lái, vui vẻ nói:

- Chuyến nào ngày đầu tiên cũng đầy phấn khởi, mấy hôm nữa mới chán ngấy đồ ăn mang theo và bắt đầu nhớ nhà.

Chủ tâm học hỏi những điều cần thiết về cách điều hành xà-​lan, Ro­ran hỏi Clo­vis tên và nhiệm vụ của những vật dụng trên tàu. Clo­vis nhiệt tình giảng giải từ cách vận hành, từ nghệ thuật lèo lái xà-​lan tới các loại tàu bè. Hai tiếng sau, hẳn chỉ một bán đảo nhỏ hẹp phía trước, bảo:

- Qua khỏi đó là tới vịnh.

Ro­ran vươn người nhìn, nóng lòng muốn biết tình trạng của dân làng.

Khi chiếc Trăn Đỏ vòng qua một mũi đá, bãi cát trắng hiện ra cùng những người tị nạn từ thung lũng Palan­car. Đám đông hoan hô, reo hò, vẫy tay rối rít khi chiếc xà-​lan xuất hiện từ sau mũi đá.

Đứng bên Ro­ran, Clo­vis lèm bèm rủa, rồi bảo:

- Cây-​búa, ngay từ lúc mới gặp anh, tôi đã thấy chuyện bất thường. Hừ, gia súc, vật nuôi của anh đó hả? Anh cư xử như tôi là một thằng ngu.

- Ông hiểu lầm rồi, tôi đâu có dối gạt ông. Nhiệm vụ của tôi là chăm lo cho những con người này, vì vậy…

- Vì vậy… anh gọi họ là gì thây kệ, nhưng tôii không đồng ý chở người tới Teirm. Sao anh không nói thật từ đầu? Dù chuyến đi này của anh là gì, thì sau cùng cũng chỉ là rắc rối. Rắc rôi cho anh và cho cả chính tôi. Tôi sẽ quẳng các anh khỏi tàu và trở lại Nar­da.

- Nhưng… ông sẽ không làm vậy đâu.

- Hả? Sao tôi lại không dám làm chứ?

- Vì tôi cần mấy xà-​lan này. Bằng mọi cách tôi phải giữ chúng. Mọi cách, ông Clo­vis ạ. Tôn trọng sự thương lượng giữa chúng ta, chuyến đi sẽ an toàn và ông sẽ trở về với con gái Gali­na của ông. Nếu không…

Ro­ran không có ý định giết Clo­vis, dù là trong trường hợp bắt buộc, anh sẽ thả ông ta xuống một bãi biển nào đó thôi.

Mặt Clo­vis đỏ bừng, nhưng Ro­ran ngạc nhiên khi ông ta chỉ lẩm bẩm:

- Tôi hiểu rồi…

Ro­ran yên tâm, hướng mắt lên bãi cát. Ngay lúc đó, phía sau anh vang lên một tiếng “soạt”.

Phản ứng theo bản năng, Ro­ran hụp mình, xoay người đưa tấm khiên lên che đầu. Cánh tay anh rung lên khi một cái xiên đâm thủng tấm khiên.

Ro­ran hạ thấp tấm khiên, trừng trừng nhìn Clo­vis đang hốt hoảng giật lùi:

- Ông không hạ nổi tôi đâu, Clo­vis. Tôi hỏi lại: ông có tôn trọng hợp đồng không? Nếu không, tôi sẽ đưa ông lên bờ, rồi tự chỉ huy và bắt người của ông phải phục vụ tôi. Thật tình tôi không muốn hủy hoại phương tiên kiếm sống của ông đâu, nhưng nếu bị ông thúc ép, tôi sẽ làm… Nào, nghĩ kỹ đi. Nếu ông giúp đỡ chúng tôi, thì đây chỉ là một chuyến đi bình thường, có gì đâu. Hãy nhớ là ông đã được trả tiền rồi.

- Nếu tôi đồng ý, anh phải đàng hoàng cho tôi biết: vì sao phải phỉnh gạt tôi như thế này? Những người kia từ đâu đến? Để làm gì? Dù anh trả tôi bao nhiêu vàng, tôi cương quyết không làm trái với nguyên tắc của mình. Các anh là thảo khấu? Hay tay sai của bạo chúa?

- Tôi e, càng biết nhiều ông càng bị nguy hiểm hơn.

- Nhất định tôi phải biết.

- Ông có nghe nói đến làng Car­va­hall ở thung lũng Palan­car không?

- Có vài lần. Thì sao?

- Ông đang thấy dân làng đó trên bãi cát kia. Quân lính của Gal­ba­torix đã tấn công chúng tôi một cách vô cớ. Chúng tôi chống trả, khi không còn tự bảo vệ nổi nữa, chúng tôi phải xuyên qua núi Spine, dọc theo bờ biển để tới Nar­da. Gal­ba­torix đã thề sẽ giết toàn bộ già trẻ lớn bé dân làng, hoặc bắt làm nô lệ hết. Tới Sur­da, đó là niềm hy vọng sống còn duy nhất của chúng tôi.

Ro­ran không nhắc tới Ra’zac, vì không muốn làm Clo­vis quá khiếp đảm.

Bộ mặt rám nắng của ông chủ tàu tái nhợt:

- Các anh đang bị truy đuổi?

- À… nhưng triều đình chưa phát hiện ra chúng tôi.

- Vậy là chính vì các anh mà trống kén đã báo động rầm rĩ lên như thế?

Rất nhỏ nhẹ, Ro­ran nói:

- Tôi đành phải giết hai lính gác đã nhận diện ra mình.

Clo­vis giật mình lùi lại, trợn mắt, tay nắm chặt tới phồng cả cơ bắp. Ro­ran tiếp:

- Tính kỹ đi, ông Clo­vis, gần tới bờ rồi.

Hai vai Clo­vis rũ xuống, vẻ cương quyết không còn nữa. Ro­ran biết mình đã thắng:

- Ôi, cầu cho bệnh dịch giết anh đi, Cây-​búa. Tôi không ưa gì nhà vua, nên tôi sẽ đưa các anh tới Teirm. Nhưng sau đó, tôi không còn muốn dính dáng gì tới các anh nữa.

- Ông thề không chuồn đi trong đêm tối, hoặc có âm mưu gì khác chứ?

- Được. Tôi thề.

Cát đá rào rạo dưới đáy khi ba chiếc xà-​lan tiến lên bãi. Tiếng sóng ào ạt vỗ bờ như tiếng thở dài của một quái vật khổng lồ. Ngay khi cầu tàu được bắc qua, Tor­son và Flint nhảy sang Trăn Đỏ tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra. Clo­vis bảo:

- Kế hoạch thay đổi.

Để ông chủ tàu cắt nghĩa lý do dân làng phải lìa bỏ thung lũng Palan­car, Ro­ran nhảy xuống bãi cát, chạy đi tìm chú Horst trong đám đông, rồi kéo ông ra một chỗ kể lại vụ giết hai lính gác tại Nar­da.

- Nếu phát hiện ra cháu đi cùng Clo­vis, chúng sẽ cho ngựa đuổi theo. Phải cấp tốc bảo mọi người lên tàu ngay.

Nhìn sâu vào mắt Ro­ran một lúc, chú Horst mới nói:

- Cháu thành một con người cứng rắn rồi, Ro­ran. Cứng rắn hơn cả chú từ xưa tới nay.

- Chỉ vì bắt buộc thôi, chú ơi.

- Nhớ kỹ một điều: đừng bao giờ quên cháu là ai.

Suốt ba tiếng sau Ro­ran tất bật chuyển dân làng và hành lý của họ lên chiếc Trăn Đỏ, sắp đặt mọi thứ cho đến khi Clo­vis hài lòng. Phải bảo đảm sao cho những bao đồ đủ kích cỡ, nặng nhẹ khác nhau không bừa bãi, xô lệch làm mất thăng bằng của tàu và gây thương tích cho người. Phải dỗ dành những con vật bướng bỉnh chịu xuống khoang hầm, rồi buộc chúng vào những khoen bằng sắt.

Sau cùng mới tới người. Cũng như đồ đạc của họ, phải sắp đặt để mọi người chia đều hai bên cho cân xứng, tránh làm tàu nghiêng ngả hay có thể bị lật. Clo­vis, Tor­son, Flint đứng trước mũi ba xà-​lan gào xuống một đám dân làng còn đứng dưới bãi.

Nghe tiếng tranh cãi rầm rầm, Ro­ran vừa tự hỏi “lại chuyện gì nữa đây”, vừa lách tới đám đông.

Calitha đang quỳ bên người cha dượng, lão Way­land, cố gắng trấn tĩnh lão. Trong khi lão vừa vùng vẫy cố vuột khỏi vòng tay Calitha, vừa la oai oái, nước bọt nhễu nhão.

- Không, tao không leo lên con quái vật đó đâu. Buông tao ra! Buông tao ra!

Calitha nhăn nhó vì những cú đánh của lão:

- Từ lúc dựng trại đêm qua, ông ấy cứ như phát rồ lên.

Ro­ran cùng Calitha dỗ dành, năn nỉ cho đến khi lão dịu lại, không đấm đá, kêu gào nữa. Calitha thường cho ông bố dượng một mẩu thịt bò khô. Trong khi lão chăm chú nhấm miếng thịt, Ro­ran và cô mới có thể dìu lão lên xà-​lan, thu xếp cho lão ngồi vào một góc riêng, để khỏi làm phiền ai.

Clo­vis la lớn:

- Nào, mau mau lên, thủy triều sắp rút rồi. Nhảy lên, nhảy lẹ lên đi.

Sau sự ồn ào, náo động cuối cùng, ván cầu được rút lên. Trên bãi chỉ còn lại hai chục người đàn ông. Họ chia làm ba toán, sửa soạn đẩy xà-​lan xuống nước.

Ro­ran điều khiển toán của chiếc Trăn Đỏ. Tiếng dô hầy đồng thanh cất lên, anh cùng mọi người căng sức đẩy chiếc xà-​lan khổng lồ, cát lún dưới chân, tiếng gỗ và dây thừng kẽo két, mùi mồ hôi tỏa trong không khí. Một lúc sau, xà-​lan chòng chành trượt ra mé nước chừng nửa thước.

Ro­ran la lớn:

- Nào ráng nữa lên.

Nhúc nhích từng bước, họ tiến ra biển, cho đến khi làn nước giá lạnh ngập tới thắt lưng. Một cơn sóng lớn ập lên Ro­ran, miệng anh đầy nước biển. Ro­ran phun phì phì nước muối mặn chát.

Bơi cặp theo chiếc xà-​lan bồng bềnh trên nước, rồi Ro­ran bám một sợi dây leo lên. Trong khi đó, các thủy thủ chống sào, đẩy tàu ra vùng nước sâu hơn.

Khi xà-​lan đã xa bờ, Clo­vis ra lệnh dẹp sào, mái chèo được sử dụng, lái mũi tàu thẳng tiến ra khơi. Buồm được kéo lên, căng phồng trước làn gió nhẹ. Trăn Đỏ dẫn đầu ba chiếc xà-​lan tiến về hướng thành Teirm.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play