Sau khi
qua thêm một ngọn đèo nữa, đèo Zhimi cao 4370m, chúng tôi đến Gyantse. Ngày
trước nó là đô thị nối giữa Lhasa và Shigatse, ngày nay không còn đóng vai trò
quan trọng sau khi một con đường khác mới được xây, chạy dọc theo thung lũng
Yarlung Tsanpo, nối liền hai đô thị nói trên. Thế nhưng Gyantse là thủ phủ một
thời thịnh trị, số phận của nó liên hệ mật thiết đến phái Tát-ca(Sakyapa).
Gyantse một thời lại là một trung tâm thương mại của Tây Tạng và cũng vì thế mà
Gyantse bị người Anh tiến hành một cuộc xâm lược đổ máu vào năm 1904.
Ngày nay
Gyantse là một đô thị buồn tẻ và đầy bụi bặm. Khách đến đây là để đi thăm tu
viện Palkhor và ngôi đền Kumbum, man-đa-la vĩ đại ba chiều.
Palkhor
là một đại tu viện nằm trên sườn một ngọn đồi mà chạy dọc trên đỉnh đồi là một
bức tường thành chạy dài bao bọc xung quanh. Tôi nhớ đến Vương Xá tại Ấn Độ và
biết rằng người xây dựng Palkhor ngày xưa có ý định biến đây là một đô thị
riêng biệt của tu viện. Quả thật như thế, ngày xưa đây là một tổng thể gồm 16
tu viện. Cách mạng văn hóa đã đưa những hồng vệ binh trẻ tuổi lên đây và phá
hủy hầu hết các công trình. Ngày nay đến đây du khách khó mà ngờ ngày xưa đây
là chỗ tập hợp của rất nhiều tăng sĩ, và quan trọng nhất đây là chỗ mà ba giáo
phái Tây Tạng cùng nhau tu học. Đã đến lúc tôi phải xem lại lịch sử của bốn
giáo phái lớn của Tây Tạng, đó là Ca-nhĩ-cư, Ninh-mã, Tát-ca và Cách-lỗ.
Như
trong một chương trước đã nhắc tới, giáo phái Ca-nhĩ-cư được Marpa truyền qua
Tây Tạng khoảng thế kỷ thứ 11. Giáo pháp này bắt nguồn từ Phổ Hiền. Phổ Hiền
trong Ca-nhĩ-cư không phải là bồ tát Phổ Hiền trong Phật giáo Trung Quốc mà là
hóa thân của Pháp thân. Phổ Hiền truyền cho Tilopa và Tilopa truyền cho Naropa.
Marpa, học trò của Naropa, lĩnh hội phép Đại thủ ấn và Du-già lục pháp tại vùng
đất thiêng Bihar Ấn Độ. Giáo pháp này chú trọng đến phép truyền tâm, trực tiếp
từ đạo sư đến học trò. Ngày nay phái Ca-nhĩ-cư vẫn còn tồn tại với tên
Drukpa-Kagyu và Drigung-Kagyu.
Phái thứ
hai là Ninh-mã (Nyingmapa), được xem là phái cổ nhất Tây Tạng. Phái này thống
nhất truyền thống tu tập của Liên Hoa Sinh và của các tăng sĩ có tiếng khác như
Vimalamitra và Vairocana. Phái Ninh-mã có những bí pháp quan trọng như Đại
Du-già (Maha-Yoga), A-nậu du-già (Anu-Yoga) và A-tì du-già (Ati-Yoga), Đại cứu
kính (Dzogchen). Hiện nay phép Đại cứu kính được một số lạt-ma truyền bá tại
phương tây.
Phái thứ
ba là Tát-ca mà tên Tây Tạng là Sakya. Sakya nghe ra gần giống với Sakyamuni
(Thích-ca mâu ni) nhưng thực ra không liên quan gì cả. Sakya trong Tạng ngữ có
nghĩa "đất xám", đất chưa được cày bừa canh tác. Phái này được thành
lập từ năm 1073, đó là năm mà đền Sakya nổi tiếng được xây dựng, theo khải thị
của A-đề-sa. Phái này nổi tiếng là nghiên cứu kinh sách nghiêm túc, biện luận
xuất sắc. Người luận giải quan trọng nhất có lẽ là Buton (1290-1364], kẻ đã xếp
đặt hệ thống kinh điển của Tây Tạng lại có thứ tự trong hai đại tạng Kanjur và
Tanjur. Kanjur và Tanjur được tất cả các giáo phái của Tây Tạng thừa nhận là
chính quy và có thẩm quyền chung.
Buton
lập ra hẳn một bộ phái tên là Shalupa. Phái Tát-ca lại có thêm một yếu tố nữa
là liên hệ đến chính trị và triều đình Mông Cổ. Như ta đã biết, nhà vua Mông Cổ
Hốt Tất Liệt hậu đãi một vị tăng sĩ Tây Tạng như thần tiên, đó chính là
Phát-tư-ba(Phagpa,1235-1280], một vị sư trưởng của phái Tát-ca. Hốt Tất Liệt
phong cho trường phái Tát-ca là kẻ nắm quyền Tây Tạng, điều đó xảy ra khoảng
cuối thế kỷ thứ 13, đầu 14. Chế độ tăng lữ có thể được xem bắt đầu từ đây và đó
là thời gian mà Gyantse được xây dựng, nó được xem là thủ phủ của Tây Tạng suốt
một thời gian khoảng 80 năm. Tát-ca đóng vai trò quan trọng trong các thế kỷ
sau và ảnh hưởng lên cả Tông-khách-ba, người ra đời năm 1357 và cũng là người
sáng lập ra phái thứ tư, phái Cách-lỗ.
Đại sư
Tông-khách-ba được gọi là "nhà cải cách" vì là người soát xét lại
toàn bộ kinh điển và tổng kết thành quả của mình trong hai bộ luận chính: Bồ-đề
đạo thứ đệ (Lamrim Chenmo) và Chân ngôn đạo thứ đe (Ngagrim Chenmo). Phái
Cách-lỗ do Tông-khách-ba sáng lập sau này và vì thế mà có tên "tân
phái" trong lúc ba phái kia được gọi là "cựu phái". Tăng sĩ phái
Cách-lỗ đội mũ vàng như Tông-khách-ba, chú trọng đến Luật tạng và giữ giới luật
nghiêm minh. Phép tu quan trọng của Cách-lỗ là cân đối giữa Chỉ và Quán để đạt
Định, phát triển trí huệ và bồ-đề tâm. Như ta biết các vị tăng sĩ trong dòng
Đạt-lai và Ban-thiền đều thuộc phái Cách-lỗ và kể từ cuối thế kỷ thứ 16, các vị
Đạt-lai nắm quyền chính trị trong tay, tương tự như các vị Tát-ca trong cuối
thế kỷ 13.
Bốn tông
phái nói trên của Tây Tạng thật ra rất gần nhau về mặt lý thuyết cơ bản, họ tôn
trọng và học hỏi lẫn nhau. Cái khác của họ phần lớn là xuất phát từ những dòng
truyền tâm, từ những quan hệ riêng biệt giữa thầy trò, rất đặc trưng của Kim
Cương thừa. Thật ra tính đa nguyên tôn giáo đã có truyền thống lâu dài tại Tây
Tạng. Cụ thể là khi Hốt Tất Liệt đề nghị với Phát-tư-ba hãy cấm các tông phái
khác hoạt động thì Phát-tư-ba đã từ chối yêu cầu độc đoán đó, cho rằng điều đó
không phù hợp với "Pháp". Bản thân Tông-khách-ba cũng học tập với các
vị sư trưởng của phái Tát-ca. Vị Đạt-lai thứ năm, thuộc dòng Cách-lỗ nhưng rất
gần với phái Ninh-mã. Đó là những biểu hiện sinh động của lòng kính trọng lẫn
nhau của các giáo phái.
Vì thế
tại Gyantse, trong tổng thể Palkhor ta có ba tu viện của Shalupa, bốn của
Tát-ca và chín của Cách-lỗ. Đặc biệt ta tìm thấy chính điện rất lớn dành chung
cho tất cả các môn phái với rất nhiều khám thờ, được xây dựng năm 1418.
Tôi vào
chính điện, đi ngang trước những ngọn đèn mỡ trâu. Trên bàn thờ là từng nhóm
bảy chén nước theo cách cúng dường của người Tây Tạng, được xếp chỉnh tề. Một
người phụ nữ còn trẻ đang châm dầu vào đèn để ánh sáng không bao giờ tắt, đó là
loại mỡ trâu do họ tự mình chọn lựa và đi bộ đường xa đem tới tu viện. Đó là
điều duy nhất mà những người nghèo khổ Tây Tạng có thể cúng dường các bậc giác
ngộ.
Lòng ân
cần của họ đối với "Pháp" được thể hiện giản đơn như thế nhưng nó quí
hơn hành động của những kẻ bố thí hàng trăm lần nhiều hơn về vật chất nhưng tâm
thiếu tỉnh giác, lòng không rộng mở. Ra khỏi Lhasa, tôi càng mới thấy rõ nước
Tây Tạng rất nghèo, người dân không có gì hơn ngoài một niềm tin tôn giáo mãnh
liệt, một sự tự dâng hiến trọn vẹn. Ở trong mọi tu viện, nơi đâu tôi cũng thấy
những người tự nguyện đi châm dầu cho đèn được sáng mãi, thay nước cho bàn thờ
luôn luôn được thanh tịnh. Tại đô thị Gyantse đang tàn tạ này, trong tu viện
Palkhor đã bị cách mạng văn hóa phá hoại nặng nề này, vẫn không bao giờ thiếu
niềm tin đó.
KUMBUM,
MAN-ĐA-LA VĨ ĐẠI
Gyantse
còn có một công trình mà không nơi nào trong cao nguyên mênh mông Tây Tạng có
được, đó là đền Kumbum, man-đa-la ba chiều vĩ đại. Đền Kumbum nằm bên cạnh
Palkhor, có lẽ đây chính là công trình xây dựng thu hút được một ít du khách
đến Gyantse. Liệu họ có biết ý nghĩa của ngôi đền Kumbum này không?
Đền này
được xây dựng năm 1436 gồm có 9 tầng, 108 cửa và 77 khám thờ. Toàn bộ đền có
khoảng 100.000 hình tượng Phật, Bồ-tát, hộ pháp..., nên nó được mệnh danh là
"đền thập vạn Phật". Đền được nghệ nhân Tây Tạng và Nepal xây dựng,
nhìn từ xa người ta thấy cặp mắt Phật, vẽ theo kiểu Nepal. Sở dĩ đền này được
gọi là man-đa-la ba chiều vì nó biểu diễn quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo Tây
Tạng. Theo Govinda [18], các đền thờ Tây Tạng đều có năm phần, tượng trưng cho
năm yếu tố xây dựng nên vũ trụ.
Phần
dưới của đền hình khối, tượng trưng cho yếu tố "đất", bền vững, ổn
định. Đó là yếu tố của các chất đặc, nặng, là nền móng của mọi sắc hình. Trên
hình khối là hình cầu, có khi hình bán cầu. Hình cầu tượng trưng cho yếu tố
"nước", sự luân chuyển, sự di động. Ngược lại với đất, nước có tính
bất định và trôi chảy. Trên hình cầu là một hình nón cụt. Hình nón cụt tượng
trưng cho "lửa", dáng của nó giống ngọn lửa hướng về phía trên. Trên
hình nón cụt là những dĩa, mặt dĩa ngửa về phía trên, nhìn ngang giống như hình
bán cầu. Những dĩa tròn này tượng trưng cho "gió" hay không gian.
Cuối cùng nằm trên tất cả là một chấm tròn hình nhọn như lửa tượng trưng cho
"thức".
Thức chỉ
là một chấm, khác với bốn yếu tố khác, nó không có kích thước. Thức chứa đựng
tất cả mà không bị hạn chế trong dạng hình nào cả. Thức được biểu diễn bởi một
chấm không có kích thước vì nó là giao điểm giữa tầng mức vật chất với một mức
độ khác mà ta gọi là tâm linh.
Từ xa
đền Kumbum cho thấy nó được xây dựng theo kiến trúc nói trên. Hình khối phía
dưới có năm tầng sơn trắng. Phần hình cầu tượng trưng cho yếu tố nước được xây
bằng hình ống tròn với bốn cửa sổ. Phần trên là mái điện thếp vàng với bốn cặp
mắt Phật nhìn ra bốn phía. Tôi đi vào đền và biết trước mình sẽ không đủ đức
tham bái hết 77 khám thờ, mà bản thân mỗi khám thờ lại là một man-đa-la.
Người
nước ngoài vào thăm đền hẳn sẽ lạc lối với hàng chục ngàn tranh tượng Phật, mỗi
vị có một chút khác biệt. Đối với họ chỉ có một vị Phật lịch sử Thích-ca mâu-ni.
Phật tử tiểu thừa hay cả đại thừa, trong số đó có tôi, cũng không dễ hiểu tất
cả tranh tượng ở đây. Thế nhưng nếu ta hiểu rằng, hệ thống "ba thân"
- Pháp thân, Báo thân và Ứng thân - trong Kim cương thừa đóng vai trò quan
trọng bậc nhất trong triết lý về vũ trụ của Phật Giáo Tây Tạng, ta có thể hiểu
các tranh tượng và man-đa-la trong đền Kumbum đều được xếp đặt có thứ tự. Cho
nên, bên cạnh quan niệm "năm yếu tố" trong công trình Kumbum đã nói ở
trên, ta cần hiểu đền này diễn tả thêm ba dạng xuất hiện của Phật tính trong ba
thân, Ứng thân, Báo thân và Pháp thân. Đó là lý do mà các sách vở ghi rằng, đi
một vòng Kumbum từ dưới lên trên là đi một vòng, từ vòng tử sinh luân hồi đến
Niết-bàn.
Các tầng
dưới cùng của điện Kumbum diễn tả hình tướng các vị Phật và Bồ-tát trong dạng
Ứng Thân, đó là các vị đã sống thật trên trái đất này như Thích-ca mâu-ni và
các đệ tử của Ngài. Người ta có thể nhận ra điều đó qua áo quần, bình bát, cây
bồ-đề...Các bức bích họa diễn tả đời sống của Ngài cách đây 2500 năm. Kể cả các
tiền kiếp của Phật cũng được xếp vài loại Ứng thân.
Trên
những tầng cao hơn là dạng Báo thân của Phật. Đó là những hình tượng diễn tả
các vị giác ngộ trong một thế giới khác, trong các cõi Tịnh độ. Đó là hình ảnh
của Phật trong kinh Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa với vô số hào quang và
bảo vật. Quan trọng nhất, trong dạng Báo thân, các vị Phật xuất hiện thông qua
những "mẫu hình cơ bản" [19] của vũ trụ. Đó là năm dạng cơ bản của
tâm thức. Vũ trụ quan của Kim cương thừa quan niệm mọi hiện tượng tâm vật trong
thế gian đều được xếp thành năm "họ" mà đứng đầu năm họ đó là năm vị
Ngũ phương Phật. Nơi đây ta gặp hình tướng năm vị Phật mà đại thừa ít nhắc tới,
đó là các vị Đại Nhật, Bất Động, Bảo Sinh, A-di-đà và Bất Không Thành Tựu.
[19] - Trong các sách nghiên cứu phương Tây ta hay gặp từ
"Archetype"để chỉ các mẫu hình cơ bản này. Từ này do nhà tâm lý học
C.G.Jung nêu lên đầu tiên
Các dạng
này cần được hiểu như năm khía cạnh của Phật tính, năm dạng này cũng như những
màu của ánh sáng mặt trời bị tách ra khi đi qua một lăng kính. Năm vị Ngũ
phương Phật đó vì thế cũng có năm màu sắc khác nhau. Lý do là màu sắc cũng như
các loại hình cơ bản khác như năm hướng, ngũ uẩn, năm trí, năm yếu tố (nói
trong chương trước) đều được xếp trong các họ đó. Quan niệm về các mẫu hình cơ
bản là hết sức sâu sắc và đóng vai trò quan trọng trong nền tâm lý học hiện
đại.
Trên
tầng cao hơn của Báo thân là dạng Pháp thân với các hình tượng các vị A-đề Phật
(Adibuddha) hay Bản sơ Phật. Pháp thân thường được hình dung như một cái gì vô
hình vô tướng, không biến hoại. Thế nhưng đối với Kim cương thừa, Pháp thân có
thể hóa hiện thành các vị A-đề Phật để giáo hóa mà phái Ninh-mã gọi là Phổ
Hiền, phái Cam-đan gọi là Kim cương tát-đỏa (Vajrasattva), phái Cách-lỗ gọi là
Kim cương trì (Vajradhara). Trên tầng cao nhất của Kumbum ta thấy một bức tranh
trình bày Kim cương trì.
Đi từ
dưới lên trên là đi xuyên qua tất cả mọi dạng của đời sống, từ thực tại lịch sử
trên mặt địa cầu mà ai cũng thừa nhận, đến các tầng Báo thân mà chỉ có
"cặp mắt thiện nghiệp hi hữu" [20] mới thấy được và cuối cùng là Pháp
thân, thực tại tuyệt đối tối hậu vượt lên thực tại quy ước, nằm ngoài mọi tri
chứng.
[20] - Đoạn văn thường thấy trong kinh sách
Tôi thở
nặng nề leo lên những cấp bậc cuối cùng của Pháp thân, bước ra ngoài bao lơn và
đứng trên chóp đỉnh của Kumbum nhìn ra bốn phía. Gyantse nằm trên độ cao gần
4000m, cao hơn Lhasa khoảng hơn 300m. Gyantse đã cao mà từ chân đền lên đây ta
phải leo 32m nữa. Khoảng cách đó là đoạn đường vô tận từ đời làm người cho đến
Niết-bàn mà ngay cả đức Thích-ca cũng tu học qua "vô lượng kiếp". Từ
trên đỉnh Kumbum ta lại thấy xung quanh là mênh mông những ngọn núi mà bản thân
Gyantse lại chỉ là thung lũng của sông Nyang Chu. Phía dưới chân tôi là đời làm
người với bụi và cát. Từ trên này tôi có thể thấy xe của du khách đang đậu chờ
chúng tôi và nhiều người Tây Tạng đang vây quanh bán đồ lưu niệm và xin tiền.
Tôi nhìn quanh và chợt thấy mình có lẽ là những người ít ỏi trong đoàn lên tới
đỉnh của Pháp thân, những người khác xem ra không ai muốn leo vì quá nhọc mệt.
Tôi
không thể ở lâu trong dạng Pháp thân. Chờ cho hơi thở trở lại bình thường, tôi
lại leo xuống, thế nhân đang chờ tôi.
SHIGATSE VÀ DÒNG BAN-THIỀN LẠT-MA
Nhìn bản đồ, ta thấy Gyantse quả
thật là ngã tư của nhiều con đường lữ khách. Cách Gyantse khoảng 300km về phía
nam là Gangtok, thủ đô nước Sikkim.
Từ Gyantse ta chỉ đi về phía tây thêm 100km là đến Shigatse, đô thị lớn thứ hai
của Tây Tạng. Từ Shigatse mà đi về hướng tây nam thêm khoảng 500km là đến
Kathmandu, thủ đô Nepal.
Mấy năm về trước tại Kathmandu tôi đã ngắm đường đi Tây Tạng, nào ngờ hôm nay
tôi đứng trên đất Tây Tạng nhìn về Nepal.
Thế nhưng hướng về miền tây Tây
Tạng, lòng tôi rộn rã không vì gì khác mà chỉ vì Ngân sơn [21], nó còn cách
Gyantse chỗ tôi đang đứng đến hơn 850km, chỗ đó là niềm mơ ước nhiều năm nay
của tôi. Tôi mơ ngày đến Ngân sơn lúc đứng tại cao nguyên Simla tại Ấn Độ mười
năm về trước. Đến Ngân sơn là đến núi Tu-di trên địa cầu. Đến Ngân sơn là thăm
trú xứ của thánh thần, là đến nơi sinh ra các sông thiêng như sông Hằng của Ấn
Độ, như sông Yarlung Tsangpo của Tây Tạng. Nếu đến được đó tôi sẽ đi thêm
khoảng 200km nữa là đến Tsaparang, kinh đô tàn tạ của vương quốc Guge. Người ta
không thể được tất cả, phải chăng phải còn một chỗ chưa đạt tới để lòng còn mơ ước,
tôi tự nhủ.
[21]
- Kailash, xem chương "Tháng ngày ấp ủ" trong phần thứ nhất
Đường từ Gyantse tới Shigatse là một
con đường đi qua một cao nguyên xanh tươi nằm trên độ cao 4000m, chạy dọc theo
con sông Nyang Chu. Nyang Chu chỉ là một con sông nhỏ, nước trong xanh. Tây
Tạng là xứ thưa dân, xe chạy cứ cả vài chục cây số mới thấy xuất hiện làng mạc
ruộng đồng. Thỉnh thoảng vài tu viện đổ nát hay phế tích nằm cao trên đỉnh đồi
hiện ra như một tiếng gọi trầm mặc vang vọng từ quá khứ. Đâu phải chỉ vương quốc
Guge, tất cả các triều đại của Tây Tạng đều đang tàn tạ.
Khoảng 20km trước khi đến Shigatse
ta có thể thấy tu viện Shalu. Tu viện này mới đầu được xây năm 1040, có kiến
trúc hỗn hợp của người Hán và Tây Tạng. Ngày nay ta còn thấy mái của tu viện
được lợp bằng một thứ ngói có tráng men xanh của đời nhà Nguyên, đó loại ngói
ta hay thấy tại các chùa của Trung Quốc. Ngói này cũng là loại ngói tráng men
của các cung điện xứ Huế. Dưới mái ngói này của tu viện Shalu thuộc phái
Tát-ca, Buton đã tu học và kết tập kinh điển thành các bộ Kanjur và Tanjur.
Trong tu viện Shalu này Buton cũng đã lấy tên của tu viện mà sáng lập ra bộ
phái Shalupa.
Xe đến Shigatse lúc trời đã tối. Đây
là đô thị lớn thứ hai sau Lhasa
và bộ mặt của nó đang dần dần biến thành một thành phố nhỏ của Trung Quốc với
các sạp hàng với cửa cuốn bằng kim loại. Lại những cơ quan nhà nước với hai
người lính bồng súng trước cửa. Cách đó không xa là các tiệm ăn, trước mỗi tiệm
cũng có hai người Hán, nhưng là hai cô gái đứng trước cửa mời chào chúng tôi.
Shigatse đã được xây dựng trên một
độ cao 3900m khoảng trong thế kỷ thứ 13. Shigatse có một tu viện nổi tiếng, đó
là Tashilhunpo, nó được kiến lập năm 1447. Tu viện này do các đệ tử của
Tông-khách-ba trụ trì. Nó nổi tiếng ở chỗ các sư trưởng đầu tiên của nó chính
là vị Đạt-lai thứ nhất và thứ hai và các vị sư trưởng thừa kế được gọi là
Ban-thiền lạt-ma. Khi vị Đạt-lai thứ năm lên ngôi thì vị thầy của ông tên là
Choki Gyeltshen (1475-1542] được phong làm Ban-thiền đời thứ tư.
Vì Đạt-lai là hiện thân của Quán Thế
Âm nên Ban-thiền, thầy của Đạt-lai được xem là hiện thân của A-di-đà. Các vị
Đạt-lai và Ban-thiền được xem là đời đời làm thầy trò của nhau, vị này ấn chứng
cho vị kia khi một vị được khám phá là mới tái sinh. Potala là cung điện của
dòng Đạt-lai và Tashilhunpo là tu viện của dòng Ban-thiền. Hai dòng đều có
trách nhiệm giáo hóa của mình nhưng công việc chính sự chỉ do các vị Đạt-lai
nắm giữ. Thế nhưng trong thế kỷ hai mươi, với sự có mặt của Trung Quốc, vấn đề
không còn đơn giản như thế.
Tôi đến tu viện Tashilhunpo, từ xa
đã thấy mái điện mạ vàng sáng rực. Điện có nhiều công trình, được bao bọc xung
quanh bởi một lớp tường thành mà tín đồ Tây Tạng nào cũng đi một vòng trước khi
bước vào. Toàn thể công trình của điện chiếm một diện tích 150.000 mét vuông.
Điện được xây dựng để thờ Di-lặc, vị Phật tương lai và vì thế trong chính điện
ta thấy ngay bức tượng vĩ đại của Ngài với chiều cao 27m, đúc toàn bằng đồng.
Tôi yêu tượng Di-lặc của Tây Tạng hơn cách trình bày Ngài của Trung Quốc. Mỗi
lần đến đảnh lễ tượng Di-lặc của Tây Tạng tôi đều nhìn lên để thấy cặp mắt xanh
biếc đầy trí tuệ của Ngài.
Tôi nhớ Ung Hòa cung tại Bắc Kinh
với bức tượng Di-lặc cao 18m đẽo từ một cây gỗ trầm hương. Nơi đó Ngài đã nhắc
tôi "không có gì được thành tựu hết". Đó là cách nói của Ngài mà ngày
nay ta sẽ nói một cách hiện đại là "không có gì tồn tại trên cơ sở tự tính
cả" [22]. Bức tượng tại Tashilhunpo cao hơn tại Ung Hoà cung, cặp mắt Ngài
vẫn xanh biếc, hình như nhìn ngắm những gì diễn ra tại Shigatse lịch sử này một
cách bí ẩn và hóm hỉnh. Vì rằng những gì xảy ra tại Shigatse cũng chẳng có tự
tính, tất cả đều dựa lên nhau mà thành.
[22]
- Phạn ngữ: svabhavasiddhi (siddhi: thành tựu), Anh ngữ: inherent existence
Điều gì đã xảy ra tại Shigatse và
Tashilhungpo? Đã từ lâu Trung Quốc tìm cách chia rẻ hai dòng Đạt-lai và
Ban-thiền. Khoảng năm 1924 Đạt-lai thứ 13 và Ban-thiền thứ 9 có mâu thuẫn với
nhau, kể từ khoảng thời gian đó ta có thể nói Ban-thiền chủ trương thân Trung
Quốc, còn quan điểm của Đạt-lai là duy trì và phục hồi nền độc lập chính trị
của Tây Tạng. Khi Trung Quốc tiến quân vào Tây Tạng và Đạt-lai thứ 14 lưu vong
đi Ấn Độ năm 1959 thì sau đó vị Ban-thiền thứ 10 cũng bị giam lỏng tại Bắc
Kinh. Đến năm 1978 Bắc Kinh bỗng nhiên tôn vị Ban-thiền lên làm phó chủ tịch
Quốc hội.
Mưu kế đó không mới mẻ cho lắm,
chẳng qua là một biện pháp chính trị để giữ "mặt trận đoàn kết dân
tộc". Tháng giêng năm 1989, Ban-thiền được về lại Shigatse, đến tu viện
Tashilhunpo để làm lễ tế tự cho tháp mới xây của các vị Ban-thiền từ thứ 5 đến
thứ 9. Trong buổi lễ đó, bỗng nhiên Ban-thiền thứ 10 chết, lúc đó ông mới 51
tuổi. Ông ít khi được về lại Tashilhunpo, nay về lại tu viện của mình sau khi
bị giam lỏng và chết ngay tại lúc tế tự các tiền thân của chính mình. Bí ẩn
thay cái chết của ông. Về mặt chính thức thì ông chết vì bịnh tim, nhưng ai
biết được điều gì đã xảy ra.
Ngày nay tại Tashilhunpo khách có
thể đi thăm tháp thờ di cốt hai vị Đạt-lai thứ nhất và thứ hai, tháp của các vị
Ban-thiền thứ 5 đến thứ 9. Và kể từ khoảng 10 năm nay có thêm tháp của vị
Ban-thiền thứ 10 mà hình chụp của ông cho thấy là một người thông thái và khỏe
mạnh. Dưới chân Di-lặc bao nhiêu điều đã xảy ra, hẳn chỉ có Ngài mới biết rõ.
Đối với Di-lặc, cái chết hiển nhiên không phải là sự chấm dứt. Còn đối với tôi,
cái chết bí ẩn của Ban-thiền chỉ lập lại thêm một lần nữa, là Phật giáo hãy xa
rời triều đình và quyền lực, hãy bỏ lại đằng sau "tám bận tâm thế
gian" [23].
Sau khi Ban-thiền thứ 10 chết, dĩ
nhiên người ta đi tìm thân tái sinh của ông. Theo nguồn tin chưa chính xác, vị
Đại-lai hiện nay đã xác định một thiếu niên sinh đầu những năm 90 là hậu thân
của ông. Thế nhưng không ai tiết lộ thiếu niên này hiện đang ở đâu vì lý do an
ninh. Còn những người lãnh đạo Bắc Kinh cũng tuyên bố đã tìm ra hậu thân của
Ban-thiền thứ 10. Buồn cười thay, họ đâu tin có sự tái sinh mà phải cất công đi
tìm và ngày ngày phải lo cung dưỡng vị đó tại Bắc Kinh. Ngày nay tại Tashilhunpo
hình của thiếu niên đó do Bắc Kinh "ấn chứng" được thờ như Ban-thiền
thứ 11. Hỡi Di-lặc, cái nhìn của Ngài có gì bí ẩn và hóm hỉnh?
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT