Stierlitz bật dậy khỏi mặt đất phủ đầy lá sồi gỉ sét. Đâu đây, có một màu xanh ngọc lục bảo tươi sáng ló dạng; không hiểu sao anh lại cảm thấy sợ hãi - thật giống với một cô gái thiếu niên; Marika Rokk đang ca khúc cuối trong bài hát về mười bảy khoảnh khắc mùa xuân, về hình ảnh cây cối xoay tròn trong điệu valse, và một con mòng biển, bị dòng nước xiết cuốn trôi, sẽ chết đuối, và không ai có thể cứu được nó; giọng của Rokk, hơi khàn, và vì thế, bằng cách nào đó, lại đặc biệt dịu dàng, thân mật, đã lên đến đỉnh điểm; giờ là hợp âm cuối cùng; sự im lặng nặng nề bao trùm; phát thanh viên bắt đầu đọc tin tức mới nhất từ tiền tuyến; giọng điệu - chiến thắng, cao cả; "sự anh hùng của các kíp xe tăng, chiến thắng của các hiệp sĩ Không quân, những cuộc phản công dữ dội từ lực lượng SS bất khả chiến bại"...
Stierlitz tiến lại gần xe, tắt radio, ngồi vào ghế lái và di chuyển về hướng Berlin...
Khi này, anh chưa vội tăng tốc, như thể đang cố kéo dài cảm giác im lặng và cô độc giờ chỉ thuộc về mình anh.
Anh không muốn, hay đúng hơn, không thể tưởng tượng được điều gì đang chờ đợi mình trong ba tiếng nữa khi anh trở về. Anh lái xe chậm rãi, cố gắng ép mình không suy nghĩ gì cả; cố gắng thư giãn hoàn toàn; tuy nhiên, anh càng kiên trì ra lệnh cho mình đừng nghĩ ngợi, những câu hỏi càng vang lên dai dẳng trong anh, và mỗi câu hỏi là một kích thích cho suy nghĩ, là khởi đầu trong những khởi đầu của sự hành động, là tiền đề cho một hành động cụ thể.
Rồi Stierlitz quyết định chơi khăm chính mình: anh buộc mình phải nhớ lại khuôn mặt của Sasha bé nhỏ; nó đã sống mãi trong anh kể từ năm 1922 xa xôi, nhưng ký ức này giờ đây đã trở nên quá đỗi ám ảnh, quá đỗi xa xôi tới mức không thể đổi thay, tới nỗi Stierlitz thậm chí phải nhắm mắt lại một lúc, bỏ lỡ một biển báo khác, nhưng anh tự nhủ: “Đây là cây số thứ hai trăm mười ba, đừng vội, mọi chuyện sẽ ổn thôi, hay đúng hơn, mọi chuyện phải ổn, nếu không thì bất công sẽ xảy ra, và mày không đáng bị như vậy. Nhưng liệu bất công có phải là một phạm trù được phê bằng con dấu “xứng đáng”? Bất công là biểu hiện cao nhất trong sự phi logic của sự sống: chính xác hơn, nó rơi vào những kẻ không xứng đáng phải nhận nó, những kẻ cố gắng sống theo quy tắc bất thành văn về lòng tốt… Hãy xem mày tự khen mình như thế nào kìa,” Stierlitz cười toe toét, “không trực tiếp, nhưng khá rõ ràng… Một con người luôn yêu thích biết bao khi nhận được lời ngợi khen. Nhưng nếu chẳng có ai để khen thì sao? Chà, như người ta vẫn nói, cánh tay một con người là vị chủ nhân của anh ta… Có lẽ, khi còn trẻ, Quốc trưởng rất thường nghe thấy những tràng pháo tay vang dội và tên của ông ta được hàng ngàn người nhai lại. Anh tự hỏi, liệu người Đức có thể đưa ra quyết định nghiêm trọng như việc bắt lãnh tụ của họ đi phân tích tâm thần? Này, này, này, ngài mắc chứng hoang tưởng, thưa quý ngài đáng mến, ngài không được phép áp đặt ách cai trị lên nhân dân, mà phải nghỉ ngơi trong viện điều dưỡng, để củng cố lại hệ thần kinh; ngài có thể tập vẽ, màu nước rất tốt cho hệ thần kinh; tập thơ thì được phép, sẽ có tiếng vỗ tay khi ngài đọc thơ cho quần chúng nghe, những cô gái luôn thèm những vần thơ ngọt ngào... Nhưng không, thơ ca là thiêng liêng, những kẻ hoang tưởng không nên được phép tới gần nó... Một câu nói kinh khủng: "Ông không được phép tới gần thơ ca"... Thật đáng xấu hổ cho mày, Isaev à, mày vừa buông lời xấu xa: thơ ca sẽ từ chối mọi thứ không được phê bằng dấu ấn của sức khỏe đạo đức..."
Anh nhớ lại kỳ nghỉ của mình vào mùa thu năm 1937, khi bộ chỉ huy cho phép anh vượt mặt trận gần Guadalajara sau khi đã cẩn thận viết một bản báo báo nhằm che mắt Berlin về "nhu cầu gặp gỡ các điệp viên SD được cài cắm trong Cộng hòa Tây Ban Nha." Tại "cửa sổ", anh đã gặp lại Grisha Syroezhkin, họ trở thành bạn bè vào năm 1921, khi Dzerzhinsky cử Isaev đến Tallinn - để điều tra vụ trộm kim cương từ Kho Lưu trữ Nhà nước, và Grisha đã giữ liên lạc với anh và Shelekhes con, Trưởng trạm Cheka tại Estonia.
…Syroezhkin đưa anh đến một dinh thự nhỏ gần Valencia, nơi Vladimir Antonov-Ovseenko, Mikhail Koltsov, Rodion Malinovsky, Hadji-Murat Mamsurov, Yakov Smushkevich và Roman Karmen tụ họp. Maxim Isaev là bạn của mỗi người trong số họ từ những năm tháng tươi đẹp của phong trào Cách mạng, khi Antonov-Ovseenko thường xuyên đến thăm Dzerzhinsky; Rodion Malinovsky đi cùng Vasily Blyukher, người đã chở Isaev đến Vladivostok; anh có dịp gặp Yakov Smushkevich, khi ấy là cố vấn hàng không của nền Cộng hòa, hồi Blyukher và Mikhail Borodin còn ở Trung Quốc – họ đã góp phần tạo nên Hồng quân Cách mạng…
Anh chỉ ở lại với bạn bè đúng một đêm. Không ai chợp mắt nổi. Họ nhớ lại những người bạn cũ: Pavel Postyshev, Jekabs Peters, Nikolai Podvoisky, Mikhail Kedrov, Grigory Petrovsky, Nikolai Krylenko, Artur Artuzov.
Sau đó, Isaev ra một căn phòng nhỏ với Antonov-Ovseenko - Tổng Lãnh sự tại Tây Ban Nha và là người chịu trách nhiệm mọi chuyện.
“Maxim,” Antonov-Ovseenko châm một điếu thuốc, “Tôi biết giờ đây cậu rất mong mỏi được viết báo cáo xin được triệu hồi về Tổ quốc, tôi biết sức lực của cậu đang dần cạn kiệt, tôi hiểu tất cả, đồng chí ạ… Nhưng tôi sẽ không chuyển báo cáo của cậu về Trung tâm, bởi vì cuộc chiến chống phát xít - với muôn vàn bộ mặt như gã người sói - chỉ mới bắt đầu, và đó sẽ là một cuộc chiến dài hơi và đẫm máu.“
Antonov-Ovseenko rít một hơi thật dài, nhìn Isaev hồi lâu, quan sát anh, rồi thở dài và mỉm cười một cách lạ kỳ:
“Cậu biết đấy, dưới tư cách một quân nhân - tôi đã lên chuẩn úy từ năm thứ năm, với ba mươi hai năm phục vụ - xét cho cùng, tôi rõ tất cả những loại mệnh lệnh quân sự… Nhưng có một điều không nằm trong quân lệnh: ‘Lệnh sinh tồn’… Cậu hiểu chứ?”
“Tôi hiểu,” Isaev đáp. ”Nhưng liệu ở quê hương, họ có nhận ra rằng…”
Antonov-Ovseenko ngắt lời anh:
“Maxim. Ở đó, họ hiểu rõ mọi chuyện. Rõ chưa? Mọi chuyện.”
“Mệnh lệnh là phải sống sót,” Stierlitz tự lặp lại những lời của Antonov-Ovseenko. “Nhưng chỉ theo định luật lương tâm. Nếu không, mày phải biến mất. Mạng sống phải trả giá bằng sự nhục nhã không phải là sống, mà chỉ là sự tồn tại rỗng không…”
Anh nhớ lại năm 1927, tại Thượng Hải, anh nhận được lệnh thâm nhập phong trào Quốc xã từ Menzhinsky. Khi ấy, trong thâm tâm - anh càng đào sâu vào tư tưởng của Hitler - thì dường như anh càng cảm thấy Trung tâm đã nhầm lẫn khi tin rằng tên cuồng tín này thực sự nguy hiểm, rằng hắn có thể lên nắm quyền. Chỉ đến năm 1933, anh mới hiểu Vyacheslav Rudolfovich đã đúng như thế nào khi ông cho rằng điều khủng khiếp nhất có thể xảy ra từ sáu năm trước đó, điều khủng khiếp ấy – Đảng Quốc xã lên cầm quyền – đã xảy ra.
Cho đến tận bây giờ, Stierlitz – dù có suy nghĩ bao nhiêu về những lý do đã đưa Quốc trưởng lên nắm quyền – cũng không thể tự mình lý giải được hiện tượng này. Đúng vậy, sự bất hòa giữa những người Dân chủ Xã hội và những người Cộng sản, việc thiếu vắng một mặt trận thống nhất sẽ đưa ra kết quả tất yếu là phe cực hữu thắng thế, nhưng tại sao lại là Hitler?! Đầu những năm 1930, ở Đức đã có những thế lực đáng gờm, bảo thủ, kiên quyết chống Cộng: trước hết là quân đội; Stahlhelm; Đảng Dân tộc Đức. Tại sao không phải những khối này lên nắm quyền, mà lại là Hitler? Do một kiểu chơi chữ hoa mỹ về "chủ nghĩa xã hội", về sức hấp dẫn của nó đối với giai cấp công nhân? Sự thăng tiến - cùng với thuật ngữ "chủ nghĩa xã hội" - của tính ưu việt dân tộc? Nghĩa là, ngược lại với Moskva - không phải Quốc tế, không phải hạnh phúc cho tất cả, mà chỉ cho một chủng tộc được chọn làm chủ, dân tộc Đức? Phải chăng chủ nghĩa dân tộc cuồng tín, tức là sự tôn thờ bản thân, lại mạnh mẽ và mù quáng ngay từ đầu tới độ nó có thể che khuất tầm nhìn của ký ức lịch sử? Không một phong trào dân tộc nào được xây dựng trên ý tưởng về tính ưu việt của chủng tộc đã từng hoặc sẽ có thể giành được chiến thắng cuối cùng, điều này ai cũng rõ. Vậy thì Hitler đã lừa gạt được con người của những Goethe, Wagner, Hegel, Heine, Beethoven và Bach như thế nào? Phải chăng chính nhân dân, toàn thể nhân dân, muốn đổ lỗi cho người Do Thái, người Digan và những âm mưu từ Quốc tế Cộng sản về tình trạng thiếu bánh mì và bơ thực vật trong nước? Hay là nhân dân nói chung luôn muốn đổ lỗi cho thực tại lên kẻ khác? Để những con dê tế thần này lại trở thành vị cứu tinh? Vậy là Hitler đã chơi đúng lá bài hèn hạ này, khơi gợi những điều tồi tệ nhất, những điều ẩn giấu sâu nhất bên trong con người, đặc biệt là ở những kẻ yếu đuối và thiếu học thức! Nhưng đặt cược - vào những kẻ hèn nhát và yếu đuối còn hơn cả một tội ác; điều này chỉ có thể mang lại lợi ích ban đầu; kết quả cuối cùng hoàn toàn có thể đoán trước: sự sụp đổ toàn diện, nỗi nhục quốc thể, sự hủy diệt của cả thể chế…
"Quốc trưởng quan tâm đến tất cả những thứ này làm gì?" Stierlitz nghĩ. "Ông ta luôn sống chỉ vì một điều duy nhất: chất kích thích mang tên 'Adolf Hitler'; quả thực, trong suy nghĩ, ông ta liên tục nghe thấy tiếng hoan hô và tiếng hò reo của đám đông, lặp đi lặp lại tên của ông ta... Không, một chính trị gia còn phải được thử thách bởi lòng tốt bẩm sinh của mình, bởi vì một người tốt trước tiên phải nghĩ đến người khác, và sau đó mới nghĩ cho bản thân mình..."
Stierlitz cảm thấy mệt mỏi, một sự mệt mỏi ngột ngạt khủng khiếp. Berlin dần hiện ra từ phía xa; anh đoán được dáng hình thủ đô của Đế chế qua làn khói tang tóc từ lò hỏa táng đang bốc lên bầu trời cao trong xanh: các cuộc không kích của Anh - Mỹ giờ đây diễn ra 24/24.
“Nếu mình dừng lại lần nữa,” Stierlitz chợt nhận ra sự thật hiển hiện, “và ra khỏi xe, ngồi xuống đất (anh tự động nhận ra rằng ở đây, xa hơn về phía Bắc, ven đường vẫn chưa mọc cỏ xanh, và những lưỡi tuyết trong rừng phủ đầy bụi than, vì những cơn gió mang làn khói từ đám cháy đi xa hàng chục cây số), thì có lẽ mình sẽ không cưỡng lại được, có lẽ mình sẽ không kiềm chế nổi và quay đầu lại; mình sẽ đến Basel, vượt biên giới và ngủ trong khách sạn nhỏ đầu tiên mình tìm thấy - cách nước Đức khoảng hai trăm mét, ngay đối diện nhà ga, đường phố yên tĩnh, lặng thinh, dù anh có thể nghe thấy tiếng còi của đầu máy xe lửa; nhưng thật tuyệt vời khi được nghe chúng hú đợt còi buồn bã, bắt đầu một cuộc hành trình; bố đưa mình đến một nhà ga nhỏ gần Moskva - hình như tên là Malakhovka - và hai người lắng nghe thật lâu tiếng tàu hỏa vun vút lao qua, nhanh chóng đếm những gì thuộc về riêng chúng tại mỗi ngã tư, những gì chỉ có chúng mới hiểu được... Mày không thể dừng lại ngay bây giờ, anh bạn già... Hãy về nhà, tắm rửa, uống một tách cà phê đặc rồi quay trở lại làm việc..."
Khi chỉ còn ba vòng nữa là về đến nhà, Stierlitz phanh gấp: một con mèo đen với đôi mắt ngọc lục bảo hoang dại chạy qua đường.
Anh biết rằng ở đây, than ôi, sẽ chẳng có ai vượt xe anh: gần như chẳng còn chiếc xe nào ở Babelsberg nữa - tất cả đều đã bị tịch thu để phục vụ nhu cầu của tiền tuyến, còn những chiếc không phù hợp để phục vụ quân đội - những chiếc "Deka" gù làm từ gỗ - thì được đỗ trong gara - xăng bị hạn chế nghiêm ngặt; anh hiểu rằng sẽ phải đợi rất lâu mới thấy kẻ qua đường nào đó bước qua ranh giới vô hình mà con mèo đã bỏ lỡ: người ta chỉ rời khỏi nhà trong những trận bom để trốn dưới hầm trú ẩn; giờ đây mọi người sống trong sự bí mật, chen chúc, chờ đợi cái kết không thể tránh khỏi - giờ đây, tất cả mọi người trong Đế chế đều hiểu rõ điều này, tất cả mọi người ngoại trừ vị Quốc trưởng vĩ đại của dân tộc Đức, kẻ đã bắt giữ nhân dân làm những con tin câm lặng đã không còn chút quyền lực cho cá nhân mình một cách cuồng tín và đầy tàn nhẫn.
"Mình sẽ đợi," Stierlitz vẫn tự nhủ khi anh tắt máy. "Nếu có một điều mình biết, thì đó là chờ đợi. Tuy nhiên, một con mèo đen chạy từ trái sang phải, vào buổi chiều, vào đêm trước khi mình trở về chốn địa ngục - là một điều tồi tệ, bất kể người ta có nói gì..."
Với lớp ý thức thứ hai, anh hiểu rằng con mèo đen chỉ là một cái cớ cho phép lớp ý thức đầu tiên, chính yếu, lạnh lùng và đầy logic ra lệnh cho bàn tay vặn chìa khóa khởi động: mỗi người đều sở hữu những lớp đa chiều, và tùy thuộc vào mức độ tài năng, số lượng các lớp bí ẩn này trong vỏ não sẽ nhân lên với gánh nặng suy nghĩ và cảm xúc, thường đối lập trực tiếp với nhau.
"Mình chỉ cần tính lại tất cả thôi," Stierlitz tự nhủ. "Mình đã lung lay ngay từ lúc đồng ý trở về. Mình hiểu rằng với thỏa thuận này, rõ ràng mình đã tự ký vào bản án tử hình... Nhưng chỉ có kẻ bệnh mới không còn cảm giác sợ hãi... Vậy nên, bằng việc đồng ý trở về, mình đã để lại cho bản thân ít nhất một tia hy vọng, phải không? Chắc chắn rồi. Mình có thể bị phơi bày bởi điều gì? Bởi tất cả mọi thứ... Đó không phải là câu trả lời, anh bạn già ạ, câu trả lời này quá dễ dàng, đừng tự lừa dối mình. Anh hiểu rằng một trong những điểm yếu chính là chị gái của ông mục sư và những người con của bà ấy. Nếu họ bị tìm thấy và đưa về Gestapo, mình sẽ không được tha thứ. Đó là một. Tất nhiên, rất khó, việc tìm thấy họ gần như là bất khả thi, tài liệu thì đáng tin cậy, và quân Mỹ sắp tới những ngọn núi ấy, nhưng mình đã đặt niềm tin tuyệt đối vào sự an toàn của Pleischner, và ông ấy đã chết... Bản thân ông mục sư thì sao? Gestapo có thể đánh tới ông ấy không? Khó lắm... Chúng sẽ không thể kéo ông ấy ra khỏi Bern, lực lượng của chúng không còn như trước nữa... Mặc dù mình không được biết tất cả lực lượng của họ... Còn nếu Schellenberg liên lạc được với Müller? Khi đó câu hỏi đầu tiên của anh ta sẽ là: "Làm sao mà Kaltenbrunner và Bormann biết được về các cuộc đàm phán giữa Wolff và Dulles?" Mình phải nghĩ ra một lời biện hộ, nhưng mình không thể tự lực trấn tĩnh, và giờ một con mèo đã đi ngang qua chỗ mình, vậy nên mình có quyền ngồi chờ cho đến khi có người rờ đến cái mớ chết tiệt này trước... Được rồi, nhưng nếu cơ quan biên phòng lại đưa ra một sáng kiến đê tiện khác là bí mật chụp ảnh tất cả những người vượt qua biên giới của Đế chế thì sao? Và giờ Müller đang nhìn vào chân dung của Katya và của mình?... Mình sẽ trả lời thế nào đây? Mà thực ra, tại sao hắn ta lại phải hỏi mình về điều này ngay lập tức? Hắn sẽ cho thiết lập giám sát và rồi hạ gục mình khi mình nối liên lạc với những trung gian đã được sắp xếp cho mình ở Potsdam hay Wedding, hai nhân hai.”
Stierlitz mệt mỏi ngước lên: tấm gương dọc cho thấy một con phố vắng tanh - không một bóng người.
"Thì sao?" anh phản đối cái phần trong mình đã bình tĩnh lại vì chưa bị giám sát. "Ở đất nước này, chúng có thể dễ dàng gọi ba người hàng xóm và yêu cầu họ ghi lại mọi đoạn đường xe mình đi qua, tất cả những chiếc xe đang chạy về phía mình, tất cả những người lái xe đạp, người đi bộ và người đi xe máy... Và họ sẽ ngoan ngoãn ghi lại, viết, rồi báo cáo qua điện thoại... Nhưng mình đang lẩn tránh câu hỏi quan trọng nhất... Và Schellenberg sẽ là kẻ đặt câu hỏi... Với nụ cười thường trực, anh ta sẽ đề nghị mình viết báo cáo về công việc của mình ở Thụy Sĩ trong những ngày mình vạch trần Wolff. Anh ta sẽ yêu cầu một báo cáo ngay tại văn phòng của anh ta - kèm theo địa chỉ nơi mình gặp ông mục sư, những số điện thoại mình đã gọi... Và khi ở Bern, họ rất có thể đã theo dõi mình... Mình đã tin rằng mình sẽ được phép trở về nhà, và vì vậy đã kiểm tra quá sơ sài. Mày đã kiểm tra quá sơ sài, Isaev à, vì vậy hãy nhớ lại những nơi mình có thể để lại dấu vết. Đầu tiên, tại nhà trọ "Virginia", nơi Pleischner đã ở. Müller đã hứa với mình một cuộc đối chất với kẻ đã mang mật mã của mình đến căn nhà trú ẩn của Gestapo trên phố Blumen... Pleischner đã không cho hắn ta tận hưởng niềm vui này, Pleischner nhỏ bé, mắt lồi, táo bạo… Nhưng việc mình để ý đến ông, việc mình đến nhà trọ nơi ông đang ở – nếu điều này được ghi lại bởi hệ thống giám sát ngoại quốc – sẽ là mắt xích còn thiếu trong hệ thống bằng chứng về tội lỗi của mình… Vậy thì… Còn gì nữa? Còn gì nữa đây? Rất đơn giản: Schellenberg sẽ yêu cầu triệu tập ông mục sư. “Tôi cần ông ta ở đây, trong phòng giam,” anh ta sẽ nói, “chứ không phải ở kia, ngoài tự do.” “Xét về mặt công việc thì điều này là hợp lý,” mình sẽ trả lời, “nhưng chúng ta đã nắm được Schlag, một đầu mối tuyệt vời cho đủ loại chuyện ở Thụy Sĩ.” Bây giờ là mười hai giờ kém mười. Ta vẫn còn chút thời gian trước khi đồng hồ điểm, liệu có đáng để cắt đứt mọi ràng buộc không? Đừng tự dối lòng mình, điều này thật ngu ngốc và do đó là thiếu trung thực với bản thân. Schellenberg sẽ không chịu nghe lý lẽ, anh ta là một kẻ bốc đồng, giống như tất cả những kẻ khác trong cái Đế chế thối nát này. Ta không thể kiểm soát được các quyết định từ những con quỷ đã lên nắm quyền: hành vi của chúng là không thể kiểm soát, chúng không thể được bầu lại hay bãi nhiệm vì lý do công vụ, chúng sẽ chỉ rời đi cùng với nhà nước này. Nhân tiện, việc mình phanh gấp và đứng giữa đường trong năm phút sau khi con mèo chết tiệt ấy rời đi lại có lợi cho mình: chỉ một kẻ thẳng thắn mới có thể hành động như vậy; dưới góc nhìn của Müller, không một sĩ quan tình báo nào lại muốn thu hút mọi sự chú ý về phía mình... Làm tốt lắm, Stierlitz! Không biết mình đã nghĩ ra "động cơ chú mèo" ngay từ đầu hay chỉ vừa chợt ngộ ra? "Mình không tự đi khai, và đó là một hình thức bào chữa... Mình không được trả lời cả Müller lẫn Schellenberg, mình phải ép họ hỏi ra trước... Và mình chỉ có thể làm được điều này bằng một cách: kẻ đầu tiên mình gặp phải là Bormann. Mình sẽ đưa cho ông ta đoạn phim mà ông mục sư đã lấy được về cuộc đàm phán giữa Wolff và Dulles... Tại sao không? Người La Mã đã làm gì nhỉ? Chia để trị... Mà từ nhà mình thì không thể gọi cho Bormann được... Tại sao mình lại nghĩ họ sẽ cho mình gọi từ đó, nếu Müller đã cho tụi đao phủ của hắn đóng chốt ở đấy rồi?"
Anh vặn chìa khóa xe, nhìn - hoàn toàn tự động - vào gương và thấy một cậu bé đang chạy dọc vỉa hè với một chú chó; cậu bé chạy trong nỗi sợ, đầu gục vào vai, dường như đang chờ đợi một cuộc đột kích; khuôn mặt cậu bé nhăn nheo như tờ giấy da - điều này thường xảy ra với người già ngay trước khi chết, khi đôi tai phình to một cách bất thường, dái tai cụp xuống, chuyển sang màu xám xanh như sáp.
Stierlitz từ từ chuyển số, giảm tốc xuống một lúc, mỉm cười khích lệ với cậu bé rồi mới quay lại lái xe vào trung tâm thành phố - ở đây, gần ga tàu điện ngầm, các bốt điện thoại công cộng vẫn còn hoạt động đây đó. Có lẽ bạn có thể gọi điện từ các quán rượu trên Chợ Cá - gọi từ "Gottlieb Hung Bạo" thì vô ích, mọi cuộc trò chuyện ở đó đều bị Gestapo địa phương ghi âm, và chính bản thân Gottlieb cũng lắng nghe. Theo Luật ban bố bởi Đế chế ngày 7 tháng 6 năm 1934, mọi chủ nhà hàng, khách sạn, quán rượu, quán bar, quán cà phê hoặc quán bia đều có nghĩa vụ hợp tác với chính quyền và báo cáo lại tất cả những vị khách có hành vi đáng ngờ dù chỉ là nhỏ nhất. Nếu một người đến uống bia mà không cạo râu, ăn mặc luộm thuộm hoặc ngược lại, quá lịch sự, đặc biệt là trong bộ vest nước ngoài (phong cách Anh Quốc và Hoa Kỳ luôn rất dễ nhận thấy), nếu vị khách đó khóc hoặc cười quá to - nói tóm lại, nếu anh ta khác biệt với đám đông ở bất kỳ điểm nào, anh ta phải được báo cáo lại ngay lập tức cho Gestapo. Vì người Digan và người Do Thái bị cấm vào nhà hàng, quán cà phê và khách sạn - giống loài hạ đẳng phải bị tiêu diệt - và sau khi chiến tranh bùng nổ, công nhân Pháp được đưa tới Đế chế, những "Ostarbeiter" đến từ Ba Lan, Nam Tư và Liên Xô cũng bị cấm vào những nơi công cộng, hệ thống giám sát toàn diện đầy hà khắc đã giáng xuống những người mà Quốc trưởng từng tôn xưng một cách thảm hại là "chủng tộc thượng đẳng"; chính họ, những "quý ngài" ấy, phải chịu cảnh chứng kiến bản thân bị giam cầm trong một trại tập trung khổng lồ mang tên "Đại Đế chế của Dân tộc Đức", nơi "quyền tự do và phẩm giá của mọi thần dân Đế chế" được bộ máy tuyên truyền của Tiến sĩ Goebbels nhai đi nhai lại từng ngày, từng giờ.
...Stierlitz giảm tốc gần ga tàu điện ngầm Điểm Adolf Hitler, đi vòng quanh chiếc Horch phủ bụi của mình và thầm nhủ rằng anh cần phải rửa xe ngay lập tức, nếu không cảnh sát sẽ lập tức báo lên cho hệ thống (biển số xe của anh là biển số chính thức; mỗi tổ hợp chữ cái được gán cho một hoặc nhiều bộ của Đế chế, giúp việc theo dõi quá trình di chuyển trên đường phố dễ dàng hơn; các báo cáo đặc biệt về chuyến đi của những nhân vật quan trọng "tầm trung" được một đơn vị đặc biệt của lực lượng cảnh sát giao thông kiểm tra mỗi ngày, và sau đó báo cáo về các tuyến đường của những chiếc xe công vụ có vẻ thiếu chuẩn mực sẽ được gửi đến Gestapo).
Khi thả hai đồng mười pfennig vào điện thoại, Stierlitz nghĩ: "Nhưng nếu mình gọi Bormann trước, mình sẽ ngay lập tức khiến Müller quay lưng lại với mình." Hắn ta sẽ vui mừng biết bao khi nói với mình: "Thấy chưa, Stierlitz, tôi đã chiêu mộ anh dễ dàng thế nào - mười phút thôi, và mọi thứ lại đâu vào đấy!" Mình không nên bỏ qua hắn ta. Ngay lúc này, trong những gì đang chờ đón mình ở phía trước, rốt cuộc hắn ta sẽ là "số một"... Mình phải gọi cho gã Scholz của hắn ta và bảo anh ta báo cáo với Thủ trưởng về sự trở lại của mình, và sắp xếp thời gian cho một cuộc gặp, bởi vì mình có thông tin cực kỳ quan trọng... Và chỉ sau đó, mình mới gọi cho Bormann... Làm tốt lắm, Stierlitz, mày đã kịp thời đưa ra một sự điều chỉnh cực kỳ quan trọng. Trong khi người ta vẫn nói rằng tổng số không thay đổi khi bạn sắp xếp lại các điều khoản... Không đời nào, chắc chắn là có đấy... Nhưng đã không vô ích khi mình gạt bỏ câu hỏi chết tiệt đã dày vò mình kể từ lúc anh chàng trong quán bar gửi tới lệnh yêu cầu mình trở về Đế chế... Ừm, tất nhiên rồi, không phải là một mệnh lệnh, mà là một yêu cầu, tất nhiên rồi... Mình sợ phải tự vấn chính bản thân câu hỏi này: "Vì sao mình phải trở về?" Có lẽ khi ở Thụy Sĩ, đọc báo Nga, đơn giản là mình không thể tưởng tượng nổi việc những người ở quê hương lại có thể biết nhiều hơn mình, kẻ đang ngồi ngay đây, về những gì có thể xảy ra trong Đế chế? Nhưng rốt cuộc là gì? Là cái gì cơ chứ?!
***
...Sau khi gặp Bormann - như lần trước, trên xe của ông ta gần Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên - Stierlitz phần nào hiểu được tại sao sự trở về của anh lại có lợi cho Moskva...