Hugh bật ho, và những con ong lao ra khỏi miệng cậu ta tạo thành một dấu hỏi run rẩy trong không khí. “làm sao cậu dám chắc là vậy?” Hugh hỏi.

“Vì tớ tin chắc, thế thôi.” Và cô giơ hai bàn tay ra như thể chỉ có vậy.
“Cậu vừa có một bài diễn văn đầy hào khí rất hay ho,” Millard nói, “và tớ ghét phải làm hỏng nó, nhưng từ những gì chúng ta biết, cô Peregrine là Chủ Vòng Thời Gian duy nhất chưa bị bắt. Hãy nhớ lại những gì cô Avocet đã nói với chúng ta: bọn xác sống đã tấn công các Vòng và bắt cóc các Chủ Vòng từ nhiều tuần trước rồi.

Như thế có nghĩa là dù có thể tìm thấy một Vòng Thời Gian, chúng ta cũng chẳng có cách nào để biết liệu Chủ Vòng còn đó hay không - hay thay vì thế kẻ thù của chúng ta đang chiếm cứ nó. Chúng ta không thể cứ khơi khơi tới gõ cửa các Vòng Thời Gian và hy vọng trong đó không đầy ắp xác sống.”

“Hay có cả đống hồn rỗng đang đói ngấu bu quanh,” Enoch nói.

“Chúng ta sẽ không phải hy vọng,” Emma nói, sau đó mỉm cười về phía tôi. “Jacob sẽ nói cho chúng ta biết.”

Cả người tôi lạnh toát. “Tớ?”

“Cậu có thể cảm thấy đám hồn rỗng từ xa mà, phải không nào?” Emma nói. “Bên cạnh khả năng nhìn thấy chúng?”

“Khi chúng ở gần, lúc đó tớ có vẻ cảm thấy như mình sắp nôn ọe vậy,” tôi thừa nhận.

“Chúng cần phải ở gần tới mức nào?” Millard hỏi. “Nếu chỉ là vài mét, như thế chúng ta vẫn ở trong tầm bị xơi tái. Bọn tớ cần cậu cảm nhận được chúng từ xa hơn nhiều.”

“Chính xác thì tớ chưa thử,” tôi nói. “Tất cả chuyện này còn quá mới với tớ.”

Tôi chỉ mới chạm trán con hồn rỗng của bác sĩ Golan, Malthus, con quái vật đã sát hại ông tôi, sau đó thiếu chút nữa đã dìm tôi chết đuối dưới đầm lầy ở Cairnholm. Hắn đã ở cách bao xa khi lần đầu tiên tôi cảm thấy hắn rình rập tôi, lẩn khuất bên ngoài nhà tôi ở Englewood? Không thể biết được.

“Dù sao đi nữa, tài năng của cậu có thể được phát triển,” Millard nói. “Các năng lực đặc biệt cũng ít nhiều giống như cơ bắp vậy - cậu càng luyện tập nhiều, chúng càng to ra.”

“Chuyện này đúng là điên rồ!” Enoch nói. “Có thực tất cả các cậu liều lĩnh tới mức đặt cược tất cả vào cậu ta không đấy? Sao chứ, cậu ta chỉ là một cậu nhóc - một anh chàng bình thường mềm nhũn gần như chẳng biết gì về thế giới của chúng ta!”

“Cậu ấy không bình thường,” Emma nói, nhăn mặt như thể đó là lời sỉ nhục thậm tệ nhất. “Cậu ấy là một trong số chúng ta!”

“Vớ vẩn, ngớ ngẩn!” Enoch hét lên. “Cậu ta không thể trở thành anh em với tớ chỉ nhờ có một tí xíu máu đặc biệt trong huyết quản. và chắc chắn điều đó không thể khiến cậu ta trở thành người bảo vệ tớ! Chúng ta không biết cậu ta có thể làm gì - nhiều khả năng cậu ta chẳng phân biệt được giữa một con hồn rỗng ở cách xa năm mươi mét và mùi trung tiện!”

“Cậu ấy đã giết một gã trong bọn chúng, đúng không nào?” Bronwyn nói. “Đâm xuyên qua mắt nó bằng một cái kéo xén lông cừu! Lần cuối cùng cậu nghe nói tới một người đặc biệt còn trẻ như thế làm được việc tương tự là khi nào hả?”

“Chưa có, kể từ Abe,” Hugh nói, và khi tên ông được nhắc đến, cả đám trẻ chìm vào im lặng đầy kính cẩn.

“Tớ nghe nói có lần cậu ấy đã dùng tay không giết chết một gã,” Bronwyn nói.


“Tớ nghe nói cậu ấy đã giết một gã bằng một que đan và một đoạn dây,” Horace nói. “Thực ra tớ đã mơ thấy điều đó, vậy nên tớ chắc chắn cậu ấy đã làm được như thế.”

“Một nửa những chuyện đó chỉ toàn là được dựng lên, và cứ mỗi năm lại càng được thổi phồng thêm lên.” Enoch nói. “Anh chàng Abraham Portman tớ biết thêm chưa từng làm gì giúp chúng ta.”

“Cậu ấy là một người đặc biệt vĩ đại!” Bronwyn nói. “Cậu ấy đã chiến đấu dũng cảm và giết được hàng chục hồn rỗng vì chúng ta!”

“Rồi sau đó cậu ta bỏ chạy và bỏ mặc chúng ta ẩn núp trong ngôi nhà đó như những kẻ tị nạn trong khi cậu ta lang thang khắp nước Mỹ đóng vai anh hùng!”

“Cậu không biết cậu đang nói gì đâu,” Emma lên tiếng, đỏ bừng vì phẫn nộ. “Trong chuyện đó còn nhiều nguyên do hơn thế.”

Enoch nhún vai. “Dù sao đi nữa, tất cả chuyện đó đều không phải vấn đề,” cậu ta nói. “Dù các cậu có nghĩ gì về Abe, nhóc này cũng không phải là cậu ấy.”

Vào khoảnh khắc ấy tôi ghét Enoch, thế nhưng không thể trách cậu ta vì đã nghi ngờ tôi. Làm sao những người khác, chắc chắn và thuần thục những khả năng của mình đến thế, có thể đặt nhiều niềm tin tới vậy vào năng lực của tôi - một thứ tôi chỉ mới bắt đầu hiểu và biết mình có thể làm được mới vài ngày? Dường như chuyện tôi là cháu ai chẳng mấy ý nghĩa. Tôi chỉ đơn giản không biết mình đang làm gì.
“Cậu nói đúng, tớ không phải ông tớ,” tôi nói. “Tớ chỉ là một cậu nhóc từ Florida tới. có lẽ tớ đã gặp may khi giết được con hồn rỗng đó.”

“Vớ vẩn,” Emma nói. “Một ngày nào đó cậu sẽ trở thành một người diệt trừ hồn rỗng hệt như Abe.”

“Hãy hy vọng ngày đó sớm đến,” Hugh nói.

“Đó là số mệnh của cậu,” Horace nói, và cách cậu nói ra những lời này khiến tôi nghĩ cậu biết điều gì đó tôi không biết.

“Nếu đúng thế, mong Chim giúp đỡ tất cả chúng ta,” Enoch nói.

Đầu tôi quay cuồng. Gánh nặng từ kỳ vọng của họ đe dọa sẽ đè bẹp tôi. Tôi đứng lên, loạng choạng, và đi ra phía cửa hang. “Tớ cần chút không khí,” tôi nói, đẩy Enoch sang bên.

“Jacob, đợi đã!” Emma kêu lên. “Những chiếc khí cầu!”

Nhưng chúng đã bay đi từ lâu.

“Cứ để cậu ta đi,” Enoch lầm bầm. “Nếu chúng ta may mắn, cậu ta sẽ bơi trở lại Mỹ.”

***
Bước đi theo mép nước, tôi cố gắng - hay muốn - hình dung bản thân mình dưới góc nhìn của những người bạn mới: không phải là Jacob, cậu nhóc từng gãy xương mắt cá chân khi chạy theo một chiếc xe bán kem, hay từng miễn cưỡng nghe theo mệnh lệnh của bố và thất bại ba lần khi tìm cách giành lấy một chỗ trong đội chạy việt dã vốn chẳng phải đua tranh khốc liệt gì của trường cậu ta, mà là Jacob, người săn tìm các bóng ma, người giải nghĩa kỳ tài những cơn quặn thắt ruột, người phát hiện và diệt trừ những con quái vật chính hiệu có thật - và tất cả những điều đó có thể sẽ định đoạt sống chết cho cả đám trẻ đặc biệt vui vẻ chúng tôi.

Làm thế nào tôi có thể kế thừa di sản của ông tôi đây?

Tôi leo lên một đống đá nằm ngay mép nước và đứng đó, hy vọng cơn gió thổi đều đều sẽ hong khô bộ quần áo ẩm ướt của mình, và trong ánh sáng đang tắt dần tôi ngắm nhìn biển, một tấm bạt xám xịt không ngừng thay đổi tông độ, những sắc xám trộn lẫn vào nhau và tối sẫm. Ngoài xa, thỉnh thoảng một đốm sáng lại lóe lên. Cây hải đăng ở Cairnholm đang nhấp nháy lời chào tạm biệt cuối cùng của nó.

Tâm trí tôi trôi dạt đi. Tôi chìm vào một giấc mơ ban ngày.

Tôi thấy một người đàn ông. Ông ta trạc tuổi trung niên, người bê bết bùn bẩn thỉu, chậm chạp bò theo rìa một vách đá, mái tóc lơ thơ rối bời và ướt nhẹp xõa xuống khuôn mặt. Gió quất vào chiếc áo khoác mỏng của ông như thổi vào một lá buồm. Ông dừng lại, phủ phục xuống chống người trên hai khuỷu hay.

Hai bên khuỷu tay ông trượt xuống chỗ đất lõm ông đã tạo nên hàng tuần trước đó, trong khi ông lang thang dọc theo các vách đá ven biển này tìm những con nhạn biển đang kết đôi và tổ hải âu. Ông giơ một chiếc ống nhòm lên mắt, nhưng hướng nó xuống thấp, thấp hơn vị trí các tổ chim, xuống một dải bờ biển hẹp hình lưỡi liềm nơi thủy triều dâng thu nhặt đủ thứ và hất chúng dạt vào bờ: củi rêu và rong biển, mảnh thuyền vỡ - và đôi khi, như lời cư dân địa phương, cả những xác chết.

Người đàn ông ấy là bố tôi. Ông đang tìm kiếm một thứ ông khẩn thiết mong muốn không tìm thấy.

Ông đang tìm thi thể con trai mình.

Cảm thấy cái gì đó chạm vào giày mình, tôi mở choàng mắt ra, giật mình rời khỏi cơn nửa tỉnh nửa mơ. Trời đã sẩm tối, và tôi đang ngồi trên đống đá, hai đầu gối thu vào áp sát ngực, và đột nhiên Emma ở đó, cơn gió thổi tung mái tóc, cô đứng trên mặt cát phía dưới tôi.
“Cậu ổn chứ?” cô hỏi.

Đó là một câu hỏi sẽ phải cần ít nhiều trình độ toán đại học và chừng một giờ thảo luận để trả lời. Tôi cảm thấy cả trăm thứ xung đột nhau, đại bộ phận chúng tự triệt tiêu lẫn nhau về bằng tổng của lạnh, mệt mỏi và không thực sự hào hứng trò chuyện. Vì thế tôi nói, “Tớ ổn cả, chỉ đang cố hong khô người thôi,” rồi vỗ vào ngực chiếc áo len ẩm sì của mình để giải thích.

“Việc đó thì tớ có thể giúp cậu.” Cô leo lên đống đá và ngồi xuống cạnh tôi. “Đưa tay đây cho tớ.”

Tôi chìa một cánh tay ra, và Emma đặt cánh tay tôi vắt qua trên đầu gối cô. Khum hai bàn tay lại trên miệng, cô cúi đầu xuống cổ tay tôi. Sau đó, hít một hơi thật sâu, cô thổi ra từ từ qua hai lòng bàn tay và một luồng hơi nóng dễ chịu không thể tin nổi lan dọc theo cẳng tay tôi, tới mức gần như gây đau.

“Nóng quá à?” cô hỏi.

Tôi cứng người lại, một cơn rùng mình lan khắp người, rồi lắc đầu.
“Tốt.” Cô di chuyển lên cao hơn theo cánh tay tôi rồi thổi lần nữa. Thêm một luồng hơi nóng ngọt ngào. Giữa các nhịp thở, cô nói, “Tớ hy vọng cậu không bận lòng vì những gì Enoch nói. Những người còn lại trong chúng tớ đều tin cậu, Jacob. Enoch có thể trở thành một kẻ độc mồm độc miệng khủng khiếp, đặc biệt là khi cậu ta cảm thấy ghen tị.”

“Tớ nghĩ cậu ấy nói đúng,” tôi nói.

“Cậu không thực sự nghĩ vậy. phải không?”

Tất cả nhất loạt xổ ra. “Tớ không hề biết tớ đang làm gì,” tôi nói. “Ai trong số các cậu lại đi trông cậy vào tớ chứ? Nếu tớ thực sự đặc biệt thì cũng chỉ một chút thôi, tớ nghĩ vậy. Như kiểu tớ chỉ có một phần tư máu đặc biệt còn các cậu mang trọn vẹn máu đặc biệt.”

“không phải thế đâu,” Emma bật cười nói.

“Nhưng ông tớ đặc biệt hơn tớ. Chắc chắn phải thế. Ông rất khỏe… ”

“Không, Jacob,” cô nói, nheo mắt lại nhìn tôi. “Thật đáng kinh ngạc. về nhiều mặt, cậu cũng hệt như cậu ấy. Tất nhiên, cậu cũng khác biệt nữa - cậu dịu dàng và dễ mến hơn - nhưng mọi thứ cậu nói… cậu nói hệt như Abe hồi đầu khi cậu ấy mới tới sống cùng bọn tớ.”

“Thật sao?”

“Phải. Cậu ấy cũng rất bối rối. Cậu ấy chưa bao giờ gặp người đặc biệt nào khác. Cậu ấy không hiểu năng lực của mình cũng như cách nó vận hành, hay cậu ấy có thể làm gì. Mà nói thực lòng thì cả bọn tớ cũng không hề biết. Điều cậu và cậu ấy có thể làm là rất hiếm gặp. Nhưng ông cậu đã học được cách sử dụng nó.”

“Bằng cách nào?” tôi hỏi. “Ở đâu?”

“Trong chiến tranh. Cậu ấy là thành viên một đơn vị bí mật gồm toàn người đặc biệt trong quân đội Anh. Chiến đấu chống lại đám hồn rỗng lẫn bọn Đức. Người ta không trao huân chương tặng thưởng cho những việc kiểu như họ đã làm - nhưng với bọn tớ họ là những người anh hùng, và không ai hơn được ông cậu. Những hy sinh họ chịu đựng đã đẩy lùi những kẻ sa đọa trong nhiều thập kỷ và cứu được tính mạng vô số người đặc biệt.”

Ấy thế nhưng ông lại không thể cứu được hai cụ nội, tôi thầm nghĩ. Thật bi thảm lạ lùng làm sao.

“Và tớ có thể nói với cậu điều này,” Emma nói tiếp. “Cậu cũng đặc biệt chẳng kém gì cậu ấy - và cũng can đảm không kém.”

“Chà. Giờ thì cậu chỉ đang cố làm tớ cảm thấy phấn chấn hơn thôi.”

“Không.” Emma nói, nhìn thẳng vào mắt tôi. “Không phải thế. Rồi cậu sẽ nhận ra, Jacob. Một ngày nào đó, cậu sẽ trở thành một người diệt trừ hồn rỗng còn cừ khôi hơn cậu ấy trước đây.”

“À phải, đó là điều mọi người vẫn nói. Làm thế nào cậu có thể chắc chắn vậy được?”

“Tớ cảm thấy điều đó rất rõ rệt,” cô nói. “Cậu được định đoạt để làm điều đó, tớ nghĩ vậy. Cũng như cậu được định đoạt sẽ tới Cairnholm.”
“Tớ không tin vào những thứ như thế. Số phận. Các vì sao. Định mệnh.”

“Tớ đâu nói là định mệnh.”

“Được định đoạt cũng thế thôi,” tôi nói. “Định mệnh là dành cho những nhân vật trong các cuốn sách về những thanh gươm thần kỳ. Toàn những chuyện tào lao bí đao. Tớ ở đây vì ông tớ lẩm bẩm gì đó về hòn đảo của các cậu mười giây trước khi ông qua đời - chỉ vậy thôi. Đó là một việc tình cờ. Tớ mừng vì ông đã nói về điều đó, nhưng lúc ấy ông đã mê sảng. Ông cũng đã có thể nói ra một danh sách đồ tạp hóa.”
“Nhưng cậu ấy không làm thế,” Emma nói.

Tôi ngao ngán thở dài. “Và nếu chúng ta lên đường đi tìm các Vòng Thời Gian, các cậu trông cậy tớ sẽ cứu các cậu thoát khỏi đám quái vật, nhưng thay vì thế tớ lại khiến tất cả các cậu bị giết, như thế cũng là định mệnh phải không?”

Emma cau mày, đặt cánh tay tôi trở lại vào lòng tôi. “Tớ không hề nói định mệnh,” cô nhắc lại. “Điều tớ tin là khi những việc lớn lao xuất hiện trong đời, không hề có sự tình cờ nào cả. Mọi thứ xảy ra đều có một lý do. Cậu có mặt ở đây vì lý do nào đó - chứ không phải để thất bại rồi chết.”
 

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play