Chúng tôi kéo hai chiếc thuyền của mình qua bãi biển về phía một cái hang bên bờ biển, cửa hang là một kẽ nứt đen ngòm trên vách đá. Bronwyn đã dốc hết sức lực đến nỗi gần như không tự mình bước đi nổi nữa, chứ đừng nói gì khiêng thuyền, vì thế những người còn lại trong chúng tôi vật lộn để kéo dây kéo, vốn liên tục kêu kèn kẹt và thẳng căng ra vì các thân thuyền luôn tìm cách cắm mũi xuống cát ướt.
Qua được nửa bãi biển, cô Peregrine ré lên một tiếng kêu cảnh báo, và hai chiếc khí cầu có điều khiển nhô lên trên các đụn cát, xuất hiện trong tầm mắt chúng tôi. Chúng tôi vùng chạy như bay trong cơn hoảng hốt, vùn vụt kéo hai chiếc thuyền vào trong hang như thể chúng được đặt trên ray trượt, trong khi cô Peregrine tập tễnh nhảy cạnh chúng tôi, bên cánh bị thương kéo lê trên cát.
Khi cuối cùng cũng khuất khỏi tầm nhìn của chúng, chúng tôi thả hai chiếc thuyền xuống và ngồi vật xuống tựa vào thân thuyền lật ngược, tiếng thở hổn hển của chúng tôi vang vọng trong bóng tối ẩm ướt với tiếng nước nhỏ giọt tí tách. “Làm ơn, làm ơn đừng để chúng nhìn thấy chúng con,” Emma cầu nguyện thành tiếng.
“Ôi, khỉ thật! Dấu vết của chúng ta!” Millard kêu lên, rồi cậu ta cởi phăng chiếc áo khoác đang mặc và trườn ra ngoài xóa vết trượt mà những chiếc thuyền của chúng tôi đã tạo ra; từ trên trời, trông chúng chẳng khác gì những mũi tên chỉ thẳng vào chỗ nấp của chúng tôi. Chúng tôi chỉ có thể dõi theo dấu bước chân của cậu ta xa dần. Nếu bất cứ ai khác ngoài Millard mò ra ngoài, người đó chắc chắn đã bị nhìn thấy.
Một phút sau cậu ta quay vào, run bần bật, bê bết cát, một vết đỏ loang ra trên ngực áo. “Bây giờ chúng đang đến gần,” cậu ta thều thào. “Tớ đã cố hết sức có thể.”
“Cậu lại chảy máu kìa!” Bronwyn kếu lên lo lắng, Millard đã bị trúng đạn trong cuộc hỗn chiến của chúng tôi ở ngọn hải đăng tối hôm trước, và cho dù đến lúc này quá trình phục hồi của cậu ta nhanh đáng kể, nhưng cũng còn lâu mới lành hẳn. “Cậu đã làm gì với lớp băng bó vết thương của cậu rồi?”
“Tớ đã ném nó đi rồi. Nó được buộc lằng nhằng đến mức tớ không thể tháo ra nhanh được. Một người vô hình phải luôn có khả năng cởi hết đồ trên người trong nháy mắt, nếu không khả năng của cậu ta chỉ vô ích!”
“Nếu chết rồi cậu ta thậm chí sẽ còn vô dụng hơn, đồ con lừa cứng đầu,” Emma nói. “Giờ thì ngồi im và đừng có cắn phải lưỡi. Sẽ đau đấy.” Cô áp chặt hai ngón tay vào lòng bàn tay còn lại, tập trung một khoảnh khắc, và khi cô nhấc hai ngón tay ra, chúng đã sáng rực, nóng đỏ.
Millard chùn lại. “Này này, Emma, tớ nghĩ thà cậu đừng…”
Emma ấn mạnh hai nón tay vào bên vai bị thương của cậu ta. Millard thở hộc ra. Có tiếng thịt cháy xèo xèo và một làn khói bốc lên từ da cậu ta. Trong chốc lát, máu đã ngừng chảy.
“Tớ sẽ có sẹo mất!” Millard rên rẩm.
“Phải, thì sao? Ai mà thấy nó được?”
Cậu ta hờn dỗi im bặt.
Tiếng động cơ của hai chiếc khi cầu vang lên to hơn, rồi to hơn nữa, được vách đá trong hang khuếch đại lên. Tôi hình dung ra chúng treo lơ lửng phía trên hang, quan sát vết chân chúng tôi, chuẩn bị tấn công. Vai Emma tựa vào vai tôi. Mấy đứa trẻ nhỏ chạy đến chỗ Bronwyn và úp mặt vào lòng cô, cô bèn nựng nịu chúng. Bất chấp những công năng dị thường của mình, chúng tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực: tất cả những gì chúng tôi có thể làm là ngồi bó gối chớp mắt nhìn nhau trong cảnh tranh tối tranh sáng mờ mờ, nước mũi chảy ròng ròng vì lạnh, hy vọng kẻ thù sẽ không tìm ra chúng tôi.
Cuối cùng, tiếng động cơ bắt đầu nhỏ đi, và khi chúng tôi lại có thể nghe thấy giọng nói của chính mình, Claire lí nhí trong lòng Bronwyn, “Kể cho bọn tớ nghe một câu chuyện đi, Wyn. Tớ sợ, tớ không thích tất cả chuyện này tẹo nào và thay vì thế tớ nghĩ tớ thích nghe một câu chuyện.”
“Phải đấy, cậu kể chuyện đi!” Olive nài nỉ. “Một câu chuyện từ Những truyện kể, làm ơn đi. Đó là những câu chuyện ưa thích của tớ.”
Là người ra dáng đàn chị nhất trong đám trẻ đặc biệt, với những đứa trẻ nhỏ nhất, Bronwyn còn giống một người mẹ hơn cả cô Peregrine. Chính Bronwyn đưa chúng lên giường ngủ buổi tối, Bronwyn cũng là người đọc truyện cho chúng nghe và hôn lên trán chúng. Đôi cánh tay mạnh mẽ của cô dường như được tạo nên để ôm lấy chúng trong vòng tay ấm áp, đôi vai rộng của cô để công kênh chúng. Nhưng giờ không phải lúc kể chuyện - và cô cũng nói như vậy.
“Sao chứ, chắc chắn là phải rồi!” Enoch lên tiếng với giọng mỉa mai đều đều. “Nhưng lần này hãy tạm bỏ qua Những truyện kể và kể cho chúng tớ câu chuyện bằng cách nào những đứa trẻ của cô Peregrine tìm được đường tới nơi an toàn khi không có bản đồ hay chút thức ăn nào và sẽ không bị đám hồn rỗng ăn thịt trên đường! Tớ rất nóng lòng muốn nghe xem câu chuyện đó kết thúc thế nào.”
“Giá như cô Peregrine có thể nói cho chúng mình biết,” Claire sụt sịt. Cô rời khỏi Bronwyn và tới bên con chim đang đậu trên một thân thuyền lật úp quan sát chúng tôi. “Chúng em phải làm gì đây, cô phụ trách?” Claire nói. “Làm ơn hãy trở lại hình người đi. Làm ơn hãy tỉnh lại đi!”
Cô Peregrine kêu cu cu và dùng cánh vuốt ve mái tóc Claire. Sau đó, Olive cũng tiến lại, khuôn mặt giàn giụa nước mắt. “Chúng em cần cô, cô Peregrine! Chúng em bị lạc đường, đang gặp nguy hiểm và càng lúc càng đói bụng, mà chẳng còn mái nhà hay bạn bè nào ngoài chính những người đang ở đây, và chúng em cần cô!”
Đôi mắt đen của cô Peregrine sáng lên long lanh. Bà quay đi, tránh ra ngoài tầm với.
Bronwyn quỳ xuống cạnh mấy cô bé. “Cô ấy chưa thể trở lại hình người ngay bây giờ được, các cô bé. Nhưng chúng ta sẽ chữa khỏi cho cô ấy, tớ xin hứa.”
“Nhưng bằng cách nào?” Olive hỏi. Câu hỏi của cô vang vọng lại trên các vách đá, mỗi tiếng vọng hỏi thêm lần nữa.
Emma đứng dậy. “Tớ sẽ cho các cậu biết bằng cách nào,” cô nói, và mọi con mắt đổ dồn vào cô. “Chúng ta sẽ đi bộ.” Emma nói những lời đó với vẻ quả quyết khiến tôi lạnh người. “Chúng ta sẽ đi, cứ đi cho tới khi đến được thành phố nào đó.”
“Nhưng nếu không có thành phố nào trong vòng năm mươi ki lô mét thì sao?” Enoch hỏi.
“Thì chúng ta sẽ đi bộ năm mươi mốt ki lô mét. Nhưng tớ biết chúng ta đã không bị đẩy đi chệch hướng xa đến thế.”
“Thế nếu bọn xác sống phát hiện ra chúng ta từ trên không thì sao?” Hugh hỏi.
“Chúng sẽ không phát hiện ra. Chúng ta sẽ cẩn thận.”
“Thế nếu chúng đợi sẵn chúng ta trong thành phố thì sao?” Horace hỏi.
“Chúng ta sẽ giả làm người thường. chúng ta sẽ qua mặt chúng được.”
“Tớ giả làm người bình thường không tốt lắm đâu,” Millard vừa cười vừa nói.
“Không ai nhìn thấy cậu đâu, Mill. Cậu sẽ là trinh sát tiền trạm cho chúng tớ, là người bí mật thu thập những thứ cần thiết cho chúng ta.”
“Tớ đúng là một tay trộm khá tài năng,” cậu nói với chút tự hào. “Một bậc thầy đích thực trong nghệ thuật sử dụng năm ngón tay.”
“Sau đó thì sao?” Enoch chua chát hỏi. “Có thể chúng ta sẽ có đồ ăn bỏ bụng và chỗ nào ấm áp để ngủ, nhưng chúng ta vẫn phải lang thang bên ngoài, lù lù ra đó, dễ bị tấn công, không có Vòng Thời Gian… mà cô Peregrine thì… thì vẫn…”
“Bằng cách nào đó chúng ta sẽ tìm thấy một Vòng,” Emma nói. “Có những dấu mốc và ký hiệu dành cho những người biết tìm kiếm. Còn nếu không có, chúng ta sẽ tìm ai đó giống như chúng ta, một đồng loại cũng là người đặc biệt có thể chỉ dẫn cho chúng ta vị trí của Vòng gần nhất. Và trong Vòng đó sẽ có một Chủ Vòng Thời Gian, người đó sẽ có thể dành cho cô Peregrine sự giúp đỡ cô ấy cần.”
Tôi chưa từng gặp ai có sự tự tin mãnh liệt như Emma. Tự tin toát ra từ mọi thứ thuộc về cô: tư thế của cô, cần cổ vươn cao; hàm răng nghiến chặt khi cô hạ quyết tâm về một điều gì đó; cách cô kết thúc mỗi câu đầy quả quyết, không bao giờ bằng một dấu hỏi. Nó thật dễ lây, tôi thích nó, và tôi phải kìm chế thôi thúc đột ngột muốn hôn cô, ngay tại đó, trước mặt mọi người.