Sau khi đã nhảy lên ngã xuống, quờ quạng tìm đường như một người mù qua cánh rừng và màn sương mù, để rồi quay trở lại với thế giới của mặt trời và ánh sáng, tôi ngạc nhiên phát hiện ra mặt trời đã lặn, ánh sáng chuyển sang đỏ quạch. Bằng cách nào đó, cả ngày đã trôi qua. Tại quán rượu, bố đang chờ tôi, trên mặt bàn trước mặt ông là một vại bia đen kịt như màn đêm và chiếc laptop đã mở. Tôi ngồi xuống và xoáy luôn vại bia của bố khi ông còn chưa kịp ngừng gõ bàn phím để ngẩng đầu lên.
"Ôi, Chúa lòng lành", tôi phun ra phì phì sau khi ực cả một ngụm đầy, "cái gì thế này? Dầu nhớt lên men chắc?"
"Gần đúng rồi đấy", ông bật cười nói, rồi giật lại món đồ uống. "Nó không giống bia Mỹ. Mà con cũng đâu đã biết mùi vị bia Mỹ ra sao, phải không nào?"
"Đương nhiên là chưa", tôi nói kèm theo một cái nháy mắt, cho dù đúng là như thế. Bố thích nghĩ rằng tôi cũng hòa đồng và thích phiêu lưu như ông hồi còn bằng tuổi tôi - ý tưởng huyễn hoặc có vẻ dễ tồn tại lâu dài nhất.
Tôi trải qua một cuộc truy vấn ngắn xem tôi đã tới chỗ ngôi nhà bằng cách nào và ai đã đưa tôi tới đó, và vì kiểu nói dối dễ nhất là bỏ bớt chi tiết ra khỏi một câu chuyện thay vì thêm thắt vào, tôi đã vượt qua thử thách một cách xuất sắc. Tôi đương nhiên quên hẳn không nhắc tới chuyện Worm và Dylan đã lừa tôi giẫm ngập chân vào phân cừu rồi đánh bài chuồn khi còn cách đích nửa dặm.
Bố có vẻ phấn khởi vì tôi đã tìm được hai cậu nhóc trạc tuổi mình; tôi đoán tôi cũng đã quên nhắc đến chuyện cả hai cậu chàng nọ đều ghét tôi.
"Vậy trại trẻ thế nào?"
"Nát bươm."
Bố tôi rụt người. "Bố đoán đã một thời gian dài trôi qua kể từ khi ông nội con sống ở đó, phải không?"
"Vâng. Hay bất cứ ai khác."
Bố tôi đóng màn hình laptop xuống, một dấu hiệu chắc chắn cho hay tôi sắp nhận được toàn bộ sự chú ý của ông. "Bố có thể thấy con rất thất vọng."
"Thế đấy, con không vượt hàng nghìn dặm tới đây để tìm kiếm một trại trẻ đầy ắp rác rưởi.""Vậy con định làm gì?"
"Tìm người để hỏi chuyện. Có người sẽ biết chuyện gì đã xảy ra với những đứa trẻ từng sống tại đó. Con đoán một vài người trong số họ hẳn vẫn còn sống, nếu không phải quanh đây thì cũng trong đất liền. Trong một nhà dưỡng lão hay đâu đó."
"Hẳn rồi. Cũng là một ý tưởng." Song bố tôi chẳng có vẻ gì là đã bị thuyết phục. Tiếp theo là một khoảng ngừng gượng gạo, rồi ông nói, "Vậy khi đã ở đây rồi, con có cảm thấy bắt đầu nắm bắt tốt hơn về con người trước đây của ông nội không?"
Tôi ngẫm ngợi. "Con không biết. Con đoán là vậy. Đây chỉ đơn giản là một hòn đảo thôi, bố biết vậy mà phải không?"
Bố tôi gật đầu. "Chính xác."
"Còn bố thì thế nào?"
"Bố ư?" Ông nhún vai. "Bố đã thôi không còn cố tìm cách hiểu ông nội con từ lâu rồi."
"Thật buồn quá. Chẳng lẽ bố không thấy quan tâm sao?"
"Tất nhiên, trước đây bố cũng từng quan tâm. Thế rồi, sau một thời gian, bố không còn quan tâm nữa."
Tôi có thể cảm thấy cuộc trò chuyện đang đi theo một hướng không làm tôi hoàn toàn thoải mái, nhưng tôi vẫn nhất quyết tiếp tục. "Tại sao?"
"Khi ai đó không chịu mở cửa cho con vào, cuối cùng con sẽ thôi không gõ cửa nữa. Hiểu bố muốn nói gì chứ?"
Hiếm có khi nào bố tôi lại nói thế này. Có thể đó là do vại bia, có thể vì chúng tôi đang rất xa nhà, mà cũng có thể vì ông cho rằng cuối cùng tôi đã đủ lớn để nghe chuyện kiểu này. Dù lý do là gì đi nữa, tôi cũng không muốn ông dừng lại.
"Nhưng ông là bố của bố. Làm sao bố lại bỏ cuộc đơn giản vậy thôi?"
"Người bỏ cuộc không phải là bố!" tiếng ông bật ra có phần hơi quá lớn, ông bèn cúi mặt nhìn xuống, bối rối lắc lắc vại bia. "Chỉ đơn giản... bố nghĩ, thực ra là ông nội con không biết cần làm bố như thế nào, nhưng cảm thấy kiểu gì cũng phải trở thành một người bố, vì không ai trong số các anh chị em của ông sống sót qua chiến tranh. Vậy là ông của con giải quyết việc này bằng cách lúc nào cũng vắng mặt - đi săn, đi công chuyện, con biết đấy. Và thậm chí ngay cả khi ông có mặt cũng chẳng khác gì không có."
"Có phải đây là chuyện về một dịp Halloween không ạ?"
"Con đang nói về cái gì đấy?"
"Bố biết đấy... từ bức ảnh."
Đó là một câu chuyện cũ, và nó như thế này. Lúc đó là dịp Halloween. Bố tôi đã bốn hay năm tuổi mà chưa bao giờ được chơi trò "cho kẹo hay bị ghẹo", và ông nội Portman đã hứa đưa bố tôi đi chơi trò này khi ông đi làm về. Bà nội đã mua cho bố tôi bộ quần áo thỏ màu hồng ngớ ngẩn, bố tôi mặc nó vào rồi ngồi bên lối chạy xe đợi ông nội về nhà từ lúc năm giờ đến khi tối mịt, nhưng ông nội không hề xuất hiện. Bà nội đã nổi điên đến mức bà chụp một bức ảnh bố tôi đang khóc ngoài đường để cho ông tôi thấy ông là một ông bố tồi đến thế nào. Chẳng cần phải nói, bức ảnh đó từ lâu đã trở thành một truyền kỳ trong các thành viên gia đình, và là một nỗi ngượng ngùng lớn lao cho bố tôi.
"Chuyện này còn hơn cả một cái lễ Halloween", bố tôi cằn nhằn. "Jake, quả thực con gần gũi ông hơn nhiều so với bố ngày xưa. Bố không biết nữa... chỉ là có gì đó không nói ra lời giữa ông và con."
Tôi không biết nên trả lời thế nào nữa. Chẳng lẽ bố đang ghen tị với tôi?
"Sao bố lại nói với con chuyện này?"
"Vì con là con trai bố, và bố không muốn con bị tổn thương."
"Tổn thương thế nào ạ?"
Bố tôi ngừng lời. Bên ngoài mây đã dạt đi, những tia nắng ban ngày cuối cùng hắt bóng chúng tôi lên tường. Cảm giác buồn nôn cuộn lên trong dạ dày tôi, giống như khi bố mẹ bạn sắp nói với bạn rằng họ sẽ ly dị, nhưng bạn đã biết điều đó từ trước khi họ mở lời.
"Bố chưa bao giờ tìm hiểu quá sâu về ông nội con vì bố sợ những gì có thể mình sẽ tìm thấy", cuối cùng bố tôi lên tiếng.
Đó là một buổi sáng gần như quá hoàn hảo. Vừa rời khỏi quán rượu là y như bước ngay vào một trong những bức ảnh chỉnh sửa quá lố thường được người ta đưa lên làm hình nền trên những chiếc máy tính mới: đường phố với những ngôi nhà đổ nát một cách rất không thật chạy dài ra tận ngoài xa, rồi nhường chỗ cho những cánh đồng xanh rì được bao quanh bằng những bức tường đá chạy ngoằn ngoèo, và phủ lên toàn bộ phong cảnh là những đám mây trắng xốp. Nhưng đằng sau tất cả cảnh tượng này, đằng sau những ngôi nhà, cánh đồng và bầy cừu đang thấp thoáng xung quanh như những chiếc kẹo bông nhỏ xíu, tôi có thể thấy những vạt sương mù dày đặc liếm quanh sườn núi ngoài xa như những cái lưỡi, nơi thế giới này kết thúc và thế giới tiếp theo bắt đầu, lạnh, ẩm ướt vắng bóng mặt trời.
Tôi đi bộ vượt qua sườn dốc, bước thẳng vào cơn mưa đang rơi xuống. Như thường lệ, tôi đã quên khuấy mất đôi ủng cao su của mình, còn con đường nhanh chóng trở thành một dải uốn lượn chìm sâu trong bùn. Nhưng chịu ướt một chút dường như còn dễ chịu hơn rất nhiều so với viễn cảnh phải leo qua ngọn đồi đó hai lần trong một buổi sáng, vậy là tôi cúi gằm mặt xuống trước cơn mưa lất phất và vất vả lê bước đi tiếp. Không lâu sau, tôi đi ngang qua chuồng cừu, loáng thoáng bên trong là hình dáng lũ cừu đang chen chúc nhau trốn tránh mưa rét, rồi tiếp theo là khu đầm lầy phủ đầy sương mù, im ắng một cách ma quái. Tôi chợt nghĩ tới vị cư dân hai nghìn bảy trăm năm tuổi của bảo tàng Cairnholm và tự hỏi đầm lầy này liệu còn lưu giữ bao nhiêu người nữa như ông ta, những người dừng lại nơi cõi chết và vẫn chưa được khai quật; bao nhiêu người nữa đã từ bỏ cuộc sống của họ ở đây để tìm kiếm thiên đường.
Khi tôi tới được trại trẻ, cơn mưa vốn chỉ lất phất lúc này đã ào ào như trút nước. Không còn thời gian để nấn ná ngoài khoảng sân đầy cây dại của ngôi nhà và ngẫm nghĩ về hình hài xấu xa hiểm ác của nó - cái cách khung cửa ra vào không còn cánh cửa dường như nuốt chửng lấy tôi khi tôi bước qua nó, cái cách những tấm ván lát sàn cong vênh vì ngấm nước mưa dưới lối đi hơi lún xuống dưới đôi giày của tôi. Tôi đứng vắt nước khỏi chiếc áo sơ mi của mình và lắc lắc mái tóc, rồi khi đã làm khô người đến hết mức có thể xoay xở được - nghĩa là cũng chẳng khô cho lắm - tôi bắt đầu tìm kiếm. Tìm cái gì, tôi cũng không rõ. Một cái hộp đựng thư chăng? Hay tên ông nội tôi khắc trên một bức tường? Tất cả dường như đều khó có khả năng xảy ra.
Tôi đi vòng quanh, lật giở những chồng báo cũ dính bết, cúi xuống ngó dưới gầm ghế gầm bàn. Tôi tưởng tượng sẽ khám phá ra một cảnh tượng kinh hoàng nào đó - một đống xương khô mặc những mảnh giẻ rách cháy đen - nhưng tất cả những gì tôi tìm thấy là những căn phòng đã trở thành lộ thiên chứ không còn nằm trong nhà, mọi nét đặc trưng đã bị hơi ẩm, gió và những lớp bụi đất xóa hết. Tầng trệt chẳng cho biết điều gì. Tôi quay trở lại cầu thang, biết rằng lần này mình sẽ phải leo thôi. Câu hỏi duy nhất là leo lên hay xuống đây? Một lý do chống lại việc leo lên tầng là có rất ít cơ hội tẩu thoát cấp tốc (khỏi những con khỉ đột hay những con ma cà rồng hoặc bất cứ thứ gì khác mà bộ óc đang lo sợ của tôi có thể tưởng tượng ra) ngoại trừ lao mình xuống qua một khung cửa sổ trên lầu. Đi xuống hầm cũng gặp phải rắc rối tương tự, thêm vào đó còn có thêm điểm tệ hại là tối tăm, trong khi tôi không có đèn pin. Vậy thì lên lầu.Các bậc cầu thang phản đối sức nặng của tôi bằng một bản giao hưởng run rẩy và cọt kẹt, nhưng vẫn đứng vững, và những gì tôi khám phá ra trên lầu - ít nhất là so với tầng trệt bị bom phá tan tành - trông giống như một cái kén thời gian. Nằm dọc một lối đi giấy dán tường đã bong tróc, các căn phòng đều ở tình trạng tốt đến mức đáng ngạc nhiên. Cho dù có một hai phòng đã bị nấm mốc xâm chiếm ở chỗ mưa lọt vào qua khung cửa sổ vỡ, trong những căn phòng còn lại là những món đồ gần như mới tinh, chỉ khác ở chỗ có một hai lớp bụi mỏng: một cái áo sơ mi bị mốc vắt bừa lên lưng tựa của một cái ghế, ít tiền xu lẻ nằm rải rác trên một chiếc giường. Có thể dễ dàng tin rằng mọi thứ vẫn y nguyên như khi những đứa trẻ để chúng lại, như thể thời gian đã ngừng lại vào đêm họ chết.
Tôi đi từ phòng này sang phòng khác, kiểm tra mọi thứ bên trong như một nhà khảo cổ học. Có những món đồ chơi bằng gỗ đã mủn nát trong một cái hộp; những chiếc bút chì màu trên một bậu cửa sổ, màu sắc đã phai dưới ánh sáng của cả vạn buổi chiều đã trôi qua; một ngôi nhà búp bê với những con búp bê bên trong, những tù nhân chung thân trong một nhà tù lộng lẫy. Trong một thư viện nhỏ, hơi ẩm len lỏi vào đã uốn cong các giá sách thành những nụ cười méo xệch. Tôi lướt ngón tay theo các gáy sách trơ nhẵn, như thể đang cân nhắc xem có nên lấy một cuốn ra đọc. Có những tác phẩm kinh điển như Peter Pan và Khu vườn bí mật, những cuốn sách lịch sử được viết bởi các tác giả đã bị lịch sử lãng quên, sách học tiếng Latin và Hy Lạp. Góc phòng kê vài bàn học cũ. Tôi hiểu ra đây là phòng học của những đứa trẻ, và bà Peregrine là cô giáo của họ.
Tôi cố mở hai cánh cửa nặng trịch, xoay tay cầm, nhưng chúng đã bị phồng ra và đóng chặt - tôi bèn lùi lại lấy đà rồi lao tới dùng vai thúc vào cửa. Hai cánh cửa kèn kẹt bật mở ra còn tôi thì ngã sấp mặt xuống căn phòng kế tiếp. Trong lúc chống tay đứng dậy nhìn quanh, tôi nhận ra nó chỉ có thể từng là phòng bà Peregrine. Trông nó giống như một căn phòng trong lâu đài của Người Đẹp Ngủ Trong Rừng, với những cây nến chăng đầy mạng nhện cắm trên giá gắn vào tường, một cái bàn trang điểm có gương, mặt bàn xếp những cái lọ pha lê, và một chiếc giường lớn bằng gỗ sồi. Tôi hình dung ra lần cuối cùng bà ở đây, tung chăn vùng dậy giữa đêm khuya khi nghe thấy tiếng còi báo động phòng không hú vang, tập hợp lũ trẻ, tất cả đều đang lơ mơ ngái ngủ và ôm khư khư áo khoác trên giường xuống dưới nhà. Bà có sợ không? tôi tự hỏi. Bà có nghe thấy những chiếc máy bay đang tới không?
Tôi bắt đầu có cảm giác thật kỳ quái. Tôi có cảm giác mình đang bị theo dõi; rằng những đứa trẻ vẫn đang ở đây, được bảo tồn như cậu thiếu niên ở đầm lầy, bên trong các bức tường. Tôi có thể cảm thấy họ đang dõi theo tôi qua các khe nứt và lỗ khóa.
Tôi đi sang căn phòng tiếp theo. Ánh sáng yếu ớt chiếu vào qua một cửa sổ. Những mảnh vụn giấy dán tường màu xanh nhạt rơi xuống hai chiếc giường nhỏ vẫn còn nguyên ga trải đã phủ bụi. Bằng cách nào đó, tôi biết đây từng là phòng của ông nội mình.
Tại sao ông lại đưa cháu tới đây? Ông cần cháu phải thấy cái gì?
Thế rồi tôi để ý thấy thứ gì đó dưới gầm một trong hai chiếc giường và quỳ gối xuống xem. Đó là một chiếc va li cũ.Có phải cái này là của ông không? Có phải đây chính là chiếc va li ông đã cầm theo lên tàu vào lần cuối cùng ông thấy hai cụ nội, khi cuộc đời thứ nhất của ông đang dần trôi tuột đi không?
Tôi kéo cái va li ra và lóng ngóng xoay xở với những chiếc đai da đã sờn mục của nó. Cái va li dễ dàng mở ra - nhưng ngoài một gia đình gián chết, nó hoàn toàn trống trơn.
Tôi cũng cảm thấy trống rỗng, và nặng nề lạ thường, như thể trái đất đang quay quá nhanh, làm lực hút tăng lên, kéo tôi xuống phía sàn. Đột nhiên cảm thấy kiệt sức, tôi ngồi xuống giường - rất có thể là giường của ông - và vì những lý do tôi không thể giải thích nổi, tôi nằm dài ra trên tấm ga bẩn thỉu đó và nhìn chằm chằm lên trần nhà.
Ông đã nghĩ gì khi nằm đây vào ban đêm? Có phải ông cũng gặp ác mộng không?
Tôi bắt đầu khóc.
Khi hai cụ nội chết, ông có biết không? Ông có cảm thấy họ ra đi không?
Tôi khóc dữ hơn. Tôi không muốn thế, nhưng không thể làm mình lại được.
Không thể ngăn mình lại, thế là tôi nghĩ đến đủ thứ tồi tệ, cứ nuôi dưỡng chúng mãi thêm cho tới khi tôi khóc dữ tới mức phải thở dốc lấy hơi giữa những cơn nức nở. Tôi nghĩ đến chuyện các cụ nội tôi đã bị chết đói như thế nào. Tôi nghĩ đến việc thi thể kiệt quệ của họ bị đẩy vào lò thiêu vì những người họ không hề biết lại căm ghét họ. Tôi nghĩ đến cảnh những đứa trẻ sống trong ngôi nhà này đã bị thiêu cháy và nổ tung ra thành từng mảnh bởi một gã phi công đã dửng dưng bấm một cái nút. Tôi nghĩ tới việc gia đình của ông đã bị tước đoạt khỏi ông như thế nào, và cũng chính vì thế mà bố tôi đã lớn lên với cảm giác không có một người cha đúng nghĩa ra sao, và giờ đây tôi phải trải qua những cơn căng thẳng tột độ, những cơn ác mộng và đang ngồi một mình trong một ngôi nhà đổ nát mà khóc lóc, những giọt nước mắt nóng hổi ngu ngốc tưới đẫm trên khắp cái áo sơ mi tôi đang mặc. Tất cả chỉ vì một nỗi đau kéo dài suốt bảy mươi năm đã bằng cách nào đó được truyền lại cho tôi như một vật gia truyền tẩm độc, và những con quái vật tôi không thể chiến đấu chống lại vì tất cả chúng đều đã chết, không thể bị giết, bị trừng phạt hay chịu bất cứ hình thức phán xét nào khác. Ít nhất ông nội tôi đã có thể nhập ngũ và chiến đấu với chúng. Còn tôi có thể làm gì đây?
Khi cơn nức nở qua đi, đầu tôi đau như dần. Tôi nhắm mắt lại, áp các đốt ngón tay vào sát mắt để ngăn không cho chúng gây phiền toái nữa, dù chỉ trong giây lát, và cuối cùng, khi tôi ngưng ép và mở mắt ra, một sự thay đổi thần kỳ đã đến với căn phòng: có một tia nắng duy nhất chiếu vào qua cửa sổ. Tôi đứng dậy, đi tới chỗ mặt kính rạn nứt, và thấy bên ngoài trời vừa mưa vừa nắng - một kiểu thời tiết kỳ cục mà dường như chẳng ai gọi tên được. Mẹ tôi, xin nói luôn là tôi không hề có ý đùa cợt, gọi nó là "những giọt nước mắt của trẻ mồ côi". Thế rồi tôi nhớ những gì Ricky đã nói về kiểu thời tiết này - "Quỷ sứ đánh vợ!" - và tôi bật cười, đồng thời cũng cảm thấy dễ chịu hơn.
Thế rồi trong vạt nắng chiếu dọc qua căn phòng, tôi trông thấy một thứ trước đó tôi đã không nhận ra. Đó là một cái rương - hay ít nhất là cạnh của một cái rương - đang nhô ra từ dưới gầm chiếc giường thứ hai. Tôi bước tới, lật tấm ga trải giường che khỏi tầm nhìn phần lớn món đồ.Đó là một chiếc rương cũ to, cái ổ khóa đã hoen gỉ cũng to bự. Không thể có chuyện nó trống trơn, tôi thầm nghĩ. Rương trống không thì ai khóa làm gì. Hãy mở tôi ra! Có vẻ như nó đang kêu gọi. Tôi đầy ắp các bí mật nè!Tôi bấu lấy hai bên cạnh rương và lôi nó ra. Cái rương không nhúc nhích. Tôi lại lôi, mạnh hơn, nhưng nó vẫn không xê dịch dù chỉ một phân. Tôi không dám chắc liệu có phải cái rương thực sự nặng đến thế, hay hơi ẩm và bụi tích tụ lại qua hàng thế hệ đã bằng cách nào đó làm nó dính chặt xuống sàn. Tôi đứng dậy đá vài cái vào nó, có vẻ vì thế mà thứ gì đó đã bung lỏng ra, rồi tiếp theo tôi đã có thể di chuyển cái rương bằng cách lôi lần lượt từng bên một, nhích dần nó ra ngoài theo cách bạn có thể dùng để di chuyển một cái lò hay tủ lạnh, cho tới khi cái rương đã chui hẳn ra khỏi gầm giường, để lại một dãy vết sượt hình dấu ngoặc đơn dưới sàn nhà. Tôi giật mạnh cái khóa móc, nhưng bất chấp một lớp gỉ dày, cái khóa có vẻ vẫn rất chắc chắn. Tôi thoáng nghĩ tới việc tìm chìa khóa - hẳn phải ở đâu đó quanh đây - nhưng tôi có thể sẽ phải mất hàng giờ để tìm kiếm, mà cái khóa thì trông hoen gỉ đến mức tôi tự hỏi không biết liệu chìa khóa còn tác dụng gì với nó nữa hay không. Lựa chọn duy nhất dành cho tôi là phá khóa.
Nhìn quanh tìm thứ gì đó có thể làm được việc này, tôi thấy một cái ghế hỏng trong một căn phòng khác. Tôi bẻ một chân ghế và hăm hở bắt tay vào phá khóa, giơ cái chân ghế lên cao quá đầu như một tay đao phủ rồi giáng nó xuống mạnh hết mức có thể, hết lần này tới lần khác, cho tới khi cái chân ghế cuối cùng cũng gãy và tôi chỉ còn lại trong tay một đoạn chân ghế vỡ. Tôi đưa mắt nhìn quanh phòng tìm thứ gì đó chắc chắn hơn và nhanh chóng nhận ra có một thanh sắt lỏng lẻo trên khung giường. Sau vài cú đá thật mạnh, thanh sắt rơi xuống sàn kêu loảng xoảng. Tôi luồn một đầu thanh sắt vào vòng móc khóa rồi đẩy mạnh đầu còn lại ra sau. Chẳng có gì xảy ra.
Tôi vịn cả người lên đầu thanh sắt, hai bàn chân nâng lên khỏi sàn như thể đang tập đu xà. Chiếc rương khẽ cọt kẹt, nhưng cũng chỉ có thế.
Tôi bắt đầu nổi nóng. Tôi đá cái rương, dồn lên thanh sắt tất cả sức lực của mình, các tĩnh mạch trên cổ tôi nổi lên căng phồng, vừa gồng mình tôi vừa hét lên, Mở ra, đồ chết tiệt, mở ra, cái rương ngu ngốc kia! Cuối cùng cơn tuyệt vọng và bực bội của tôi cũng có một chỗ để nhắm vào: nếu tôi không thể làm ông nội quá cố của mình thổ lộ các bí mật của ông, tôi hoàn toàn có thể moi các bí mật ra khỏi cái rương cũ kỹ này. Và rồi thanh sắt bị trượt đi, tôi bị đập mạnh người xuống sàn, bao nhiêu không khí trong phổi như bị ép hết ra ngoài.
Tôi nằm đó, nhìn chằm chằm lên trần nhà, hổn hển thở lấy hơi. "Những giọt nước mắt của trẻ mồ côi" đã kết thúc, và lúc này bên ngoài chỉ còn là cơn mưa theo nghĩa thông thường, dữ dội hơn bao giờ hết. Tôi tính quay trở lại thị trấn tìm một cái búa tạ hay một cái cưa kim loại - nhưng điều đó chỉ làm nảy sinh những câu hỏi tôi chẳng hề muốn trả lời.
Thế rồi tôi nảy ra một ý tưởng thật thiên tài. Nếu tôi có thể tìm ra cách nào đó làm vỡ cái rương, tôi sẽ không cần bận tâm đến cái khóa nữa. Và sức mạnh nào có thể mạnh mẽ hơn tôi, mạnh mẽ hơn cơ bắp nửa trên cơ thể phải thừa nhận là kém phát triển của tôi cùng những công cụ vớ vẩn vừa bất lực với cái rương? Trọng lực. Nói cho cùng, tôi đang ở trên tầng hai của ngôi nhà, và mặc dù tôi không nghĩ sẽ có cách nào đó cho phép mình nâng cái rương lên được đủ cao để đẩy nó qua một cửa sổ, nhưng hàng tay vịn ở chiếu nghỉ trên đầu cầu thang đã sập xuống từ lâu rồi. Tất cả những gì tôi cần làm là lôi cái rương theo lối đi ra đó rồi đẩy xuống. Những thứ nằm bên trong có còn nguyên vẹn được sau cú rơi hay không là chuyện khác - nhưng ít nhất cũng sẽ tìm ra được bên trong có gì.Tôi quỳ xuống đằng sau cái rương, nhổm người tựa trên hai gót chân và bắt đầu đẩy nó ra lối đi. Nhích được gần chục phân, phần chân bằng kim loại của nó lún vào mặt sàn mềm và cái rương bướng bỉnh dừng lại. Không chịu thua, tôi vòng sang bên đối diện, dùng cả hai bàn tay tóm chặt lấy cái khóa móc rồi kéo đi giật lùi. Trước sự kinh ngạc tột độ của tôi, cái rương dịch liền một hơi phải đến gần một mét. Đây chẳng phải là một thứ lao động cao quý gì cho cam - tôi phải lặp đi lặp lại động tác ngồi xổm nhích người giật lùi cọ mông xuống sàn hết lần này tới lần khác, mỗi cú trượt đi của cái rương lại đi kèm tiếng kim loại nghiến ken két trên gỗ chói tai - nhưng chẳng mấy chốc tôi đã lôi nó ra được khỏi phòng và chuyển sang kéo lê từng chút từng chút một, từ trước khung cửa này qua trước khung cửa khác, ra phía chiếu nghỉ. Tôi đắm mình vào trong nhịp điệu kéo lê, và cũng nhờ đó mà mồ hôi toát ra đầm đìa đầy nam tính.
Cuối cùng tôi cũng ra tới chiếu nghỉ, rồi cùng một tiếng làu bàu chẳng mấy tế nhị cuối cùng, lôi cái rương ra chiếu nghỉ ngay sau mình. Giờ thì nó trượt đi thật dễ dàng, và lôi thêm vài cái nữa, tôi đã đưa cái rương ra chông chênh bên rìa chiếu nghỉ; chỉ cần một cú huých cuối cùng là đủ đẩy nó rơi xuống. Nhưng tôi muốn được nhìn tận mắt cái rương vỡ ra - phần thưởng cho tất cả nỗ lực của tôi - vậy là tôi đứng dậy, cẩn thận nhích ra phía rìa cho tới khi thoáng nhìn thấy được sàn căn phòng tối mờ mờ bên dưới. Sau đó, tôi nín thở tặng cho cái rương một cú đạp nhẹ.
Nó lừng khừng giây lát, lảo đảo bên bờ rìa của định mệnh, rồi quả quyết nhào ra trước và rơi, lộn vòng trên không như một điệu vũ ba lê quay chậm tuyệt đẹp. Thế rồi một tiếng va đập thật lớn rền vang dường như làm chấn động cả ngôi nhà trong khi một đám bụi từ phía dưới xộc lên tới chỗ tôi, làm tôi phải che mặt và rút lui vào trong lối đi cho tới khi nó tan đi. Một phút sau, tôi trở lại một lần nữa từ chiếu nghỉ ngó xuống và rồi nhìn thấy không phải một đống mảnh gỗ vỡ nát như tôi từng khấp khởi hy vọng thu được, mà là một cái lỗ rìa lởm chởm như răng cưa với kích thước đúng bằng cái rương trên nền ván lát sàn Nó đã rơi thẳng xuống dưới tầng hầm.
Tôi hối hả chạy xuống cầu thang và úp sấp bụng bò tới rìa chỗ sàn nhà bị thủng như kiểu người ta tiếp cận một cái lỗ trên băng mỏng. Cách phía dưới chừng năm mét, qua một màn bụi lơ lửng và bóng tối, tôi nhìn thấy những gì còn lại của cái rương. Nó đã vỡ nát như một quả trứng khổng lồ, các mảnh vỡ của nó nằm lẫn lộn trong một đống đổ nát và ván sàn nát vụn. Nằm rải rác khắp nơi là những mảnh giấy nhỏ xíu. Có vẻ như cuối cùng tôi đã tìm thấy một hộp đựng thư! Nhưng sau đó, nheo mắt lại nhìn kỹ hơn, tôi có thể nhận ra những đường nét trên đó những khuôn mặt, dáng người - và khi đó tôi nhận ra những mảnh giấy kia không phải là thư mà là những bức ảnh. Có đến hàng tá. Tôi nóng bừng người lên vì phấn khích - rồi nhanh chóng lạnh toát người khi chợt nhận ra một điều kinh khủng.
Tôi cần phải đi xuống dưới đó.
Tầng hầm là một tổ hợp rối rắm nhiều căn phòng, thiếu ánh sáng đến mức tôi có mang băng bịt mắt thám hiểm chúng thì cũng chẳng có gì khác biệt. Tôi đi xuống các bậc thang kêu răng rắc và đứng dưới chân cầu thang một lúc, hy vọng đôi mắt mình cuối cùng sẽ điều tiết được, nhưng bóng tối ở dưới này đen thui tới mức chẳng thể nào điều tiết nổi. Tôi cũng hy vọng rồi mình sẽ quen được với mùi - một thứ mùi khó ngửi hăng hăng kỳ lạ, giống như tủ đựng hóa chất trong một phòng dạy môn hóa - nhưng không tài nào quen nổi. Vậy là tôi lê bước đi tới, kéo cổ áo sơ mi lên che mũi, hai bàn tay chìa ra phía trước lần sờ, và hy vọng mọi sự sẽ ổn thỏa.Tôi vấp chân suýt ngã. Có thứ gì đó bằng thủy tinh trượt đi trên sàn. Mùi có vẻ càng thêm khó chịu. Tôi bắt đầu tưởng tượng ra những thứ đang rình rập trong bóng tối phía trước mình. Quên lũ quái vật và ma quỷ đi - sẽ thế nào nếu có một cái hố nữa dưới sàn? Nguời ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra xác tôi.
Thế rồi tôi chợt nhớ ra, trong một phút lóe sáng thiên tài nho nhỏ, là bằng cách bật màn hình chính của chiếc điện thoại di động vẫn đút trong túi quần (bất chấp việc tôi đang ở cách xa trạm tiếp sóng gần nhất đến mười dặm), tôi có thể biến nó thành một cái đèn pin mờ mờ. Tôi giơ điện thoại lên, chĩa màn hình ra xa khỏi mình. Quầng sáng hầu như không thể xuyên vào bóng tối, vậy là tôi chiếu nó xuống sàn. Toàn là những phiến đá lát nứt nẻ và phân chuột. Tôi hướng quầng sáng sang bên; một tia phản chiếu yếu ớt lóe lên hất trở lại.
Tôi bước lại gần thêm một bước và đưa điện thoại lia xung quanh. Từ trong bóng tối hiện lên một dãy những chiếc giá xếp từng hàng bình thủy tinh. Những chiếc bình có đủ loại hình dạng và kích thước, bên ngoài cáu bụi, bên trong đựng đầy thứ gì đó bèo nhèo lơ lửng trong chất lỏng đυ.c lờ lờ. Tôi nghĩ tới khu nhà bếp và những cái bình đựng rau quả vỡ nát tôi đã tìm thấy ở đó. Có thể nhiệt độ ở dưới này ổn định hơn, và vì thế những cái bình ở đây vẫn giữ được.
Nhưng sau đó, tôi lại gần hơn và nhìn kỹ hơn, để rồi nhận ra trong những cái bình này không phải là rau quả, mà là nội tạng. Óc. Tim. Phổi. Mắt. Tất cả đều được ngâm trong một thứ formaldehyd pha lấy, giải thích cho thứ mùi kinh khủng đó. Tôi bịt mồm loạng choạng lao vào bóng tối rời xa khỏi chúng, vừa nôn ọe vừa cố kìm lại. Đây là chỗ quái quỷ nào vậy? Những cái bình đó là thứ rất có thể người ta sẽ trông đợi tìm thấy dưới tầng hầm của một trường y có hành tung hắc ám nào đó, chứ không phải của một ngôi nhà toàn trẻ con. Nếu không vì tất cả những điều kỳ diệu ông nội Portman đã kể về nơi này, rất có thể tôi đã tự hỏi liệu có phải bà Peregrine đã cưu mang lũ trẻ chỉ để lấy nội tạng của họ.
Khi đã ít nhiều bình tĩnh lại, tôi ngước lên và thấy một quầng sáng mờ khác phía trước mình - không phải ánh phản chiếu lại luồng sáng từ điện thoại của tôi, mà là một tia sáng ban ngày yếu ớt. Hẳn nó lọt xuống qua cái lỗ tôi tạo ra.
Tôi kiên quyết bước tới, hít thở qua làn vải của cái áo sơ mi được kéo cao lên, đồng thời tránh xa khỏi các bức tường cũng như bất cứ nỗi kinh ngạc ghê tởm nào chúng có thể chứa đựng.
Quầng sáng dẫn tôi đi vòng qua một góc quẹo, vào một căn phòng nhỏ có một phần mái đã đổ sập xuống. Ánh sáng ban ngày chiếu xuyên qua cái lỗ xuống một đống ván sàn vỡ nát và mảnh thủy tinh vỡ, từ đó cuộn lên đám bụi lơ lửng, những mảnh thảm rách nằm rải rác đây đó như những miếng thịt khô. Bên dưới đống đồ nát tôi có thể nghe thấy tiếng lạo xạo của những bàn chân tí hon, một cư dân gặm nhấm sống trong bóng tối nào đó đã sống sót sau khi thế giới của nó bị đổ ập xuống. Và nằm giữa đống tan hoang này là cái rương bị phá hủy, những bức ảnh rải tung tóe xung quanh nó như hoa giấy.
Tôi cẩn thận lần tìm đường đi qua đống đổ nát, những mảnh gỗ nhọn hoắt nhô cao lên như những cây lao và những tấm ván chi chít đinh gỉ. Quỳ gối xuống, tôi bắt đầu cứu vãn những gì có thể từ đống tàn tích. Tôi có cảm giác mình như một nhân viên cứu hộ, nhặt các bức ảnh lên khỏi đống đổ nát, lau sạch đi mảnh thủy tinh và vụn gỗ. Và cho dù một phần trong tôi muốn khẩn trương - chẳng thể nói chắc được liệu phần còn lại của sàn tầng trệt có đổ sập xuống đầu tôi hay không và nếu có thì là khi nào - tôi vẫn không thể ngăn mình xem xét chúng.Thoạt nhìn, trông chúng giống như những bức ảnh ta có thể tìm thấy trong bất cứ cuốn album gia đình nào. Có những bức ảnh chụp những người vui vẻ nhảy nhót trên bãi biển, mỉm cười ngoài vòm cổng sau nhà, những phong cảnh khác nhau trên đảo, và rất nhiều trẻ con, chụp một mình hay chụp đôi, những bức ảnh chụp phong cảnh trên đảo, những bức hình chụp thân mật hay những bức chân dung chụp trước phông nền, người được chụp ôm khư khư những con búp bê có đôi mắt vô hồn, như thể họ đã tới hiệu ảnh Glamour ở một trung tâm thương mại kinh khủng nào đó thế kỷ trước. Nhưng điều khiến tôi thực sự rợn gáy không phải là những con búp bê bộ dạng như zombie, cũng không phải là kiểu tóc kỳ quái của những đứa trẻ hay việc dường như những đứa trẻ trong ảnh không bao giờ mỉm cười, mà là việc càng ngắm nhìn kỹ, tôi càng thấy những bức hình trở nên quen thuộc. Tất cả đều có cái vẻ gì đó ghê rợn, giống những bức ảnh cũ của ông nội tôi, nhất là những bức ảnh ông giấu kín dưới đáy cái hộp đựng xì gà của ông, cứ như thể tất cả chúng đều thuộc cùng loạt ảnh.
Chẳng hạn, có một bức ảnh hai cô gái trẻ tạo dáng trước phông nền vẽ cảnh đại dương trông chẳng giống lắm. Bản thân cái ảnh cũng chẳng mấy lạ, điều kỳ dị là ở tư thế của hai người chụp. Cả hai đều quay lưng lại ống kính. Tại sao họ bỏ ra bấy nhiêu công sức và chi phí để được chụp ảnh - vào thời đó chụp chân dung khá tốn tiền - để rồi lại quay lưng vào ống kính chứ. Phần nào trong tôi trông đợi sẽ tìm thấy trong đống đổ nát một bức ảnh nữa cũng chụp các cô gái này quay mặt vào ống kính, để lộ ra những hộp sọ đang nhăn nhở thay vì các khuôn mặt.
Những bức ảnh khác dường như cũng bị chỉnh sửa theo cùng cách như một vài bức ảnh của ông nội tôi. Một bức như thế chụp cô gái đứng một mình trong một nghĩa địa nhìn xuống một hồ nước phản chiếu cảnh vật phía trên - nhưng trên mặt nước lại có bóng của hai cô gái. Nó làm tôi nhớ tới bức ảnh chụp cô gái bị nhốt trong chai của ông nội Portman, chỉ có điều thủ thuật phòng tối được sử dụng ở đây, dù là gì đi nữa, trông không có vẻ gì là giả tạo. Một bức ảnh khác chụp một cậu thiếu niên có vẻ bình thản đáng kinh ngạc trong khi phần thân trên của cậu ta có vẻ đang bị ong bu đầy. Cái đó cũng dễ làm giả thôi, phải không nào? Như bức ảnh cậu bé đang nâng bổng một vật chắc chắn là tảng đá làm từ thạch cao. Đá giả, ong giả.
Tóc gáy tôi dựng cả lên khi tôi nhớ lại điều ông nội Portman đã nói về một cậu bé ông từng biết ở trại trẻ này - một cậu bé nuôi ong trong người. Mỗi lần cậu ta há miệng là vài con ong sẽ bay ra, ông đã kể như thế, nhưng chúng không bao giờ đốt trừ khi Hugh muốn chúng làm vậy.
Tôi chỉ có thể nghĩ tới một cách giải thích. Nhưng bức ảnh của ông có nguồn gốc từ chính cái rương đang nằm tan nát trước mặt tôi. Song tôi vẫn chưa chắc chắn về điều đó cho tới khi tìm thấy một bức ảnh kỳ quái: hai đứa trẻ đeo mặt nạ mặc áo cổ diềm xếp nếp, một cậu dường như đang cho cậu kia ăn một dải ruy băng. Tôi không biết chính xác hai nhân vật này có ngụ ý gì - ngoại trừ tạo cảm hứng cho những cơn ác mộng; họ là ai, hai vũ công ba lê cùng bị chứng bạo dâm chắc? - nhưng tôi chắc chắn một trăm phần trăm ông nội Portman cũng có một bức ảnh chụp chính hai cậu bé này. Tôi đã thấy bức ảnh đó trong cái hộp xì gà của ông chỉ mới vài tháng trước.Không thể nào có chuyện trùng hợp ngẫu nhiên, cũng có nghĩa là những bức ảnh ông đã cho tôi xem - và thề với tôi là của những đứa trẻ ông đã biết trong trại trẻ này - thực sự có nguồn gốc từ trại trẻ tôi đang đứng đây. Nhưng phải chăng thế nghĩa là, bất chấp những nghi ngờ tôi đã ấp ủ thậm chí từ khi còn là cậu nhóc tám tuổi, những bức ảnh kia đều là thật? Thế còn những câu chuyện kỳ ảo đi kèm với chúng thì sao đây? Thật khó lòng tin rằng có bất kỳ chuyện nào trong đó là thật - thật theo đúng nghĩa đen. Ấy thế nhưng đứng đó giữa khung cảnh bụi bặm tranh tối tranh sáng của trại trẻ tịnh không bóng người nhưng đồng thời cũng có vẻ đầy những hồn ma lởn vởn, tôi thầm nghĩ, biết đâu đấy...
Đột nhiên một tiếng đổ sập ầm ầm vọng lại từ đâu đó trong phần ngôi nhà phía trên đầu tôi, tôi liền giật bắn người tới mức tất cả các bức ảnh tuột khỏi hai bàn tay.
Ngôi nhà đang lún sụt xuống, tôi tự nhủ hoặc đang đổ sụp xuống kìa! Nhưng trong khi tôi cúi xuống nhặt các bức ảnh lên, tiếng đổ sập ầm ầm lại vang lên, và trong nháy mắt chút ánh sáng yếu ớt chiếu xuống qua cái lỗ trên sàn tắt phụt, vậy là đột nhiên tôi ngồi chồm hỗm trong bóng tối đen như mực.
Tôi nghe thấy tiếng bước chân, rồi những giọng nói. Tôi dỏng tai lên cố lắng nghe xem chúng đang nói gì, nhưng không thể. Tôi không dám nhúc nhích, sợ rằng cử động nhỏ nhất cũng có thể gây ra một dòng thác những mảnh vỡ ầm ầm đổ xuống khắp xung quanh mình. Tôi biết nỗi sợ mình cảm thấy thật vô lý - hoàn toàn có thể chỉ là mấy cậu nhóc rapper ngớ ngẩn kia lại đang bày ra một trò chơi khăm nữa - nhưng tim tôi đang đập như thể tôi chạy với tốc độ một trăm dặm trên giờ, và trực giác tinh nhạy của một con thú ẩn sâu trong tôi ra lệnh cho tôi phải im lặng.
Hai chân tôi bắt đầu tê dại. Khẽ khàng nhất có thể, tôi chuyển tì người từ chân này sang chân bên kia để máu lưu thông trở lại. Có một mảnh nhỏ xíu nào đó rời ra khỏi đống đổ nát và lăn đi, gây nên một tiếng động nghe thật to trong khung cảnh im lặng như tờ. Những giọng nói im bặt. Thế rồi một tấm ván sàn kêu răng rắc ngay trên đầu tôi và một đám bụi vữa lả tả rơi xuống như một cơn mưa nhỏ. Dù ai ở trên đó, họ cũng biết chắc tôi đang ở đâu rồi.
Tôi nín thở.
Thế rồi tôi nghe thấy giọng một cô gái dịu dàng lên tiếng, "Abe? Có phải anh đấy không?"
Tôi tưởng mình vừa mơ suốt. Tôi chờ cô gái lên tiếng lần nữa, nhưng một lúc lâu sau chỉ có tiếng mưa rào rào đập xuống mái nhà, như cả nghìn ngón tay đang gõ xa xa ở đâu đó. Rồi một cây đèn bão vụt sáng lên trên đầu tôi, tôi ngửa cổ ngước lên thì thấy sáu đứa trẻ đang quỳ gối quanh đường rìa nham nhở của lỗ vỡ trên sàn nhà, chăm chú nhìn xuống.
Không hiểu từ đâu, nhưng tôi nhận ra họ. Khuôn mặt họ dường như tôi đã từng gặp trong một giấc mơ nửa nhớ nửa quên. Tôi đã thấy họ ở đâu rồi nhỉ - và làm thế nào họ lại biết tên ông nội tôi được?
Sau đó tất cả trở nên rõ ràng. Trang phục của mấy đứa trẻ thật lạ, thậm chí cũng không giống người xứ Wales. Những khuôn mặt nhợt nhạt vắng bóng nụ cười của họ. Các bức ảnh rải ra trước mặt tôi, chăm chăm ngước nhìn lên tôi trong khi mấy đứa trẻ chăm chăm nhìn xuống. Tôi đột nhiên hiểu ra.Tôi đã trông thấy họ trong những bức ảnh đó.
Cô gái vừa lên tiếng lúc trước đứng lên để nhìn tôi được rõ hơn. Trong hai bàn tay mình, cô gái giữ một quầng sáng chập chờn, không phải là một cây đèn bão hay một ngọn nến, mà dường như giống một quả cầu lửa, không có chất đốt nào ngoài làn da trần của cô gái. Tôi đã thấy bức ảnh của cô chưa đầy năm phút trước đó, và trong ảnh cô trông rất giống lúc này, thậm chí vẫn đang ấp ủ cùng thứ quầng lửa lạ lùng đó giữa hai bàn tay mình.
Tôi là Jacob, tôi muốn nói lên thành tiếng. Tôi đã tìm các bạn. Nhưng quai hàm tôi đã trở nên cứng đờ, và tất cả những gì tôi có thể làm là mở to mắt nhìn trân trối.
Cô gái tỏ vẻ khó chịu. Tôi trông quả là thảm hại, ướt sũng nước mưa, cả người phủ đầy bụi và đang ngồi xổm giữa một đống đổ nát. Cho dù cô gái và những đứa trẻ khác đã trông đợi tìm thấy cái gì phía dưới cái hố trên nền nhà này, thứ đó cũng không phải là tôi.
Đám trẻ rì rầm trao đổi gì đó, đoạn đứng dậy rồi nhanh chóng tản ra. Sự di chuyển đột ngột của họ làm tôi bừng tỉnh, lấy lại được giọng nói của mình và hét lớn lên bảo họ đợi đã, nhưng họ đã chạy rầm rập trên ván lát sàn, lao về phía cửa ra vào. Tôi lần mò vượt qua đống đổ nát và loạng choạng mò mẫm đi trong tầng hầm sặc mùi khó ngửi về phía cầu thang. Nhưng khi tôi lên trở lại được tầng trệt, nơi phần ánh sáng ban ngày bị họ đánh cắp đã bằng cách nào đó quay trở lại, mấy đứa trẻ kia đã biến mất khỏi ngôi nhà.
Tôi lao vụt ra ngoài, hối hả chạy xuống những bậc thềm xây bằng gạch xập xệ, ra tới bãi cỏ, vừa chạy vừa hét to "Đợi đã! Dừng lại!" Nhưng họ đã biến mất: Tôi đưa mắt nhìn khắp sân, trong khoảng rừng, vừa thở hổn hển vừa thầm rủa chính mình.
Có cái gì đó gãy răng rắc đằng sau vạt cây. Tôi quay ngoắt lại nhìn và thoáng trông thấy đằng sau những cành cây đan nhau chằng chịt có cái gì đó thấp thoáng động đậy - đường gấu của một chiếc váy trắng. Chính là cô gái đó. Tôi lao vào vạt rừng, gắng hết sức chạy đuổi theo. Cô gái cũng chạy đi theo lối mòn.
Tôi vượt qua những thân cây đổ, cúi người xuống tránh những cành cây sà thấp, đuổi theo cô gái cho đến khi hai buồng phổi như bốc cháy. Cô gái vẫn cố gắng cắt đuôi tôi, rời lối mòn rẽ vào khu rừng không hề có đường đi rồi trở lại lối mòn. Cuối cùng, khu rừng cũng nằm lại đằng sau, và hai chúng tôi chạy vào khu đầm lầy trống trải. Tôi nhận ra cơ hội của mình. Giờ thì cô gái không còn nơi nào để trốn - muốn bắt kịp cô tôi chỉ cần thắng về tốc độ và trong tình hình tôi thì đi giày thể thao, mặc quần jean, còn cô gái mặc váy, thắng thua coi như đã rõ. Tuy vậy, ngay khi tôi bắt đầu thu hẹp khoảng cách, cô gái đột ngột rẽ ngoặt và lao thẳng vào đầm lầy. Tôi chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài lao theo.