Lãnh Nghệ đợi một lúc, nghe ngóng xung quanh không có động tĩnh gì mới leo lên xà nhà không cao, đem va li da của mình và bọc y phục đặt ở một góc kín đáo trên xà nhà. Nhẹ nhàng thả người xuống, cài chốt cửa sổ rồi ra khỏi cửa, từ xa nhìn thấy Trác thị đi vào một cái cửa nhỏ nên cũng đi theo, thì ra phía sau là hậu hoa viên, không rộng lắm, nhưng có giả sơn, có chiếc ao nhỏ, trồng ít hoa sen. Chỉ là giờ là lúc đầu đông, lá sen khô héo, bên bờ ao còn phủ lớp băng mỏng.
Cái ao này dùng nước thông với một cái kênh, rồi chảy qua kênh khác, nước lưu thông không lo bị thối.
Cách chỗ nước chảy ra kênh không xa có một cái giếng, bên giếng lấy những tảng đá chất thành một đài giặt quần áo. Dưới đài có rãnh nước nhỏ thông với kênh, dẫn nước bẩn ra ngoài.
Trác thị đặt chậu gỗ xuống bên giếng, lấy từ trong chậu ra cái hộp gỗ đựng bột bồ kết, đi tới bên giếng, một chân quỳ trên miệng giếng hình tròn, nắm dây thừng thả thùng nước xuống giếng.
“ Để ta làm cho.” Lãnh Nghệ đứng nhìn nãy giờ, hai người mới lần đầu gặp, ấn tượng có một chút, cảm xúc chưa thể nói tới, nếu có thì chỉ là thương cảm giành cho nàng, trượng phu chết rồi, nàng không hay biết gì cả. Nhìn vóc dáng nhỏ nhắn ấy bận bịu, lòng y nặng trĩu, lúc giả mạo người ta, y chỉ lo tới bị phát hiện hay không, giờ mới hiểu đó còn là gánh nặng tội lỗi lẫn trách nhiệm.
Trác thị không biết Lãnh Nghệ theo phía sau, thình lình nghe thấy tiếng y, làm nàng giật mình run tay, thùng nước rơi uỳnh xuống giếng, theo bản năng với tay tóm lại.
Lãnh Nghệ sợ nàng rơi xuống, nhảy vọt tới giữ lấy tay nàng.
Trác thị quay đầu, thấy là y mới cười nhẹ:” Quan nhân.”
Lãnh Nghệ chỉ "ừ" một tiếng nhận lấy dây thừng, giúp nàng lấy nước. Trác thị kinh ngạc nhìn y, có vẻ bất an ngó quanh quất, nhìn thấy ở cửa hậu viện có hai bà tử đang đứng nhìn họ, không khỏi luống cuống. Nàng đưa tay ra muốn lấy lại dây thừng, lại không dám.
Giếng nước này khá sâu, đứng trên nhìn không thấy được mặt nước, mà Lãnh Nghệ thì chưa bao giờ lấy nước từ giếng, chuyện này không ngờ chẳng dễ dàng. Mặc cho y làm đủ trò, cái thùng gỗ cứng đầu kia cứ nổi bập bềnh trên mặt nước, không chịu chìm xuống cho y lấy nước.
Nhìn động tác lóng ngóng của Lãnh Nghệ, khóe miệng Trác thị hiện ra nụ cười:” Quan nhân, để thiếp làm cho.”
Lãnh Nghệ xấu hổ, nhưng y lắc dây thừng toát mồ hôi rồi mà không xong, đành đưa trả nàng.
Trác thị chỉ lắc cổ tay một cái, thế là thùng nước ngoan ngoãn chìm xuống, đôi tay mảnh mai thoăn thoắt kéo lên cả gầu nước đầy.
Lãnh Nghệ đỏ mặt khen:” Tay phu nhân thật khéo.”
Trác thị kỳ quái nhìn y.
Lãnh Nghệ tim đập lộp bộp, biết mình nói có gì đó sai rồi, hắng giọng che giấu:” Sao thế?”
“ Quan nhân trước kia đều gọi khuê danh Xảo Nương của thiếp mà ... Sao hôm nay khách khí thế?”
Xảo Nương? Vậy nàng tên là Trác Xảo Nương, Lãnh Nghệ phản ứng nhanh, chỉ chỉ:” Có người ngoài mà, gọi nàng là phu nhân tôn trọng hơn một chút.”
Người ta đâu có nghe thấy, nhưng Trác Xảo Nương không phản biện, chỉ cười rồi lại lấy nước.
Lãnh Nghệ quan sát, thấy động tác của Trác Xảo Nương rất nhẹ nhàng, tựa hồ trọng lượng của thùng nước không ảnh hưởng gì tới nàng, thả xuống kéo lên như không. Có điều sao có thể đứng trơ ra như vậy, khi Trác Xảo Nương định lấy thêm hùng nước nữa thì y nhận lấy thùng, nói:” Để ta làm.”
Vừa xong y quan sát động tác của Trác Xảo Nương rồi, cũng bắt chiếc theo nàng, làm không xong. Tốn nửa ngày trời còn được Trác Xảo Nương chỉ dẫn, mướt mồ hôi mới lấy được thùng nước đầu tiên, đổ vào chậu gỗ.
Trác Xảo Nương thật ra luống cuống hơn cả Lãnh Nghệ múc nước ấy chứ, chuyện chân tay này sao có thể để tướng công làm, tướng công là đại lão gia, phải làm việc lớn. Nàng rất muốn nhận lấy cái thùng gỗ lại không dám, đôi tay đỏ ứng cứ mài vào váy vải thô, thấy Lãnh Nghệ không hề có ý đưa thùng nước cho mình, đành ngồi xuống, mở hộp bột tạo giác, cho một ít vào chậu, mông đặt lên cái đôn đá, bắt đầu giặt quần áo.
Lãnh Nghệ lấy được thùng nước giếng đầu tiên trong đời, ai ngờ cảm giác rất có thành tựu, hơn nữa tìm ra yếu quyết rồi, lại hăm hở múc thêm thùng nữa, rồi lại thùng nữa ...
Trác Xảo Nương phát hoảng, rốt cuộc cũng phải nói:” Nước đủ rồi quan nhân.”
Đúng là quá đủ rồi, đầy tới tràn ra ngoài, Lãnh Nghệ dừng múc nước, sắn tay áo ngồi xuống, cầm lấy y phục trong chậu:” Để ta giúp nàng.”
“ Đừng.” Trác Xảo Nương cứ như mèo bị dẫm phải đuôi, gần như hét lên, đồng thời mắt lại liếc về phía cổng hậu viện, hai bà tử kia đang thì thầm gì đó. Dứt khoát cướp lấy y phục từ tay Lãnh Nghệ, Trác Xảo Nương gần như khẩn cầu:” Quan nhân, chàng đi vất vả rồi, mau về nghỉ đi.”
“ Ta không mệt.” Lãnh Nghệ sao không thấy Trác Xảo Nương nãy giờ mấy lần nhìn hai bà từ kia, hừ lạnh một tiếng, cao giọng nói:” Muốn xem thì tới đây mà xem, đừng lén lén lút lút đứng đó.”
Hai bà tử xoay người trốn nhanh như chuột.
Vừa rồi cho tay vào nước giặt y phục, Lãnh Nghệ nhận ra nước rất lạnh, bảo sao hai tay Trác Xảo Nương lại sưng đỏ như thế, không biết là phải giặt bao nhiêu y phục rồi, lửa giận nhen nhóm, từng thấy chuyện ác nô bắt nạn chủ trên phim, ai ngờ giờ tận mắt chứng kiến:” Đám nha hoàn bà tử đó giỏi thật, không làm việc thì cần họ làm gì? Đợi thờ như Bồ Tát à?”
Tác Xảo Nương khó xử nói:” Cũng không thể trách họ, họ không phải phó tòng nhà ta, chúng ta lại dùng tiền lương mấy tháng của họ, sao có thể trách họ không làm việc? Không sao, dù gì cũng chẳng có bao việc, một mình thiếp có thể làm được.”
Nghe nàng giải thích Lãnh Nghệ tức thì hiểu ra, đám nha hoàn bà từ này hẳn là thị tòng mà triều đình phân phối cho quan viên rồi, nói cách khác là triều đình bỏ tiền mời họ phục vụ quan viên. Chi phí do triều đình gánh, đây là một ưu đãi của triều Tống với sĩ đại phu. Chỉ là số tiền công mà đáng lẽ phải trả cho họ bị tri huyện dùng vào việc khác rồi, những người đó không phó thực sự, mà là kiểu nhân viên gia chính đời sau, không trả tiền cho họ, họ tất nhiên chẳng nề mặt mình.
Bảo sao viên tri huyện kia ngay tiền phòng tiền cơm của khách sạn cũng nợ nhiều như thế, hắn thực sự thiếu tiền tới phát điên rồi. Nhưng không biết hắn dùng số tiền đó vào việc gì, vì đãi ngộ quan viên thời Tống nổi tiếng là cao nhất lịch sử. Đời sau vẫn còn lưu truyền câu thơ "Tam niên thanh tri phủ, thập vạn tuyết hoa ngân", ý là làm quan phủ thanh liêm ba năm cũng có mười vạn lượng bạc, câu này có phần khoa trương, song cho thấy quan viên Đại Tống sống dư dả, không thể nghèo thành thế này.