Thời gian trôi qua gần hai mươi ngày, cuối cùng nhị thúc cũng gửi về bốn lượng bạc.

Khi ta nhận được bạc từ tay quân dịch ở trạm dịch, nước mắt suýt nữa rơi xuống.

Ta mua một con gà quay và một miếng thịt kho ở huyện thành, mang về nhà cắt thành miếng, đặt lên đĩa, lúc đưa vào miệng, Tiểu Đào khóc òa lên: “A a a, thơm quá! Lưỡi ta sắp rụng rồi! Cảm ơn nhị ca! Cảm ơn tổ tiên mười tám đời nhà ta!”

Khi trong tay đã có chút bạc, ta không còn đi huyện tìm việc nữa, mà ở nhà loay hoay với chiếc cối xay nước cũ kỹ bị bỏ quên ở góc sân.

Cối xay treo lơ lửng trên giá đỡ, bánh dưới gắn trên trục, nước đẩy làm xoay, có thể nghiền nát ngũ cốc.

Khi phu nhân còn sống, ta thường nghe bà kể đi kể lại về tay nghề làm đậu hũ của nhà họ Bùi trong lúc thoa thuốc lên đầu gối cho bà.

Nước giếng ngâm đậu, đậu xay thành hỗn hợp sệt, giã đến khi kêu răng rắc, rồi lọc qua rây lớn và vải mịn hai lần.

Đun nước trong nồi lớn trên lửa to, rồi hạ lửa nhỏ đun kỹ, khi bề mặt nước đậu đông lại và nhăn nheo thì tắt lửa. Thạch cao đã nghiền thành bột mịn, pha với nước rồi đổ vào nồi đất cùng với nước đậu đã nấu chín…

Chợ Nam phố Sư Tử, phố xá tấp nập, gian hàng bày bán đầy đường, gần như trải dài đến cầu châu.

Ngày hôm đó, khi mượn tiền của Triệu đại thúc tại huyện, ta đã khóc suốt đường về nhà họ Bùi.

Đồng tiền ấy kiếm được thật khó khăn, trong lòng áp lực chồng chất khiến ta không khỏi hoài nghi rằng mình thật vô dụng.

Khi nảy ra ý định buôn bán tại phố Sư Tử, điều đầu tiên ta nghĩ đến là bán đậu hũ.

Bởi vì trong nhà họ Bùi vẫn còn giữ nguyên bộ dụng cụ làm nghề từ ngày xưa, có thể tiết kiệm được không ít công sức.

Phu nhân từng nói, làm đậu hũ tưởng chừng dễ dàng nhưng muốn làm ra đậu hũ trắng mịn màng, cũng như nước tương đi kèm đúng vị, mỗi bước đều cần sự tỉ mỉ.

Thời gian ngâm đậu phải tùy theo mùa, nồi đất không được tráng men…

Lần đầu tiên ta làm đậu hũ, khi múc ra vài miếng để trong bát, Tiểu Đào còn hào hứng hơn cả ta: “Tẩu tẩu! Tẩu tẩu! Tẩu giỏi quá, sao tẩu cái gì cũng biết vậy!”

Nhưng cô bé cũng chỉ hào hứng được hai ngày, rồi nhìn ta dậy từ tờ mờ sáng để xay đậu, miệng lại bắt đầu lẩm bẩm: “Nhị ca đã gửi tiền về, tiết kiệm chút cũng đủ ăn uống, làm gì mà cực khổ thế này.”

“Không thể mãi trông chờ vào nhị ca muội được. Thúc ấy ở ngoài quân ngũ, có chút dư dả thì tốt, gửi hết tiền về nhà, thúc ấy sẽ gặp nhiều khó khăn, làm gì cũng không tiện. Con người sống trên đời, ngoài chuyện ăn no mặc ấm, còn cần tích lũy một ít tiền bạc, để cuộc sống thêm phần vững vàng, lòng dạ mới yên ổn.”

“Tẩu tẩu, tẩu tích góp tiền để làm gì?”

“Để làm gì ư? Nhiều lắm, ta muốn cho muội đi học, may áo mới cho muội và thái mẫu, ngày ngày đều được ăn thịt gà nướng và thịt kho.”

Ta bấm ngón tay tính toán, rồi nói với cô bé: “Con người phải hướng lên cao, nếu những điều này đều thành, sau đó ta còn muốn dành cho muội một phần của hồi môn.”

“Tại sao lại dành cho ta của hồi môn, sao tẩu không tự mình chuẩn bị?”

“Ta đã gả đi rồi mà, ta là tẩu tẩu muội đó.”

“Vậy sao không để dành của hồi môn cho nhị ca, huynh ấy lớn tuổi hơn ta, lẽ ra phải để dành trước cho huynh ấy.”

“… Với tài năng của nhị ca muội, thúc ấy chắc không cần chúng ta lo của hồi môn đâu.”

“Tại sao, huynh ấy rất lợi hại sao?”

“Rất lợi hại chứ, ta nghĩ thúc ấy sau này chắc chắn sẽ làm nên chuyện, biết đâu có thể trở thành một đại tướng quân.”

Vừa xay đậu, ta vừa cười nói với cô bé. Tiểu Đào có vẻ đăm chiêu, rồi hỏi tiếp: “Còn ta thì sao, tẩu nghĩ ta sau này sẽ làm gì?”

“Muội à, biết đâu lại vào cung làm nữ quan, giống như Tần Lương Ngọc hay Phùng Liêu gì đó.”

“Ta lợi hại vậy sao?”

“Đúng rồi, muội rất lợi hại, rất có tương lai.”

Nói nhiều, đến chính ta cũng bắt đầu tin tưởng: “Đến khi đó muội ở kinh thành có dinh thự lớn, nhớ đón ta lên hưởng phúc, ta cũng được nhờ phúc của muội, tìm bảy tám đứa nha hoàn, tiểu tư để hầu hạ.”

“Ta sẽ tìm cho tẩu một trăm đứa!”

Tiểu Đào hào hứng, mặt mày rạng rỡ, liền đến giúp ta làm việc: “Tẩu tẩu, nhanh tích lũy tiền đi.”

Vài ngày sau, khi ta cảm thấy tay nghề đã vững, liền đựng hai bát đậu hũ trong giỏ, ngồi xe lừa đến nhà Triệu đại thúc ở ngoại ô huyện. Trả xong tiền, ta nói với thúc ấy về ý định mở sạp, mời thúc ấy nếm thử đậu hoa.

Kết quả, thúc ấy nói: “Đậu hũ rất mềm mịn, nhưng hương vị chưa đủ, vẫn chưa bằng tay nghề của Bùi lão gia trước đây.”

Ta ngẩn người, mãi cũng không hiểu mình đã làm sai ở đâu.

Triệu thúc nói: “Đậu hũ chính tông của nhà họ Bùi tất nhiên có hương vị không ai sánh kịp, nếu không những người từng làm việc ở tiệm nhà họ Bùi cũng không thể chỉ mở sạp được một năm rồi phải đóng cửa. Người dân huyện này đều đã từng nếm thử đậu hũ của Bùi lão gia, khẩu vị rất kén chọn. Phố Sư Tử cũng không phải chưa từng có người bán, nhưng buôn bán ế ẩm, một bát mì mười lăm văn, một bát đậu hũ hai mươi văn, nếu hương vị không qua được, mọi người thà đi ăn mì còn hơn.

“Giá đậu sống đã cố định, bán rẻ thì không có lời, bán hai mươi văn một bát thì phải ngon lành, đó mới là lý do tiệm nhà họ Bùi ngày trước kinh doanh phát đạt.”

Chưa kịp khởi đầu đã gặp trắc trở, nhưng ta không bỏ cuộc.

Hôm sau, ta dẫn Tiểu Đào đến thôn Tây Pha tìm nhà họ Chu. Nếu nói ở huyện này còn ai biết cách làm đậu hũ của nhà họ Bùi, người đó nhất định là Bùi Mai.

Không ngờ rằng, chúng ta lại bị từ chối ngoài cửa, đến mặt Bùi Mai cũng không gặp được.

Tiểu Đào giận dữ nói: “Thật keo kiệt! Bủn xỉn! Chẳng phải chỉ lấy vài lần bánh của tỷ ấy thôi sao!”

“… Vài lần? Ta đã bảo không được đến nhà họ lấy bánh nữa, sao muội còn đến đó?”

“Ừm thì, ta đến rồi, ăn một ít, mang về một ít, lần cuối còn bị bà mẹ chồng tỷ ấy bắt gặp, tẩu không thấy sắc mặt bà ta khó coi thế nào đâu, ta còn lịch sự hỏi bà ta có phải bị bệnh không nữa.”

“… ”

Do hành vi ngang ngược của Tiểu Đào, Bùi Mai không ra mặt mà chỉ sai một nha hoàn với đôi mắt đặt tận trên đầu, bước ra nhìn chúng ta bằng ánh mắt khinh khỉnh—

“Đừng như miếng cao da chó bám dính lấy phu nhân nhà ta nữa. Phu nhân đã nói rồi, cái gì mà công thức, phu nhân không biết. Dù có biết cũng không nói cho người ngoài đâu. Ai mà thèm làm ăn với các người, buồn cười chết đi được. Các người có biết thân phận của phu nhân nhà ta không? Sau này đừng có đến nữa!”

Nha hoàn vừa dứt lời, Tiểu Đào lập tức tỏ vẻ lo lắng: “Ai chết cơ?”

“Cái gì mà ai chết? Ngươi nói vớ vẩn gì vậy?” Nha hoàn giận dữ quát.

“Chẳng phải ngươi nói buồn cười chết người sao? Tỷ tỷ ta đang ở nhà này, ta không hỏi sao được. Còn nữa, ngươi đừng có trợn mắt nhìn ta bằng lỗ mũi! Lỗ mũi của ngươi to quá, ta sợ đấy!”

Tiểu Đào chỉ vào mũi nha hoàn, khí thế còn hung hăng hơn cả cô ta.

Ta nắm lấy cổ áo sau của Tiểu Đào kéo cô bé đi, nhưng cô bé vẫn không chịu thôi, quay đầu lại hét với nha hoàn: “Mũi ngươi hình như bị lệch rồi, nhớ tìm đại phu khám đi, vốn đã xấu rồi…”

Ý định làm ăn của ta tạm thời bị gác lại, lòng ta cũng theo đó mà u sầu vài ngày.

Cho đến hôm đó, con gái của Triệu thúc là A Hương đến nhà họ Bùi. Nàng ấy đi xe lừa từ huyện đến, mang theo bánh vừng của Ngũ Hương Trai cho chúng ta. Ta có chút bất ngờ, vì nàng ấy di chuyển không thuận tiện, là một người bị què.

A Hương là một cô gái có khuôn mặt thanh tú, tính tình trầm lặng. Hôm đến nhà Triệu thúc trả tiền, ta đã gặp nàng, nhưng chỉ là chào hỏi qua loa, không hề trò chuyện.

Theo lời Triệu đại thúc, từ khi nàng ấy bị ngã què chân trái lúc mười một tuổi, thì nàng liền không thích ra ngoài, cũng không thích giao tiếp với người khác.

Nhưng bây giờ nàng ấy lại đến đay, lời nói cũng rất thẳng thắn, hỏi tôi: “Ngày đó cô nói chuyện với cha ta, ta đã nghe hết rồi. Cô định bỏ cuộc sao? Không muốn mở tiệm bán đậu hũ nữa à?”

Ta vội vàng lắc đầu, kể cho nàng ấy tình hình hiện tại.

Nàng ấy nói: “Sao cô không hỏi Nhị lang, có lẽ Bùi Mai thật sự không biết. Bùi bá bá là người làm ăn, vất vả nửa đời người, công thức này chắc chắn chỉ truyền lại cho con trai, dù sao con gái cũng là người sẽ gả đi.”

Ta sững người, không nghĩ đến điều này, rồi lại ngập ngừng nói: “Nhị thúc cũng chưa chắc đã biết, người đi xa từ lâu rồi…”

“Không hỏi sao biết? Thử hỏi xem.”

A Hương dường như còn quan tâm đến chuyện này hơn ta, thúc giục ta viết thư cho Nhị lang ngay lập tức, khi nàng ấy trở về huyện sẽ tiện đường mang đến bưu trạm.

Dưới ánh mắt khích lệ của nàng ấy, ta đành phải lấy giấy bút ra.

Nội dung bức thư đại ý là—

[Ta muốn làm chút buôn bán ở huyện, theo cách phu nhân từng chỉ dạy, nhưng đậu hũ ta làm ra vẫn chưa đúng vị. Nhị thúc có biết cụ thể phải làm như thế nào không? Có thể chỉ dẫn đôi chút chứ?]

Đồng thời kèm theo một công thức làm đậu hoa mà ta đã viết ra.

A Hương nhìn qua rồi nhăn mày, nói chữ ta xấu cũng được thôi, nhưng nội dung thì quá thẳng thắn, trong lời lẽ không hề có chút tình cảm nào giữa người thân.

Vì vậy, nàng ấy bảo ta thêm một câu cuối—

[Biên cương lạnh giá, nhị thúc nhất định phải giữ gìn sức khỏe, mong người bình an trở về nhà.]

Viết xong, nàng ấy liền mang thư đi.

Ban đầu ta không hiểu tại sao nàng ấy lại quan tâm đến chuyện này như vậy, cho đến khi nàng ấy rời đi mới nói: “Ta và cô bằng tuổi, cũng đều mất mẹ từ sớm, hơn nữa ta lại là một người què.”

Ta chưa kịp hiểu rõ ý, nàng ấy lại nói tiếp: “Cha ta luôn lo lắng tìm cho ta một mối hôn sự tốt, nhưng ta biết, ta có thể tìm được nhà tốt nào đây? Con trai của nhà tốt sao lại chịu cưới một người què. Nhưng cha ta không tin, ông ấy nói đã dành dụm được trăm lượng bạc làm của hồi môn cho ta, nhà chồng nghèo một chút cũng không sao, chỉ cần phu quân đối tốt với ta là được.”

“Ông đã lớn tuổi rồi mà vẫn ngây thơ như vậy, con trai nhà nghèo muốn cưới một người què, chẳng lẽ không phải vì trăm lượng bạc này hay sao.”

“Tiết Ngọc, nếu cô muốn bán đậu hũ, ta có thể dùng của hồi môn để giúp cô mở tiệm. Cô đừng vội từ chối, ta không có ý đồ gì khác, cũng chẳng mong nhiều, ta không tham lam, chỉ muốn tìm một lối thoát, không muốn gả cho những kẻ ở sau lưng gọi ta là đồ què.”

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play