Ba người vào phòng thì mới phát hiện phía Nho môn hãy còn chưa tới. Hai đứa thư đồng mặt mũi sáng sủa, mặc áo trắng chạy đến rót rượu, bày biện điểm tâm tươm tất đâu vào đó thì ra ngoài khép cửa lại.

Ban nãy, Đỗ Thải Hà cũng đã truyền âm thuật lại lời cảnh báo của Kim Đồng cho hai người Liễu kiếm tổ, Tiểu Thực Thần. Bấy giờ không có chuyện gì làm, Trương Mặc Sênh bèn truyền âm hỏi sư tỷ:

“Sư tỷ, Tứ Đại Tài Tử này là ai vậy? Có lợi hại đến thế không?”

Tam đồ đệ của Nguyễn Đông Thanh đảo mắt một cái, kém chút thì học ông thầy đưa cả bàn tay lên vuốt mặt.

Vốn là cô nàng tưởng lần này không đi cùng ông sư huynh Lý Thanh Vân thì không cần phải trả lời những câu tưởng như là thường thức của Huyền Hoàng giới này nữa, nhưng thế quái nào lại chui ra một tên thiếu va chạm xã hội tương tự như Trương Mặc Sênh.

Tiểu Thực Thần cũng biết câu mình hỏi chắc là ngu lắm, bèn cười trừ làm hoà.

Thực ra, Đỗ Thải Hà mấy năm liền lang bạt lục quốc thì Trương Mặc Sênh cũng có gần một năm chạy khắp nơi đấu trù, thành thử trong chuyện đối nhân xử thế thì cậu chàng cũng không thua kém gì cô sư tỷ, và chắc chắn là vượt xa ông sư huynh gà công nghiệp. Song Tiểu Thực Thần xưa nay ngoại trừ chiên xào nấu nướng ra thì ít để ý đến chuyện gì khác, lại thêm Mỹ Vị sơn trang và Nho môn từ xưa đã có nhiều bất hoà, nên lại càng không thèm ngó ngàng gì tới.

Đỗ Thải Hà nói:

“Luận về thiên kiêu đời này chiến lực cao nhất chắc chắn là Kiều Minh Long, Lý Thanh Minh, thế nhưng các nhà khác cũng không phải hạng giá áo túi cơm. Long Hoa tự có Kim Thiền Tử, Đạo Môn có Đạo Khả Đạo. Thiên kiêu nổi bật nhất đời này của Nho môn chính là Tứ Đại Tài Tử. Danh tiếng của bốn người này có thể nói là truyền khắp cả sáu nước, có người đời làm thơ khen là ‘Anh hoa độc bộ tam thiên lý / Lương tài hoành áp ngũ bách niên’. Nếu không bàn đến lực chiến đấu thì không dễ đối phó đâu.”

Trương Mặc Sênh à lên một tiếng, chợt lại gãi đầu, truyền âm cho hai người đi cùng:

“Quái lạ. Thiên kiêu của Nho môn yếu như vậy thì sao có thể là đối thủ của Võ đạo? Không tính Kiều Minh Long và Lý Thanh Minh, riêng hội thiên kiêu của Đao Sơn, thiên kiêu của Kiếm Trì cũng dễ dàng vượt mặt bọn chúng.”

Liễu Ân cười:

“Cảm ơn lời khen của thiếu trang chủ, nhưng thiên kiêu đời này của Kiếm Trì ta quả thực là không bằng đời trước, thật là hổ thẹn.”

Lão ngừng một chốc, đoạn nói:

“Võ đạo dễ nhập môn, tiến cảnh nhanh, thành thử nhiều người theo học, song các đạo khác không phải không có điểm đặc sắc của nó. Nếu nói về Nho môn, thì dùng bốn chữ ‘hậu tích bạc phát’ để hình dung là chuẩn nhất. Người theo Nho đạo trong lúc thanh xuân đều chú trọng mài dũa tài hoa, ôn dưỡng hạo nhiên chính khí. Đợi đến khi ba mươi tuổi, văn khí quán đỉnh, có thể thẳng bước vào Vụ Hải. Thế nên, trong Ngũ Lộ triều thiên, Nho môn mới là nhà có nhiều cường giả bậc trung, trung thượng nhất.

“Chuyện này đương nhiên cũng có nguyên nhân của nó...”

Liễu Ân vừa định giải thích đầu đuôi ngọn ngành thì phía ngoài đã có tiếng nói truyền tới, cắt đứt câu chuyện của lão:

“Đã để Liễu kiếm tổ, hai vị cao đồ chờ lâu, thật là thất lễ quá.”

Liễu Ân cười, vuốt râu, nói:

“Quán chủ nói quá lời. Lần này lão phu cũng là mượn hơi hai vị cao đồ của cổ viện mà mặt dày tham gia thôi. Quán chủ không phiền chứ?”

“Không phiền... đương nhiên... không phiền...”

Lam Ba quán chủ chưa kịp đáp, Bạch Lộ viện trưởng đã vội vàng tiến lên một bước đáp thay. Miệng lão nở nụ cười hiền hòa, đôi mắt híp lại, che dấu một tia khinh bỉ nơi đáy mắt.

“Có mà đến chống lưng cho hai đứa nhóc này thì có.”

Hai người quán chủ, viện trưởng vào phòng rồi, sau lưng lại có bốn thiếu niên nhẹ nhàng bước vào. Trương Mặc Sênh và Đỗ Thải Hà nghiêng đầu nhìn sang, chỉ thấy ấy là bốn thanh niên mặt mày sáng sủa, mày kiếm, môi mỏng, diện mạo cũng thuộc dạng tuấn tú dễ nhìn, song nếu so với Lý Thanh Vân thì không tránh được có một chút âm u, so với Lã Vọng Thiên thì nhiều mấy phần nham hiểm.

Một kẻ áo đỏ, tay cầm bút lông, tóc trên đầu vấn thành búi rồi buộc một cái khăn trắng. Y cúi đầu hướng về ba người Đỗ Thải Hà, nói:

“Liễu kiếm tổ, hai vị học huynh học tỷ, học trò Tề Thi Hồng có lễ.”

Một kẻ áo vàng, tóc để xõa tung, chính đang nhìn hai người Trương, Đỗ nhoẻn miệng cười. Chân mày gã rất sắc, hẹp mảnh như lợi kiếm chĩa lên trời, hai con mắt lúc cười híp lại như lá liễu, khiến cho kẻ khác bất giác cảm thấy nguy hiểm. Y cũng chắp tay, nói:

“Tại hạ Sở Họa Vân, cửu ngưỡng đại danh hai vị cao đồ đã lâu, nay mới được gặp.”

Một tên thì áo xanh, bên eo thắt một miếng ngọc hình cổ cầm, gật đầu với hai người Trương Mặc Sênh một cái. Trái với tên áo vàng, kẻ này lúc cười lên cho người ta cảm giác mát mẻ như gió xuân, ấm áp như nắng hè, làm người ta không tự chủ được cảm thấy thân cận. Y cong người cúi hẳn đầu xuống, hai tay chắp phía trước, nói:

“Chư... chư vị... không đúng. Kính... kính chào chư vị. Tại hạ... tại hạ là Ban Thục Cầm. Xin... xin chỉ giáo...”

“Ban học huynh có tiếng rụt rè, sợ người lạ, vẫn mong chư vị đừng trách. Tại hạ Hoàng Chấp Kỳ, xin được bái kiến hai vị cao đồ.”

Thiếu niên cuối cùng mặc áo trắng, mép áo viền bằng chỉ đen, cười cười nói đỡ cho kẻ áo xanh. Ban Thục Cầm cúi đầu, gãi gãi gáy, miệng thỉnh thoảng lại lắp bắp xin lỗi.

Đỗ Thải Hà gật đầu, nói:

“Nghe danh Tứ Đại Tài Tử đã lâu. Tiểu nữ thay mặt sư đệ có lễ với bốn vị công tử.”



Bên cạnh, Liễu Ân vừa kiềm chế hai người quán chủ, viện trưởng vừa nhìn cô nàng đối đáp. Thấy Đỗ Thải Hà nói chuyện với Tứ Đại Tài Tử vẫn dùng cái giọng không mặn không nhạt, không lạnh không nóng, lão mới âm thầm khen ngợi một tiếng trong lòng.

Thực ra...

Ngay từ khi bốn thiếu niên kia bước vào, cuộc “đàm phán” ngày hôm nay đã diễn ra.

Tề Thi Hồng tỏ vẻ bình đạm trầm ổn, chính là để tạo ấn tượng tốt đẹp ban đầu. Sau đó, Sở Họa Vân mới lên tiếng. Kẻ này cả người bốc lên mùi nguy hiểm rất nặng, chỉ cần không phải kẻ ngốc đều sẽ có chỗ đề phòng, cự tuyệt hắn ngoài ngàn dặm. Thế nhưng lại không biết, Sở Họa Vân chỉ là viên đá làm nền mà thôi.

Tiếp theo, Ban Thục Cầm mở lời.

Kẻ này ngay cả cái tên cũng nhu nhuyễn như tên con gái, vừa nói lắp vừa rụt rè, thực là khiến người ta muốn đề phòng hắn cũng không được. Càng huống hồ trước đó có Sở Họa Vân trợ công, thật là khác biệt như trời với vực, trắng càng thêm trắng mà đen càng thêm đen.

Thế nhưng, ngay cả Ban Thục Cầm cũng chỉ là lá xanh mà thôi. Dù sao, nói gì thì nói, một kẻ quá nham hiểm và một kẻ quá lương thiện đều khiến người ta cảnh giác, nhất là còn là lần đầu gặp gỡ.

Thành thử, cũng như cách Nho môn sắp xếp cho Tề Thi Hồng mở lời trước nhất rồi mới đến Sở Họa Vân, cố tình để Ban Thục Cầm nói lắp rồi Hoàng Chấp Kỳ cất tiếng giải vây cũng là nước cờ rất cao. Chẳng những chuyển dời sự chú ý khỏi “người tốt” Ban Thục Cầm, mà còn khiến người ta trong vô thức thấy Hoàng Chấp Kỳ giúp đỡ người khác.

Có câu trăm nghe không bằng một thấy, danh tiếng của Tứ Đại Tài Tử có tốt đến mấy cũng không thể sánh được với cảnh tượng diễn ra sờ sờ trước mặt. Liễu Ân dám tin tưởng đám thiên kiêu đời này của Kiếm Trì, bao gồm cả hai đệ tử nhà lão nếu có mặt ở đây ngày hôm nay chắc chắn cũng sẽ trúng kế, sinh ra hảo cảm với Hoàng Chấp Kỳ.

Thế nên...

Khi thấy Đỗ Thải Hà có thể giữ lòng bình thản, không mặn không nhạt từ đầu đến cuối, Liễu kiếm tổ mới không nén nổi có lời khen trong lòng.

Bạch Lộ viện trưởng thấy sắp xếp của Nho môn không thành công, chân mày hơi nhíu lại, song cũng không lấy gì làm khẩn trương cả. Dù sao, trong số anh kiệt đời sau của lục đại thư viện, số người có thể thắng được bốn người Tề, Sở, Ban, Hoàng này không có mấy ai. Mà tuổi tác trạc trạc hai đệ tử của Nguyễn Đông Thanh thì cũng chỉ có bốn người này.

Lại nói...

Tứ Đại Tài Tử chẳng những tinh thông một trong lục nghệ, mà còn giỏi tài biện chứng, nói năng hùng biện trôi chảy trơn tru, kinh sử điển cố thuộc làu làu không sai một mảy. Chẳng thế mà tuổi tuy còn nhỏ, đã có thể tọa đàm cùng các bậc đại Nho Huyền Hoàng giới. Ngay cả lão năm xưa cũng tự thẹn không bằng.

Mà danh tiếng từng người cũng không đơn giản.

Tề Thi Hồng, xuất thân từ đại Tề, theo học Thanh Hà thư viện, chủ tu là Thư trong lục nghệ, lại nổi danh thi tài độc bộ mười mấy châu, có mỹ danh là Thi công tử.

Sở Họa Vân, xuất thân từ đại Sở, học tập ở Bạch Lộ thư viện của lão. Người này chủ tu Lễ học, tài vẽ tranh nức tiếng xa gần. Tương truyền từng có mười mấy đại tộc, thế gia xếp hàng mua tranh của Sở Họa Vân, người hầu kẻ hạ xếp dọc từ đầu thành bắc đến cuối thành nam thành Ngự Long, cũng gọi là một truyền kỳ. Từ ấy thiên hạ gọi y là Họa công tử.

Ban Thục Cầm, người nước Thục, đang đọc sách ở Cổ Xuyên thư viện. Người này trời sinh Kiếm Cốt Cầm Tâm, có thể hóa tiếng đàn thành kiếm khí, từ ấy mà song tu Võ đạo, Nho đạo, song vẫn lấy Nho làm chủ. Ban Thục Cầm từng sử dụng một khúc khuynh đảo mười bốn thành, một khúc giết ba mươi hai cao thủ của Đạo môn, Phật môn, Võ đạo trong bí cảnh, nhận được danh xưng là Cầm công tử, một khúc mê người, một khúc giết người. Đương nhiên đạo mà y chủ tu cũng là Nhạc đạo.

Cuối cùng, Hoàng Chấp Kỳ, người đại Hoàng, học ở Tuyết Trai thư viện, chủ tu là Số. Y lấy kỳ thuật cử thế vô song bày bàn cờ thách đấu cao thủ sáu nước suốt mười bốn ngày không thua một trận nào, khiến người đời đặt cho mỹ danh là Kỳ công tử.

Danh sư xuất cao đồ, xưa nay Tứ Đại Tài Tử vẫn là niềm tự hào của bốn đại viện trưởng, giúp thư viện bọn họ ép được Lam Ba thư quán và Kiêu Vân thư viện một bậc. Thậm chí, khi đó để đảm bảo văn danh của bốn người Tề Thi Hồng không một vết nhơ, mấy vị viện trưởng chẳng thà ít đi một phần sức mạnh cũng không dẫn bọn họ đến luận đạo cùng Nguyễn Đông Thanh.

...

Sau đó, có vẻ Tứ Đại Tài Tử thấy đối phương không trúng chiêu tâm lý chiến của mình nên cũng ngồi xuống, bắt đầu đàm phán chuyện nghị hòa giữa cổ viện và Nho môn.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play