Amaranta Úrsula trở về vào đầu tháng mười hai, vui tươi và hớn hở, dắt theo một anh chồng ngoan ngoãn bằng sợi thừng tơ buộc ở cổ. Cô trở về đột ngột, không hề báo trước mặc bộ đồ trắng ngà, đeo chuỗi ngọc dài đến tận đầu gối, cùng những chiếc nhẫn bằng ngọc bích và đá quí, mái tóc uốn tròn mượt mà, hai bên tóc mai uốn cong được cài mỏ chim én. Người đàn ông đã kết hôn với cô sáu tháng trước là một người Phần Lan, đã cứng tuổi, khỏe đẹp và có dáng dấp của một thủy thủ. Chưa cần đẩy cửa phòng ngoài, Amaranta Úrsula đã nhận ngay ra rằng so với dự định, mình vắng mặt đã quá lâu và trở về quá chậm. – Trời đất ơi, – cô kêu lên với vẻ vui sướng nhiều hơn là sợ hãi, – sao lại chẳng có một người đàn bà nào ở đây thế này! Hành lý của Amaranta Úrsula xếp ở hành lang không xuể. Ngoài chiếc rương cũ của Fernanda mà cha mẹ đã gửi tới trường cho, Amaranta Úrsula còn mang về hai tủ đứng quần áo bốn va li lớn, một bao tải đầy những chiếc ô che nắng, tám thùng mũ nan với chiếc lồng to đùng nhốt năm chục chim yến, chiếc xe đạp ẩy chân của chồng đã được tháo rời và đựng trong một bọc có thể xách như xách một cây đàn vi-ô-lông-xen. Sau chuyến đi dài, cô không nghỉ ngơi dù chỉ một ngày. Amaranta Úrsula vận chiếc quần bảo hộ lao động bằng vải dày đã sờn mà chồng mang về cùng một vài thứ áo quần của các tay đua mô tô, rồi bắt tay vào việc sửa sang ngôi nhà. Cô xua đuổi lũ kiến đỏ đã ngự trị hành lang, chăm sóc cho các khóm hồng tươi lại, nhổ sạch đến tận rễ các loại cỏ dại, trồng lại các chậu cây dương xỉ, kinh giới và thu hải đường ở cạnh cầu thang. Amaranta Úrsula chỉ huy một đội thợ mộc, thợ khóa và thợ nề tiến hành việc trát lại những chỗ nứt nẻ trên nền nhà, chữa lại các cửa, sửa các loại bàn ghế, giường tủ và quét vôi trắng các bức tường cả bên trong lẫn bên ngoài, cho nên chỉ ba tháng sau khi cô trở về, không khí tươi trẻ và hội hè của thời kỳ có chiếc đàn dương cầm tự động xưa kia đã trở lại với ngôi nhà. Ở nhà này chưa hề có ai luôn luôn vui vẻ, vào bất kỳ lúc nào và bất kỳ hoàn cảnh nào như Amaranta Úrsula, chưa có ai sẵn sàng nhảy múa, ca hát và sẵn sàng vứt bỏ mọi đồ vật và các tập tục khô khan vào đống rác như cô. Amaranta Úrsula chỉ quét một nhát chổi là hết sạch các kỷ mềm tang thương cùng các vật vô dụng và các thứ đồ tế lễ mê tín dị đoan xếp đống trong góc nhà, và cô chỉ giữ lại – để tỏ lòng biết ơn Úrsula – tấm hình của Remedios ở phòng ngoài: “Ðẹp quá này” – cô kêu lên và cười ngặt nghẽo – “Một bà cụ mười bốn tuổi!”. Khi một người thợ nề bảo rằng trong nhà này có rất nhiều ma quái và chỉ có thể đuổi chúng đi bằng cách tìm ra những báu vật mà người ta đã chôn cất, thì Amaranta Úrsula cười khanh khách và nói rằng cô không tin vào những chuyện dị đoan. Amaranta Úrsula rất tự nhiên, thoải mái, có tinh thần mới mẻ và phóng khoáng đến mức khi nhìn thấy cô Aureliano đâm ra lúng túng. “Thật tuyệt vời”, – Amaranta Úrsula reo lên sung sướng, với đôi tay rộng mở. – “Người ăn thịt đồng loại đáng kính của tôi đã trưởng thành biết bao”! Trước khi Aureliano kịp phản ứng, Amaranta Úrsula đã đặt đĩa hát vào chiếc máy hát xách tay mà cô mang theo và dạy anh những điệu nhảy tân thời. Cô bắt Aureliano bỏ những chiếc quần bẩn thỉu thừa kế của đại tá Aureliano Buendía, cô tặng Aureliano những chiếc áo kiểu trẻ trung và đôi giày hai màu, rồi bắt anh ra đường mỗi khi anh ở quá lâu trong căn phòng của Melquíades. Amaranta Úrsula hoạt bát, mảnh mai và bướng bỉnh như Úrsula, xinh đẹp và khêu gợi như Remedios – Người đẹp, cô có một bản năng bẩm sinh rất lạ lùng về khả năng đi trước thời thượng. Khi qua đường bưu điện nhận hình vẽ các mốt mới nhất, ngay lập tức Amaranta Úrsula biết rằng cô đã không nhầm khi nghĩ ra những kiểu mẫu đó, và đó chính là những mẫu được cô may trên chiếc máy quay tay thô sơ của Amaranta. Cô đã đặt mua nhiều tạp chí về mốt thời trang và tờ thông tin về nghệ thuật và âm nhạc dân gian xuất bản ở châu Âu, và chỉ thoáng qua Amaranta Úrsula đã biết ngay rằng mọi chuyện diễn ra đúng như cô mường tượng từ trước. Không thể hiểu nổi vì sao một người đàn bà có đời sống tinh thần như vậy lại trở về lột thị trấn lặng như chết và chìm đắm trong bụi bặm và nóng nực này, nhất là lại về với một người chồng có thừa tiền để sống ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới và yêu vợ đến mức để cho vợ dùng thừng tơ buộc cổ lôi đi. Nhưng, càng ngày càng thấy rõ rằng Amaranta Úrsula có ý định ở hẳn lại đây bởi vì cô chỉ chấp nhận những chương trình lâu dài, và chỉ làm những gì phục vụ việc chuẩn bị cho một cuộc sống thuận tiện và một tuổi già yên tĩnh ở Macondo. Chiếc lồng chim yến cho thấy những ý định ấy không phải là ngẫu nhiên. Khi Amaranta Úrsula nhớ lại rằng mẹ cô có viết trong một bức thư về chuyện chim chóc bị hủy diệt, cô liền hoãn ngay lại một vài tháng chờ đến khi có một chiếc tàu từng ghé qua vùng đảo Fortunate và trên chiếc tàu đó cô đã chọn được hai mươi lăm đôi chim yến đẹp nhất để mang về gây lại giống trên bầu trời Macondo. Trong rất nhiều sáng kiến không thực hiện được của Amaranta Úrsula, đây là điều đáng tiếc nhất. Cô đã thả từng đôi chim yến ra với ý định để cho chúng sinh sôi nảy nở, nhưng chúng đã vụt bay khỏi Macondo trước khi nhận ra rằng chúng được tự do. Cô đã cố gắng giữ chúng lại một cách vô ích bằng chiếc lồng mà Úrsula đóng trong lần sửa sang nhà cửa đầu tiên. Cô đã làm những chiếc tổ giả bằng cói ở trên cây hạnh đào, rắc hạt kê lên mái ngói và dùng tiếng hót của những con chim trong lồng để gọi những con chim kia quay lại, nhưng tất cả đều vô ích, vì chúng càng có ý định bỏ đi, chúng chỉ bay một vòng trên trời để tìm đường trở về vùng đảo Fortunate.
Một năm sau khi trở về, mặc dù chưa có một quan hệ bạn bè thân mật và chưa mở một hội vui nào, nhưng Amaranta Úrsula vẫn tin rằng có thể khôi phục được cái cộng đồng đang ở trong tình trạng bất hạnh đó. Gaston, chồng cô, luôn luôn giữ ý để không va chạm với vợ, mặc dù ngay từ buổi trưa nhớ đời ấy khi từ tàu hỏa bước xuống, ông ta đã cho rằng quyết định của vợ mình là do ảo giác của sự nhớ nhung quê hương gây nên. Tin chắc rằng quyết định đó sẽ bị thực tế làm thay đổi, nên ngay cả việc lắp lại chiếc xe đạp ông ta cũng chẳng làm, mà chỉ đi kiếm những trứng nhện đẹp nhất trong các mạng nhện mà đám thợ nề hất xuống, lấy móng tay xé ra rồi để hàng giờ dùng kính lúp xem những con nhện bé li ti từ trong đó chui ra. Sau đó, cho rằng Amaranta Úrsula tiếp tục làm các công việc cải tạo kia vì không muốn cánh tay trở nên vụng về và biến dạng, Gaston liền lắp lại chiếc xe đạp bánh trước lớn gấp bội bánh sau, rồi lại tìm bắt và mổ xẻ những con sâu bọ lạ mà ông ta thấy ở quanh nhà bỏ vào các lọ đựng mứt hoa quả rồi gửi cho người thầy cũ dạy lịch sử tự nhiên ở trường đại học Liège, ở đó ông đã học rất tốt môn sinh vật mặc dù luôn luôn có ý muốn trở thành người lái máy bay. Khi đi xe đạp, Gaston mặc loại quần của người làm xiếc trên dây, đi đôi tất sặc sỡ và đội chiếc mũ kiểu thám tử, nhưng khi đi bộ ông lại mặc một bộ đồ đẹp hết ý bằng vải gai thô, đi giày trắng, thắt cà vạt nhỏ bằng lụa, đội mũ nan vành phẳng và tay cầm gậy song. Gaston có đôi mắt màu xám nhạt làm nổi thêm phong độ của một thủy thủ, bộ ria hung hung màu lông sóc. Mặc dù Gaston hơn vợ chí ít là mười lăm tuổi, nhưng ông có những ý thích rất trẻ trung, luôn luôn muốn làm cho vợ được hạnh phúc và có những phẩm chất của một người tình tốt tất cả những điều đó bù đắp cho sự cách biệt về tuổi tác giữa hai người. Thực ra những ai nhìn thấy người đàn ông ngoại tứ tuần, có những thói quen rất thận trọng, luôn luôn phục tùng vợ ấy và thấy chiếc xe đạp ẩy chân – kiểu xe trong rạp xiếc – của ông ta, đều không thể nghĩ rằng giữa ông ta và người vợ trẻ có sự hòa hợp trong một tình yêu phóng túng, rằng ở những nơi không thuận tiện nhất, bất ngờ nhất, họ luôn luôn thỏa mãn với nhau như thuở ban đầu gặp gỡ và có một cảm hứng yêu đương mỗi ngày một sâu sắc hơn, phong phú hơn. Gaston không chỉ là một người tình mãnh liệt, có sự hiểu biết và trí tưởng tượng không bao giờ cạn, mà có lẽ là người đầu tiên trong lịch sử yêu đương đã làm một cuộc hạ cánh khẩn cấp để đến nỗi suýt nữa thì toi mạng cùng với người yêu, chỉ bởi vì muốn làm chuyện ái ân bên trên một cánh đồng hoa violet.
Gaston và Amaranta Úrsula quen nhau từ ba năm trước ngày cưới, khi chiếc máy bay thể thao cánh kép có vỏ bằng vải dày và nhôm dát mỏng của Gaston đã bay một đường bay dũng cảm để tránh đâm vào cột cờ và phần đuôi của nó bị mắc chặt vào dây điện nên Gaston đã phải nhảy xuống sân trường của Amaranta Úrsula. Thế là từ đấy, mặc dù chân bị nẹp, cứ cuối tuần Gaston lại đến nhà trọ của những người phụ nữ theo đạo, nơi Amaranta cư trú thường xuyên – ở đó nội qui cũng chẳng ngặt nghèo lắm như Fernanda mong muốn – để đón cô đến câu lạc bộ thể thao của anh. Họ bắt đầu yêu nhau trên độ cao năm trăm mét, trong ngày chủ nhật khi bay trên những cánh đồng hoang, và họ càng thấy gắn bó với nhau hơn khi thấy mình là những con người quá nhỏ bé trên trái đất. Amaranta Úrsula nói về Macondo như thể đó là một xóm làng rực rỡ và thanh bình nhất trên thế giới, nói về ngôi nhà lớn luôn ngào ngạt mũi hoa kinh giới, cô muốn sống ở đó đến già với người chồng chung thủy và hai đứa con trai bướng bỉnh mà sẽ có tên là Rodrigo và Gonzalo chứ không bao giờ chúng là Aureliano hoặc José Arcadio và một đứa con gái sẽ có tên là Virginia chứ nhất định không là Remedios. Amaranta Úrsula nhắc nhở thường xuyên đến làng quê đã được lý tưởng hóa bằng nỗi nhớ nhung, khiến cho Gaston hiểu rằng cô sẽ không lấy chồng nếu như không được đưa về sống ở Macondo. Gaston chấp thuận cũng như sau này chấp thuận theo ý thích của vợ, bởi vì tin rằng đó chỉ là một khát vọng nhất thời mà rồi nó sẽ bị thời gian xóa đi. Nhưng khi đã qua hai năm sống ở Macondo mà thấy Amaranta Úrsula vẫn hoan hỷ như ngày mới về thì Gaston bắt đầu thấy dấu hiệu báo động. Cho đến lúc ấy, ông đã mổ xẻ biết bao nhiêu sâu bọ ở vùng này, đã nói tiếng Tây Ban Nha như người địa phương và đã điền kín các ô đố chữ trên những tờ tạp chí mà họ nhận được qua đường bưu điện. Gaston không thể lấy cớ về khí hậu để sớm trở về, vì thiên nhiên đã phú cho ông một buồng gan có thể thích nghi dễ dàng với những miền đất xa lạ, có thể chịu đựng được cái nóng ngột ngạt ban trưa và thứ nước có bọ gậy ở bên trong. Anh rất thích món ăn đặc sản của địa phương, có lần đã ăn hết tám mươi hai quả trứng thằn lằn. Ngược lại, Amaranta Úrsula mang theo cá và các loại hải sản ướp trong các thùng nước đá, thịt hộp và mứt hoa quả, vì cô chỉ ăn được những thứ đó thôi; cô vẫn mặc theo kiểu châu Âu và nhận hình vẽ các loại mốt ăn vận qua đường bưu điện dù chẳng đi đâu và chẳng thăm ai, và mặc dù anh chồng đã chẳng còn hào hứng lắm với việc khen ngợi những bộ đồ ngắn, những chiếc mũ len đội lệch và những dây trang sức quấn đến bảy vòng mới hết của cô. Có lẽ điều bí ẩn của Amaranta Úrsula là ở việc cô luôn luôn tìm cách để bận rộn, cô làm những việc trong nhà do mình nghĩ ra, làm ẩu một số việc để rồi ngày hôm sau lại sửa chữa, với một sự vội vàng nguy hiểm từng khiến Fernanda nghĩ đến cái tật xấu di truyền ở trong cái nhà này là làm để rồi phá. Amaranta Úrsula vẫn giữ tính vui nhộn, cho nên khi nhận được đĩa hát mới cô lại bảo Gaston ở lại trong phòng ngoài rất lâu để tập những điệu nhảy mà các bạn học của cô đã minh họa bằng hình vẽ, và sau đó họ thường kết thúc bằng những cuộc mây mưa trên những chiếc ghế xích đu sản xuất ở thành phố Wien hoặc trên nền nhà không trải thảm. Chỉ cần có con nữa thôi là Amaranta Úrsula hạnh phúc hoàn toàn, nhưng cô tôn trọng điều đã cam kết với chồng là chưa sinh đẻ trước khi chung sống được đủ năm năm. Ðể khỏi trống trải trong những giờ nhàn rỗi, Gaston đến phòng Melquíades với anh chàng Aureliano lánh đời. Gaston rất thích thú kể với Aureliano về những nơi thân thuộc nhất trên quê hương mình mà Aureliano hiểu biết tường tận như thể từng sống ở đó nhiều năm. Khi Gaston hỏi làm thế nào để biết được những điều không ghi trong bộ bách khoa toàn thư, ông nhận được chính câu mà Aureliano đã trả lời José Arcadio: “Người ta biết tất cả”. Ngoài tiếng Phạn, Aureliano đã biết tiếng Anh, tiếng Pháp, chút ít tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Vì trong thời gian đó Aureliano ra khỏi nhà vào các buổi chiều và được Amaranta Úrsula dành cho khoản tiền chi tiêu hàng tuần lên phòng anh giống một bộ phận của hiệu sách ông già thông thái xứ Catalunya. Aureliano đọc một cách tham lam cho đến tận khuya, mặc dù qua cách đọc của Aureliano, Gaston nghĩ rằng không phải Aureliano mua sách để tìm các thông tin mà là để kiểm nghiệm xem những kiến thức của mình có chính xác không, và chẳng thích cuốn sách nào hơn những bản viết trên tấm da thuộc mà anh đã dành cho chúng những khoảng thời gian tốt nhất của buổi sớm mai. Cả Gaston và vợ đều muốn hòa mình vào cuộc sống gia đình, nhưng Aureliano là một người thầm kín, trong anh có một lớp mây mù bí ẩn mỗi ngày một dày đặc thêm. Gaston không thể nào thân mật với Aureliano được, và ông phải tìm trò tiêu khiển khác để giải buồn trong những lúc rỗi rãi. Lúc ấy ông nảy ra ý định lập một đường bưu điện hàng không. Ðó không phải là một đề án mới mẻ. Thực ra, Gaston đã có ý định ấy ngay từ khi quen biết Amaranta Úrsula, có điều là khi xưa không phải ông định thiết lập cho Macondo mà cho xứ Congo thuộc Bỉ, nơi gia đình ông có những khoản vốn đầu tư vào việc sản xuất dầu cọ. Ðến khi lấy Amaranta Úrsula rồi, ông quyết định sẽ sống ở Macondo một vài tháng để chiều lòng vợ nên đành hủy bỏ dự kiến trên. Nhưng khi Gaston thấy Amaranta Úrsula kiên trì tổ chức những cải cách công cộng và thậm chí còn cười khi ông nói bóng nói gió đến khả năng trở về quê hương, khi ông hiểu rằng mọi chuyện đã đi quá xa, và thế là Gaston lại nối đường liên hệ với những người bạn thân ở Brussels mà lâu nay ông quên lãng, và ông nghĩ rằng để trở thành một người hướng đạo thì vùng Ca-ri-bê hay là châu Phi cũng như nhau mà thôi. Trong khi mọi việc đang tiến triển, Gaston chuẩn bị một bãi hạ cánh trên khu đất rộng hoang vu giống như một cánh đồng khô cứng nứt nẻ, và ông nghiên cứu hướng gió, nghiên cứu địa lý vùng duyên hải và những đường bay thích hợp, mà không hề biết rằng việc làm cẩn thận của mình – rất giống với việc làm của ngài Herbert đã gây nên một sự nghi ngờ rất nguy hiểm trong dân làng, họ nghĩ rằng mục đích của ông không phải là mở đường mà là trồng chuối. Phấn khởi với cái điều bất chợt nghĩ ra mà cuối cùng dẫu sao cũng xác định lý do của việc ông dứt khoát ở lại Macondo, Gaston đã đến tỉnh lị vài lần, gặp các nhà chức trách, lấy được giấy phép và ký được những hợp đồng độc quyền. Trong khi đó, ông tiếp tục trao đổi thư từ với những người bạn thân ở Brussels, giống như quan hệ thư tín giữa Fernanda và các thầy thuốc không nhìn thấy được, thuyết phục họ rằng hãy gửi chiếc máy bay đầu tiên đến cùng với một tổ thợ máy lão luyện để lắp ráp nó ở hải cảng gần nhất rồi từ đó bay đến Macondo. Một năm sau khi bắt đầu đo lường và tính toán về khí tượng, tin tưởng vào những lời hứa hẹn được nhắc đi nhắc lại của những người trao đổi thư từ với mình, Gaston đã có thói quen vừa đi đường vừa nhìn lên trời, lắng nghe tiếng gió, chờ mong máy bay xuất hiện.
Việc Amaranta Úrsula trở về đã đưa đến sự thay đổi căn bản trong cuộc sống của Aureliano mặc dù cô không để ý thấy điều đó Sau khi José Arcadio chết, Aureliano trở thành một khách hàng thường xuyên của ông già thông thái người xứ Catalunya. Hơn nữa, lúc này Aureliano được tự do và có thời gian. Những điều ấy khơi dậy trong anh một sự tò mò nhất định đối với cái thị trấn mà anh chẳng hề lạ lùng. Trên những con đường vắng vẻ và bụi mù, với sự quan tâm mang tính khoa học hơn là tính nhân đạo, Aureliano vừa đi vừa xem xét phía bên trong của những ngôi nhà đổ nát, những tấm lưới sắt ở các cửa sổ đã bị gỉ, và các bầy chim hấp hối cùng những con người đã bị kỷ mềm làm cho nhu nhược đi. Với trí tưởng tượng, anh định khôi phục lại vẻ rực rỡ đã bị hủy hoại của thành phố thời Công ty chuối mà lúc này chiếc bể bơi ở đó đã khô cạn, chất đầy giày đàn ông và dép đàn bà, trong những ngôi nhà hoang tàn Aureliano thấy bộ xương của một con chó Ðức còn bị cột vào một chiếc vòng bằng sợi xích sắt, và một máy điện thoại chuông cứ réo liên hồi, khi Aureliano nhấc ống nghe lên, anh hiểu được điều mà một người đàn bà đau khổ và cổ xưa hỏi bằng tiếng Anh trong máy, anh trả lời rằng đúng như vậy, cuộc đình công đã kết thúc, ba ngàn xác người chết đã bị đổ xuống biển, Công ty chuối đã bỏ đi và đã từ nhiều năm nay Macondo trở lại thanh bình. Những cuộc đi dạo đó đã đưa Aureliano đến xóm lầu xanh điêu tàn, ở đó xưa kia người ta đốt hàng nắm tiền để mua vui cho các cuộc sống nhảy nhót, bây giờ đó là khu vực của những đường phố tang thương nhất, với một vài ngọn đèn đỏ còn đang thắp, những phòng nhảy vắng tanh được trang trí bằng những chiếc miện bỏ đi, ở đó những người vợ góa chẳng của ai cả, xanh rớt và béo ị, những bà lão người Pháp và những chủ chứa người Babilon vẫn tiếp tục đợi chờ bên cạnh những chiếc máy hát quay tay. Aureliano không thấy ai nhớ gì đến gia đình anh, ngay cả đến đại tá Aureliano Buendía cũng không được nhớ tới nữa, trừ một người đàn ông già nhất trong số những người da đen ở vùng Antidat, một ông già có mái tóc trắng như bông trông giống hình người trong tấm phim âm bản, đang tiếp tục hát ở dưới mái hiên những khúc ca thê thảm về buổi chiều tàn. Aureliano nói chuyện với ông già bằng thứ thổ ngữ của vùng Curaçao anh đã học được trong có vài tuần, và thỉnh thoảng cùng ăn với ông món canh đầu gà do cô gái gọi ông ta bằng cố nấu cho. Ðó là một cô gái da đen to lớn, xương cốt cứng cỏi, háng như háng ngựa, cặp vú như hai quả dưa tươi, mái đầu tròn và đẹp có chụp một chiếc lưới giữ tóc bằng dây đồng trông giống như chiếc mũ bịt đầu của một chiến binh thời Trung cổ. Cô ta tên là Nigromanta. Dạo ấy Aureliano bán những bộ đồ ăn, giá cắm nến và những thứ đồ cũ khác của nhà để lấy tiền ăn. Khi không có một xu dính túi, và thường là như vậy, Aureliano đến các quán ăn trong chợ, ở đó người ta cho anh những đầu gà lẽ ra vứt vào đống rác, Aureliano mang về cho Nigromanta nấu canh, cô ta còn bỏ rau thơm vào cho thêm ngon lành. Khi ông cụ chết rồi, Aureliano không năng lui tới nhà Nigromanta như trước nữa, nhưng vẫn gặp cô ta dưới bóng tối những cây hạnh đào ở ngoài quảng trường khi cô ta đang gạ gẫm những khách chơi đêm hiếm hoi bằng tiếng huýt gió như tiếng thú rừng. Nhiều lần Aureliano cặp kè bên cạnh Nigromanta và nói với cô, bằng thứ tiếng của xứ Curaçao về món canh đầu gà và những thứ ngon lành thú vị khác của cảnh nghèo hèn, và chắc là Aureliano cứ tiếp tục như vậy nếu như Nigromanta không bảo cho anh biết rằng việc anh đi với cô sẽ làm cho cô mất khách. Mặc dù có những lần Aureliano cảm thấy thèm khát và chính Nigromanta cũng đồng cảm và muốn chia sẻ với anh, nhưng hai người vẫn chưa ăn nằm với nhau. Bởi vậy cho đến khi Amaranta Úrsula trở về Macondo và ôm hôn anh một cách thân tình khiến anh lặng người đi, thì Aureliano vẫn còn là một chàng trai chưa biết mùi đời. Mỗi lần Aureliano nhìn thấy Amaranta Úrsula, và tệ nhất là những lúc cô dạy anh những điệu nhảy mới mẻ, Aureliano lại có cảm giác đê mê trong xương cốt, đó chính là cái cảm giác đã từng làm cho cụ tổ năm đời của anh mụ người đi khi Pilar Ternera kiếm cớ xem bói bài cho cụ ở kho ngô. Cố nén nỗi đau khổ trong lòng, Aureliano vùi đầu vào những dòng chữ trên tấm da thuộc và tránh sự khêu gợi ngây thơ của người đàn bà đã từng làm anh mất ngủ nhiều đêm vì bị sự thèm khát không được thỏa mãn giày vò; nhưng càng tránh Amaranta Úrsula thì anh lại càng khao khát chờ nghe tiếng cười khanh khách, tiếng rên như tiếng mèo gừ của cô cất lên trong khi đang sung sướng thỏa mãn tình dục vào bất kỳ lúc nào và ở những chỗ bất ngờ nhất trong nhà. Một đêm, trên chiếc bàn lớn ở xưởng kim hoàn, chỉ cách giường của Aureliano mười mét, vợ chồng Amaranta Úrsula đã diễn các trò ái ân một cách cuồng nhiệt, không còn biết trời đất là gì nữa. Ðêm ấy, chẳng những Aureliano không thể chợp mắt, mà ngay hôm sau anh vẫn còn hầm hập như sốt và bực tức đến phát khóc lên. Với Aureliano, sẽ chẳng bao giờ mất đi cái đêm đầu tiên anh chờ đợi Nigromanta trong bóng tối những cây hạnh đào, cố vượt lên nỗi lo lắng, do dự, tay nắm chặt một đồng rưỡi peso mà anh đã xin của Amaranta Úrsula, không phải anh xin tiền vì cần tiêu, mà là để trả thù Amaranta Úrsula, làm nhục cô bằng việc dùng số tiền đó đi mua dâm ở người con gái khác. Nigromanta dẫn Aureliano vào căn buồng có ánh sáng mờ ảo của những ngọn nến mạt hạng, đến chiếc giường ngủ là tấm ván kê trên đôi mễ và có trải tấm vải đã nhàu bẩn sau những cuộc truy hoan, tiếp đón Aureliano bằng tấm thân đã dày dạn, trơ trẽn và không hề bộc lộ một chút tình cảm, cô chuẩn bị tư thế để vắt cổ Aureliano như vắt cổ một chú bé còn nhút nhát, nhưng ngay lập tức Nigromanta đã nhận thấy ở anh ta một người đàn ông dữ dội khiến cô phải quằn quại toàn thân. Aureliano và Nigromanta cặp bồ với nhau.
Aureliano dành buổi sáng để đọc các ký hiệu trên những tấm da thuộc, buổi trưa anh đến cái phòng ngủ đầy kích thích kia, ở đó Nigromanta chờ đợi để bày cho anh hết ngón chơi này đến ngón chơi khác, cho đến khi cô ta phải rời Aureliano ra để đi rình bắt những “con bò lạc” khác. Cứ như vậy đến vài tuần sau Aureliano mới phát hiện ra rằng ở thắt lưng Nigromanta có một sợi dây nhỏ như được làm bằng dây đàn vi-ô-lông-xen nhưng rắn như thép và không có chỗ nối vì nó sinh ra và lớn lên cùng với cô ta. Gần như lần nào cũng vậy, giữa các đợt mây mưa, họ trần truồng và ăn ngay trên giường, trong cái nóng khủng khiếp và dưới những ngôi sao ban ngày có thể nhìn thấy qua các lỗ thủng trên mái tôn bị gỉ. Lần đầu tiên Nigromanta có một người đàn ông thường trực, một “cái cọc” như chính cô gọi trong khi cười ngất, điều đó khiến cho Nigromanta đã bắt đầu có ảo tưởng ở tình yêu và ảo tưởng đó chỉ chấm dứt khi Aureliano thú thật nỗi khát khao không được thỏa mãn với Amaranta Úrsula mà sự thay thế của Nigromanta không thể làm nguôi đi, ngược lại, lòng anh lại càng bị giày vò hơn khi kinh nghiệm khiến cho chân trời tình ái rộng mở thêm. Thế là, tuy vẫn tiếp Aureliano nồng nàn như trước, nhưng Nigromanta đòi thù lao một cách gay gắt, đến mức khi Aureliano không có tiền trả, cô đã ghi nợ, không phải ghi bằng chữ số mà bằng những vạch móng tay ở mặt sau cánh cửa. Tối đến, khi Nigromanta đi lang thang trong bóng tối ở quảng trường thì Aureliano đi đi lại lại ở hành lang như một người khánh lạ trong nhà, anh chào hỏi qua loa Amaranta Úrsula và Gaston – hàng ngày vợ chồng họ ăn tối vào giờ này – rồi quay về phòng, đóng cửa lại, anh không thể đọc, không thể viết và thậm chí không thể nghĩ ngợi được gì, cứ nôn nao vì những tiếng cười đùa bỡn cợt dạo đầu và sự bùng nổ sau đó của việc tận hưởng lạc thú diễn ra suốt đêm của đôi vợ chồng kia. Ðó là cuộc sống của Aureliano trong hai năm trước khi Gaston bắt đầu chờ máy bay đến, và cứ như vậy cho tới một buổi chiều Aureliano đến quán sách của ông già thông thái người xứ Catalunya và gặp bốn chàng trai lắm mồm đang cãi nhau gay gắt về các biện pháp diệt gián ở thời Trung cổ. Ông chủ quán sách biết rằng Aureliano thích những chốn mà trước kia chỉ có thánh Beda Ðấng chí tôn[Nhà sử học và tiến sĩ thần học người Anh, sinh năm 672 hoặc 573 và mất năm 735. Lễ thánh là ngày 27 tháng Năm] đọc thôi, đã khôn khéo mời anh tham gia cuộc tranh luận, và Aureliano nói một thôi một hồi rằng gián, theo sách Cựu ước là loài vật cánh xuất hiện sớm nhất trên trái đất đã chết nhiều nhất do bị đập bằng dép, nhưng là loài vật hoàn toàn bất trị với bất cứ biện pháp tiêu diệt nào, từ cà chua trộn muối bô-răc đến bột mì trộn đường, bởi vì ngay từ thời rất xa xưa một ngàn sáu trăm lẻ ba loại gián đã chống đỡ lại sự truy đuổi rất bền bỉ và không thương xót của loài người đối với bất kỳ loài vật nào, kể cả đôi với chính bản thân loài người nữa, đến mức độ cùng với việc có bản năng sinh đẻ, loài người còn có bản năng giết gián, và nếu như loài gián thoát khỏi sự cuồng nộ của loài người thì chính là vì chúng đã ẩn nấp trong bóng tối, ở đó chúng không bị tổn thất, bởi loài người có nỗi sợ hãi bẩm sinh đôi với bóng tối, nhưng ngược lại, chúng lại rất sợ ánh sáng giữa trưa, do vậy ở thời kỳ Trung cổ, hiện nay và mãi mãi sau này, biện pháp hữu hiệu duy nhất để diệt gián là dùng ánh sáng mặt trời. Cái thuyết định mệnh mang tính chất bách khoa ấy là cơ sở cho một quan hệ thân hữu sâu sắc giữa những người trẻ tuổi này. Từ ấy, chiều nào Aureliano cũng gặp bốn chàng trai hay tranh biện kia, đó là Álvaro, Germán, Alfonso và Gabriel, những người bạn đầu tiên và cũng là cuối cùng trong cuộc đời anh. Ðối với một người đàn ông từng giam mình trong sách vở như Aureliano, những buổi học bão táp, bắt đầu ở hiệu sách từ lúc sáu giờ chiều và kết thúc ở các nhà chửa vào lúc sớm mai, là một sự khám phá. Cho đến lúc ấy, Aureliano vẫn chưa nghĩ rằng văn chương là một trò chơi được bày đặt ra để bỡn cợt người khác, như Álvaro đã cho anh thấy trong một đêm chè chén. Phải một thời gian sau Aureliano mới nhận ra rằng rất nhiều sự kỳ cục đã bắt nguồn từ tấm gương của ông già thông thái người xứ Catalunya. Ðối với ông ta, sự hiểu biết chẳng có giá trị gì nếu như nó không được sử dụng để phát minh ra một phương pháp thới làm sữa đậu. Buổi chiều mà Aureliano giảng giải về loài gián, cuộc tranh luận được kết thúc ở ngôi nhà của những cô gái bán thân nuôi miệng, đó là một nhà chứa ma quái ở ngoại ô Macondo. Chủ nhà là một người đàn bà tươi cười, luôn lo lắng về chuyện đóng cửa và mở cửa. Nụ cười vĩnh cửu của mụ dường như được tạo nên bởi sự nhẹ dạ của khách chơi, những người này cử tin chắc rằng cái nhà chứa này là có thật, là chắc chắn, mặc dù thực ra nó chỉ tồn tại trong tưởng tượng mà thôi, bởi vì ở đây ngay cả những đồ vật có thể sờ thấy được cũng là không có thực: những chiếc ghế sẽ rời ra khi người ta ngồi xuống, tròng chiếc máy hát quay tay có con gà mái đang ấp trứng, vườn hoa gồm những bông hoa bằng giấy, lịch là lịch của những năm xa xưa, thuở Công ty chuối mới đến, những bức tranh là tranh cắt từ những tạp chí chưa in bao giờ. Ðến cả những cô gái làm tiền nhút nhát từ những nhà bên chạy đến khi mụ ta thông báo là có khách đến cũng hoàn toàn không phải là người thật. Những cô gái ấy xuất hiện không chào hỏi ai, họ mặc những chiếc áo hoa của cái thuở lên năm tuổi hoặc ít hơn, họ cởi ra với cử chỉ ngây thơ như khi mặc vào, và trong lúc sự ân ái lên đến đỉnh cao thì họ lại kêu lên một cách kinh ngạc rằng sao mà dữ dội thế, rằng hãy nhìn xem trần nhà đang sập xuống kia kìa, và ngày sau khi nhận một đồng rưỡi peso họ liền đem tất cả số tiền đó mua một chiếc bánh và một mẩu pho-mát mà mụ chủ bán cho, lúc đó mụ ta vui vẻ hơn bất kỳ lúc nào khác vì chỉ có mụ mới biết rằng ngay cả những thứ đó cũng chẳng phải là thức ăn thật. Aureliano, mà lúc đó thế giới của anh chỉ bắt đầu ở những tấm da thuộc chi chít chữ và kết thúc ở chiếc phản của Nigromanta, tìm thấy ở cái nhà chứa ma quái ấy một phương thuốc ngốc nghếch cho sự nhút nhát của mình. Thoạt đầu Aureliano không dám đến một căn phòng mà mụ chủ thường bước vào giữa những thời điểm tốt nhất của việc ân ái, ở đó mụ ta bình luận mọi kiểu về sự khoái lạc của những người trong cuộc mây mưa. Nhưng dần dần anh ta trở nên quen thuộc với những bổng lộc ấy của trái đất, đến mức một đêm buông tuồng nhất anh ta đã trút bỏ quần áo ở ngoài phòng tiếp đón, vừa đi khắp nơi trong nhà vừa giữ thăng bằng một chai bia đặt trên các bộ phận thuộc giống đực rất khác thường của mình. Chính Aureliano là người đã bày đặt ra những kiểu chơi kỳ quái mà mụ chủ hưởng ứng với nụ cười không biết tắt trên môi, mụ không phản đối cũng phòng tin những trò đó là có thật, cũng như thái độ của mụ khi Germán định đốt ngôi nhà này để chứng minh rằng nó không tồn tại, hay là khi Alfonso vặn cổ con vẹt và ném nó vào cái thảo nước đang sôi bắt đầu luộc gà. Dù Aureliano thấy gắn bó với cả nhóm bằng những tình thân thiện và yêu mến duy nhất, đến mức anh nghĩ rằng bốn người kia chỉ là một, anh vẫn gần gũi với Gabriel hơn với ba người kia. Sự gắn bó ấy nảy sinh trong cái đêm mà vô tình Aureliano nhắc tới đại tá Aureliano Buendía, và Gabriel là người duy nhất không tin rằng Aureliano đang giễu cợt ai. Ðến cả mụ chủ, thường không xen vào những cuộc chuyện trò, lúc ấy cũng gân cổ lên mà cãi rằng đại tá Aureliano Buendía, người mà quả thật mụ có nghe nói tới một vài lần, chỉ là một nhân vật mà chính phủ bịa ra để kiếm cớ giết những người Tự do. Ngược lại, Gabriel không hề tỏ ra nghi ngờ đối với sự thật về đại tá Aureliano Buendía, vì đại tá là chiến hữu và là người bạn nối khố của cụ tổ anh ta, đại tá Gerineldo Márquez. Những sự gợi nhớ không hẳn là cố ý càng sâu sắc hơn khi họ nói về vụ tàn sát những người lao động. Mỗi khi Aureliano đụng đến chuyện đó, không chỉ mụ chủ mà cả một số người lớn tuổi hơn mụ đều phủ nhận những lời đồn đại về những người lao động bị vây chặt ở nhà ga, về đoàn tàu hai trăm toa chở xác chết, thậm chí họ còn khăng khăng tin vào những điều đã được ghi trong những hồ sơ pháp lý và trong sách của trường tiểu học là Công ty chuối không hề tồn tại bao giờ cả. Aureliano và Gabriel gắn bó với nhau bằng một sự đồng cảm được xây dựng trên những sự kiện có thật mà chẳng ai tin, những sự kiện tác động đến cuộc sống của hai người tới mức họ thấy mình lưu lạc trong sự chao đảo của một thế giới đã bị tàn phá, ở đó chỉ còn lại một sự nhớ nhung mà thôi. Gabriel ngủ ở bất kỳ chỗ nào khi anh ta buồn ngủ. Một vài lần Aureliano để anh ta ngủ ở xưởng kim hoàn, nhưng ở đó anh ta thức trắng đêm vì bị váng đầu nhức óc bởi những tiếng động mà những người chết đi lại suốt đêm ở trong các phòng ngủ gây nên. Sau đó Aureliano gửi gắm Gabriel cho Nigromanta. Những lúc rỗi rãi cô ta đưa Gabriel về căn phòng tiếp khách làng chơi của mình và cô lại ghi nợ bằng những vạch dọc trên mặt sau cánh cửa, ở những chỗ trống còn lại rất ít ỏi sau khi đã ghi nợ của Aureliano. Mặc dù sống rất bừa bãi, cả nhóm cũng cố gắng làm một việc gì đó có ý nghĩa lâu bền, theo yêu cầu của nhà thông thái xứ Catalunya. Với kinh nghiệm của một cựu giáo viên văn học cổ điển và với kho sách lạ lùng, cụ là người đã tạo điều kiện cho họ dành cả một đêm để tìm tình huống kịch thứ ba mươi bảy, ở một nơi mà chẳng một ai có ý muốn và có điều kiện để học quá bậc tiểu học. Bị quyến rũ bởi việc phát hiện ra tình bạn, mê mẩn bởi sự thôi miên của một thế giới mà trước đó bị tính hẹp hòi của Fernanda che lấp, Aureliano từ bỏ việc khám phá những chữ ghi trên tấm da thuộc, ngay giữa lúc những câu thơ bí ẩn đã bắt đầu hiện ra với anh. Nhưng sau khi biết chắc rằng vẫn còn đủ thời gian để làm tất cả mà vẫn không cần phải dứt bỏ những nhà chứa kia, Aureliano lại có ý chí để quay lại căn phòng của Melquíades, anh quyết định không nản lòng cho đến khi khám phá ra những khóa mã cuối cùng. Những điều đó xảy ra trong thời gian Gaston bắt đầu chờ đợi máy bay đến, và Amaranta Úrsula sống rất cô đơn. Một buổi sớm cô ta vào phòng của Melquíades: – Xin chào người ăn thịt đồng loại, – cô ta nói, – anh lại ở trong hang của mình rồi. Amaranta Úrsula đẹp không chịu được, cô mặc bộ đồ do cô may và đeo một trong những sợi dây chuyền dài cũng do chính cô làm bằng những đốt xương sống cá chăng. Amaranta Úrsula đã thả lỏng anh chồng, tin rằng chồng chung thủy, và đây là lần đầu tiên từ ngày về cô ta có vẻ thành thơi một chút. Aureliano chẳng cần nhìn cũng biết rằng cô ta đến. Amaranta Úrsula chống khuỷu tay lên mặt bàn, rất gần và rất dịu dàng khiến Aureliano như cảm nhận được những tiếng lao xao trong xương cốt của cô, và Amaranta Úrsula hỏi về những tấm da thuộc có viết chữ. Aureliano cố gắng chế ngự sự bối rối, lấy lại tiếng nói, sức sống và trí nhớ như đã biến đâu mất và nói với cô về số phận của tiếng Phạn, về khả năng khoa học có thể nhìn thấy tương lai hiện rõ trong thời gian như có thể đọc được chữ viết qua mặt sau của tờ giấy khi giơ mặt trước có chữ viết về phía ánh sáng, về sự cần thiết phải giải mã được những lời tiên đoán để không tự mình làm mình thất bại, về Những lời sấm truyền của Nostradamus và về sự hủy diệt của xứ Cantabria mà thánh Milanus[Người Tây Ban Nha, lễ thánh ngày 12 tháng Mười một.] đã báo trước. Ðột nhiên, trong khi vẫn tiếp tục nói, như bị kích thích bởi một sự thôi thúc im ngủ từ lâu trong mình, Aureliano đặt tay mình lên tay Amaranta Úrsula và tin rằng cái quyết định cuối cùng kia sẽ chấm dứt cơn sóng gió. Nhưng Amaranta Úrsula nắm lấy ngón tay trỏ của anh với một cử chỉ âu yếm thơ ngây mà cô từng đối xử với anh nhiều lần thuở thơ bé, và cô cứ giữ như vậy trong khi Aureliano tiếp tục trả lời các câu hỏi của mình. Cứ như vậy, họ liên hệ với nhau qua một ngón tay trỏ giá lạnh chẳng truyền cảm gì cả, cho đến khi Amaranta Úrsula như sực tỉnh khỏi một giấc mơ thoáng qua và vỗ tay lên trán. “Lũ kiến!”, cô ta kêu lên như vậy. Thế là Amaranta Úrsula quên những bản chữ viết trên tấm da thuộc và bước một bước nhẹ nhàng uyển chuyển ra đến cửa, và từ chỗ đó cô đưa ngón tay lên miệng gửi Aureliano một chiếc hôn gió, như chiếc hôn cô gửi cha mình trong buổi chiều xưa khi cô lên đường đi Brussels. – Anh sẽ giảng giải cho tôi sau nhé, – cô ta nói. – Tôi quên mất rằng hôm nay là ngày phải bỏ vôi vào các tổ kiến. Những khi có việc gì đó cần làm ở gần phòng Melquíades, Amaranta Úrsula vẫn vào phòng đó một cách ngẫu nhiên và ở lại một lát, trong khi chồng cô vẫn tiếp tục quan sát bầu trời. Sự thay đổi này làm nảy sinh ảo tưởng trong Aureliano, từ ấy anh ta cùng ăn với gia đình, đó là điều khác so với những tháng Amaranta Úrsula mới về. Anh làm cho Gaston thấy dễ chịu. Trong những câu chuyện quanh bàn sau bữa ăn, thường kéo dài đến hơn một giờ đồng hồ, Gaston tỏ ra đau khổ vì những người bạn thân đã lừa dối ông. Họ đã báo cho Gaston biết rằng chiếc máy bay đã được chuyển xuống một chiếc tàu thủy chưa đến đây và mặc dù những người làm việc đường biển quen ông đã khẳng định rằng chẳng bao giờ chiếc tàu ấy tới vì nó không có tên trong danh sách những con tàu ở vùng biển Ca-ri-bê, nhưng người bạn thân của ông vẫn cứ khăng khăng rằng tin của họ chính xác, thậm chí họ còn nói bóng nói gió là Gaston đã lừa dối họ qua những bức thư của ông. Thư từ qua lại đã khiến họ nghi ngờ lẫn nhau tới mức Gaston quyết định không viết nữa và ông đã bắt đầu nghĩ đến khả năng đi ngay về Brussels để làm rõ mọi chuyện rồi sau đó sẽ quay lại đây với chiếc máy bay. Nhưng dự kiến ấy bị xẹp ngay, khi Amaranta Úrsula nhắc lại quyết định của mình là sẽ không đi khỏi Macondo cho dù phải sống không chồng. Những ngày đầu Aureliano cũng nghĩ như những người khác rằng Gaston là một thằng ngốc trên chiếc xe làm xiếc, và điều đó khiến cho Aureliano thoáng có chút thương hại đối với ông ta. Sau đó, khi qua các nhà chứa, anh có được sự hiểu biết sâu sắc hơn về bản chất của những người đàn ông, thì anh nghĩ rằng tính hiền từ của Gaston bắt nguồn từ một sự đam mê ương bướng. Nhưng khi hiểu Gaston sâu sắc hơn, và khi biết rằng tính cách thực sự của Gaston đối lập với cách cư xử nhũn nhặn của ông, thì Aureliano ngờ rằng đến cả việc Gaston chờ máy bay cũng là chuyện dối trá. Từ ấy, Aureliano cho rằng Gaston chẳng ngờ nghệch như ông ta thể hiện, mà ngược lại đó là một người đàn ông cực kỳ kiên nhẫn, khôn khéo và bình tĩnh, người dự tính sẽ chiến thắng vợ mình bằng cách làm cho vợ mệt mỏi với sự mãn nguyện hoàn toàn, với việc mình luôn luôn đồng tình tuyệt đối, để mặc cho vợ bối rối trong đám mạng nhện của cô ta, đến một ngày nào đó khi không chịu đựng nổi sự chán ngán của những ảo tưởng trong tầm tay nữa thì chính cô ta sẽ thu xếp va-li để quay lại châu Âu. Lòng thương hại trước đây của Aureliano chuyển thành một lòng căm ghét sâu sắc. Aureliano thấy những dự tính và việc làm của Gaston thật tồi tệ nhưng đồng thời cũng rất có hiệu quả, bởi vậy anh đã liều lĩnh nói điều đó cho Amaranta Úrsula biết. Nhưng Amaranta Úrsula đã cười giễu sự đa nghi của Aureliano, cô ta không hề bộc lộ một sự rạn nứt nhỏ của tình yêu, một chút dao động hoặc ghen tuông trong lòng. Amaranta Úrsula không hề nghĩ rằng cô ta đã làm nảy sinh ở Aureliano một điều gì đó ngoài tình cảm chân thành, cho đến một hôm cô ta bị đứt tay vì cố mở nắp hộp mứt đào, và Aureliano vội chạy lại hút máu ở chỗ ngón tay rớm máu ấy với một sự khao khát và thèm thuồng đến mức cô gai người lên. – Aureliano – cô ta cười, hồi hộp, – anh thật quá xấu, đến độ trở thành một con dơi ranh mãnh. Lúc ấy, Aureliano đầy sung sướng. Anh đặt những chiếc hôn tội nghiệp lên bàn tay bị thương, anh bộc lộ những điều thầm kín nhất của trái tim, những nỗi niềm đau khổ và dằn vặt trong lòng mình. Aureliano kể với Amaranta Úrsula rằng nửa đêm anh đã thức dậy để khóc với sự cô đơn và thèm khát điên cuồng trên những chiếc quần áo lót mà cô phơi trong nhà tắm như thế nào. Anh kể rằng mình đã đòi hỏi da diết như thế nào để Nigromanta kêu lên những tiếng kêu gừ gừ như tiếng một con mèo cái và rên rỉ bên tai những tiếng “Gaston, Gaston, Gaston”, và cả chuyện anh đã ma lanh cuỗm nhẹ những lọ nước hoa của cô như thế nào để xoa lên cổ những cô gái trẻ ăn nằm vì tiền với anh. Hoảng sợ trước dục vọng của anh chàng phóng đãng nọ, Amaranta Úrsula từ từ nắm tay lại, những ngón tay co dần như chú ốc thu mình, cho đến khi bàn tay bị thương của cô không còn thấy đau đớn, và mọi dấu vết của lòng thương hại biến thành một khối ngọc bích và thạch anh, biến thành những chiếc xương cứng vô tri vô giác.
– Ðồ ngu! – cô gái nói như thể đang nhổ cái gì đó… – Tôi sẽ đi Bỉ trên chuyến tàu đầu tiên rời bến.
Một buổi chiều nọ Álvaro đã đến hiệu sách của nhà thông thái xứ Catalunya rao tướng lên điều phát hiện mới nhất của anh ta: một nhà thổ bách thú gọi là Cậu bé vàng, đấy là căn phòng rộng không có mái, có đến vài trăm chú diệc nhởn nhơ cứ lâu lâu lại kêu quàng quạc ầm ĩ. Trong những chiếc lồng lưới thép đặt xung quanh sàn nhảy, giữa những bụi hoa trà lớn gốc vùng Amazon là những đàn cò lửa, những con cá sấu sùng sục rúc mõm vào chậu thức ăn như đàn lợn, những chú rắn mười hai chuông, và một con rùa mai vàng đang ngụp lặn dưới cái biển nhân tạo nho nhỏ. Có một con chó cái trắng, thuốn, vừa làm nhiệm vụ của con đực chuyên đi tơ với những con chó cái khác, vừa phải làm cái việc của một con chó cái nuôi con để người ta cho ăn. Không khí dịu nhẹ, như vừa mới được sinh ra, và những cô gái lai xinh đẹp chờ đợi vô vọng giữa những cánh hoa rỉ máu và những đĩa hát lỗi thời, vốn hiểu rõ cái công việc làm tình mà con người đã để quên nơi thiên đường trần gian này. Ðêm đầu tiên nhóm đến thăm căn nhà nghỉ đông tưởng tượng kia, bà cụ già rực rỡ và trầm lặng ngồi gác lối vào trên một chiếc ghế mây, cảm thấy thời gian như trở lại cội nguồn của nó khi bà lão phát hiện thấy trong số năm người vừa tới có một người đàn ông xương xấu, vàng bủng, gò má cao như người tác-ta, mang dấu ấn cô đơn vĩnh viễn từ thuở khai thiên lập địa.
........(Còn tiếp ...)
Vui lòng đọc tiếp đầy đủ trên ứng dụng truyện TYT (iOS, Android).
Trải nghiệm nghe truyện audio, tải truyện đọc offline, đặc biệt hoàn toàn miễn phí.