Một đêm vui nọ, trong lúc gác cổng ra vào thiên đường của mình, Pilar Ternera chết trên chiếc ghế xích đu mây. Người ta đã chôn bà lão không có quan tài theo đúng nguyện vọng cuối cùng của người quá cố. Tám người đàn ông lực lưỡng dùng thừng chão từ từ hạ huyệt chiếc ghế xích đu có bà lão ngồi xuống một cái huyệt được đào ngay ở giữa sân khiêu vũ. Những cô gái mulata[Gái lai đen] mặc đồ đen, khóc lóc đến xanh xám cả mặt mày, làm vội lễ cầu nguyện cho bà lão trong lúc tháo các chuỗi hạt đeo cổ, những dải nơ buộc đầu, những vòng tay, rồi ném chúng xuống huyệt, trước lúc người ta lấp kín mồ và dựng lên trên đó một bia mộ không tên tuổi, không năm tháng và phủ kín những vòng hoa trà xứ Amazon. Sau khi đầu độc cho chết hết những con vật cảnh, dùng gạch và vữa bịt kín các cửa ra vào và cửa sổ, bọn họ tản mát mỗi người một ngả đi khắp thế gian mang theo những chiếc hòm gỗ bên trong trang trí ảnh thánh, ảnh họa báo nhiều màu sắc, ảnh người yêu, những người tình chốc lát, những người tình cũ lâu năm, những người tình ma quái, đó là những tay ỉa ra kim cương, những tay ăn thịt đồng loại những tay được phong là vua cờ bạc ở ngoài khơi. Ðó là sự phán xử cuối cùng. Trong phần mộ của Pilar Ternera, giữa những bản nhã ca và vòng hạt của gái điếm, những rác rưởi của quá khứ đang mục rữa, đó là những gì còn lại ít ỏi ở Macondo kể từ sau chuyến ra đi của nhà thương thái xứ Catalunya. Do nỗi nhớ một mùa xuân vĩnh viễn thôi thúc, ông già thông thái xứ Catalunya đã buộc phải đóng cửa hiệu sách và trở về làng quê ở ven bờ Địa Trung Hải. Không một ai cảm nhận được việc cụ quyết định hồi hương. Để chạy trốn các cuộc chiến tranh liên miên cụ đã đến Macondo vào đúng lúc Công ty chuối thịnh vượng, và cụ không nghĩ sẽ làm gì khác hơn là mở một hiệu sách chuyên bán sách cổ được in bằng vài ngoại ngữ, mà những khách hàng ngẫu nhiên đến đã sợ hãi lật giở chúng như lật giở những cuốn sách bẩn tưởi trong lúc chờ đến lượt mình vào đoán mộng hoặc xem số ở căn nhà đối diện. Cụ đã bỏ một nửa đời người ngồi ở ngoài sân sau nóng bức, để miệt mài ghi lại thứ văn chương kiểu sức của mình bằng thứ mực màu violet trên những tờ giấy xé ra từ vở học trò mà không một ai biết đích xác cụ viết gì. Khi Aureliano biết cụ thì cụ đã có hai thùng to đựng đầy những trang viết như vẽ mà về một phương diện nào đó chúng khiến ta nghĩ đến những tấm da thuộc ghi chữ của Melquíades, và kể từ dạo ấy cho đến khi ra đi cụ lại viết đầy thùng thứ ba, do đó quả là có lý khi nghĩ rằng trong suốt thời kỳ ở Macondo cụ không làm gì khác ngoài việc chỉ ngồi viết mà thôi. Những người duy nhất cụ có quan hệ là bốn người bạn, những người vẫn đến đây đổi những con quay và diều giấy để lấy sách của cụ và cụ đã cho họ đọc Seneca[Lucio Anneo Séneca (4 – 65): một triết gia Tây Ban Nha Latinh sinh tại Córdoba] và đọc Ovidio[Publio Ovidio Nasón: nhà thơ Latinh sinh tại Sulmona (sinh năm 43 trước Công nguyên và chết năm 17 sau Công nguyên), tác giả của Arte de Amor (Nghệ thuật tình yêu) và Metamorfosis (Sự biến hình)] khi bọn họ còn đang theo học bậc tiểu học. Với tình cảm trìu mến thân thương cụ đối xử với các nhà cổ điển như đối với những người bạn cùng ngủ một phòng đã có trong đời mình. Và cụ thông hiểu nhiều điều đáng lẽ không nên biết, tỷ như Thánh Agustin bên trong chiếc áo khoác ngoài còn mặc thêm một chiếc áo gi-lê nỉ bó sát lấy người cho đến năm mười bốn tuổi và tỷ như cái ông Arnaldo de Villanova, một thày đồng, vì bị bọ cạp cắn mà trở nên liệt dương ngay từ khi còn nhỏ tuổi. Nhiệt tình của cụ dành cho các trang viết là một bức tranh đan lẫn những lời kính trọng và những lời đàm tiếu của dân địa phương. Vì phải học tiếng Catalan để dịch chúng ra tiếng Tây Ban Nha, Alfonso đã đút vào túi quần vài trang viết ấy được cuộn lại cùng với những mẩu báo và cả những trang sách giáo khoa, rồi một đêm nọ anh đánh mất tất cả ở nhà một trong những cô điếm làm tình cho qua cái đận đói khát này. Khi cụ già thông thái biết chuyện, đáng lẽ phải mắng chửi anh một trận nên thân, thì cụ đã cả cười mà bình luận rằng đó là số phận hợp lẽ tạo hóa của văn chương. Trái lại, không có một sức mạnh nhân văn nào đủ sức thuyết phục cụ không mang theo ba thùng to đựng đầy các trang viết này khi hồi hương, và cụ đã xổ ra hàng tràng tiếng Carthago[Tiếng nói của cư dân sống ở thành Cartago, một thành phố cổ xưa của châu Phi] để đuổi bọn nhân viên kiểm soát trên tàu hỏa khi bọn này định chuyển các thùng bản thảo xuống toa hàng coi chúng như là hàng hóa, cho đến khi cụ buộc bọn họ phải để cho mình mang chúng đi theo trên toa hành khách. “Thế giới chẳng còn gì nực cười hơn khi mà con người được ngồi ở toa khách còn văn chương phải nằm ở toa hàng”. Đó là điều duy nhất nghe cụ nói thành lời. Cụ đã trải qua một tuần vất vả với những công việc cuối cùng cho chuyến ra đi, bởi vì cứ càng đến gần giờ khởi hành cụ càng kém vui hơn, ý nghĩ thiếu mạch lạc bị xáo trộn lung tung hết, và các đồ vật được để chỗ này lại thấy ở chỗ khác, cụ bị ám ảnh bởi chính đám ma quái từng trêu chọc Fernanda. – Collons[Có lẽ là tiếng cartago trong nguyên bản có nghĩa rất tục.] – cụ chửi. – Ta ngồi xổm lên điều luật hai mươi bảy của hội nghị Tôn giáo Luân Ðôn. Germán và Aureliano khuân vác giúp cụ. Họ giúp cụ như giúp một đứa trẻ, họ để vé và các giấy tờ di chuyển trong một cái túi rồi lấy ghim băng gài lại cho cụ, họ làm cho cụ cả một danh mục dài, tỉ mỉ ghi lại tất cả những việc làm từ khi rời khỏi Macondo cho tới khi tàu cập bến ở Barcelona, nhưng họ lại vô ý ném vào bãi rác chiếc quần có để một nửa số tiền cụ ki cóp được. Ðêm trước ngày khởi hành, sau khi đã đóng đinh các thùng đựng giấy má lại và nhét hết quần áo vào chính cái va-li cụ mang tới đây, nheo đôi mi mắt hình con hến lại, với điệu bộ ban phước trơ trẽn, cụ chỉ vào những đống sách đã theo mình trong suốt cuộc lưu vong, và nói với các chiến hữu: – Ðấy ta để lại cho các bạn cái thứ cứt đái ấy. Ba tháng sau, các bạn nhận được một bì thư to tướng gần hai mươi bức thư và hơn năm mươi bức ảnh, được tích lại trong suốt cuộc hành trình nhàn rỗi trên biển khơi. Mặc dù không đề ngày tháng nhưng thứ tự của chúng đã nói rõ trình tự cụ ngồi viết các bức thư này. Trong những bức thư đầu với giọng điệu hài hước vốn có của mình, cụ kể cho bọn họ nghe về những chuyện lý thú xảy ra trong chuyến vượt đại dương, về cơn bực tức muốn quật ngã lão áp tải hàng hóa không cho phép cụ đưa ba chiếc thùng đựng bản thảo vào phòng nằm trên hầm tàu, về sự yếu hèn mà thông thái của một mệnh phụ rất sợ hãi con số mười ba, không vì thói mê tín dị đoan mà vì hình như bà ta cảm thấy con số này báo trước bà ta sẽ ở lại mặc dù cuộc hành trình trên biển chưa được kết thúc, và về cuộc thi mà cụ giành được phần thắng ngay trong bữa tối đầu tiên trên tàu thủy, vì cụ nhận ra mùi củ cải mặc ban đêm trong các suối ở vùng Lérida ngay trong thứ nước ăn mang trên tàu. Tuy nhiên, với ngày tháng tuần tự trôi, thực tại trên tàu ngày một ít khiến cụ phải để ý hơn; ngay cả những sự kiện xảy ra mới nhất, thông thường nhất cũng khiến cho cụ càng cảm thấy chúng xa xưa hơn, vì con tàu càng bỏ xa bờ châu Mỹ bao nhiêu thì ký ức càng trở nên buồn bã bấy nhiêu. Cái quá trình hoài nhớ diễn tiến ấy dường như cũng bộc lộ trên những tấm ảnh. Trong những tấm ảnh đầu tiên, cụ hiện hình trong dáng vẻ hạnh phúc, mặc chiếc áo của thương binh, mái tóc bạc như tuyết trong ánh nắng tháng mười chói chang của vùng biển Ca-ri-bê. Trong những tấm ảnh sau, cụ hiện hình trong tấm áo khoác sẫm màu, cổ quàng một tấm khăn lụa, vẻ người buồn bã và trầm tư bởi sự trống vắng, ngồi trên sàn một chiếc tàu nặng nề đang chệnh choạng đi như kẻ mộng du trên mặt biển lúc đang thu. Germán và Aureliano viết thư trả lời cụ. Trong các tháng đầu cụ viết thư rất chăm chỉ đến mức lúc ấy họ cảm thấy gần gũi cụ hơn ngay cả khi cụ còn ở Macondo và họ cảm thấy như bớt đi nỗi bực dọc vì đã để cụ ra đi Lúc đầu cụ viết thư cho họ, báo cho họ hay rằng tất cả vẫn bình thường, rằng ở ngôi nhà cụ chào đời vẫn còn nguyên con ốc sên màu hồng, rằng những con cá trích khô vẫn thơm nguyên mùi trong thùng bánh, rằng những thác nước của làng vẫn tỏa hương thơm khi chiều buông. Lại một lần nữa cụ gửi đến cho bọn họ những trang vở học trò được viết như vẽ bằng mực màu violet, trong đó cụ tặng cho mỗi người bạn một đoạn thơ đặc biệt. Tuy vậy mặc cho chính cụ đã không nhận ra, những bức thư đầy tâm huyết ấy đã dần dần chuyển thành những bài thơ điền viên mang đầy ý nghĩa của kẻ tỉnh mộng. Trong những đêm đông, trong lúc ngồi trông nồi xúp sôi ở lò sưởi, cụ nhớ đến cái không khí oi nóng ở sân sau, nhớ tiếng kêu o o của ánh mặt trời trên những cây hạnh đào phủ đầy bụi, nhớ tiếng còi tàu trong không khí nóng hầm hập lúc đang trưa, chính là nỗi hoài nhớ mà cụ ngồi ở Macondo nhớ nồi xúp sôi trong lò sưởi, nhớ những tiếng rao của người bán cà phê và nhớ những con chiền chiện lanh lẹn báo mùa xuân đến. Bị dằn vặt bởi những nỗi hoài nhớ đối diện nhau như những tấm gương soi vào nhau, cụ đánh mất cảm giác diệu kỳ về thực tại phi thực tại, cho đến khi cụ kết thúc bằng việc khuyên tất cả bọn họ hãy chạy khỏi Macondo, hãy quên tất cả những gì cụ đã dạy họ về cuộc đời, về tình người, hãy ỉa vào Horacio và bất kỳ nơi nào họ tới, hãy nhớ rằng quá khứ là bịp bợm, rằng kí ức con người không có đường trở lại, rằng tất cả mùa xuân cổ kính là không thể khôi phục lại và rằng ái tình phóng đãng và cuồng say là một sự thật chốc lát mà thôi. Álvaro là người đầu tiên quan tâm đến lời khuyên hãy rời bỏ Macondo. Anh bán hết của cải, kể cả con hổ bị nhốt trong sân nhà vẫn thường nhe nanh dọa những khách bộ hành ở ngoài đường, và mua một chiếc vé đi mãi mãi trên một đoàn tàu hỏa không bao giờ ngừng du lịch. Trên những tấm bưu ảnh mà anh gửi từ những nhà ga nghỉ lại dọc đường, anh miêu tả đầy thán phục những hình ảnh chốc lát mình nhìn thấy qua ô cửa sổ toa xe, như thể anh đang xé vụn và ném vào cõi lãng quên một bài thơ dài của sự chạy trốn: những người da đen mơ mộng trên những cánh đồng bông trắng xứ Louisiana, những chú ngựa có cánh trên thảm cỏ xanh xứ Kentucky, những đôi nhân tình Hy Lạp trong buổi hoàng hôn địa ngục xứ Arizona, cô gái mặc áo len đỏ vẽ tranh thủy mặc trên những hồ xứ Michigan đã lấy bút làm điệu bộ chào anh, nhưng đó không phải là lời chào từ biệt mà là lời chào chứa chan hy vọng được gặp lại vì cô không biết rằng mình đang nhìn theo một đoàn tàu một đi không trở lại. Sau đó Alfonso và Germán cùng bỏ đi vào một ngày thứ bảy với ý định sẽ trở về vào ngày thứ hai nhưng chẳng bao giờ người ta được biết tin tức gì về họ. Một năm sau kể từ ngày cụ già thông thái người Catalunya ra đi, người bạn duy nhất còn ở lại Macondo là Gabriel, vẫn lêu lổng, hoàn toàn phụ thuộc vào lòng thương hại của Nigromanta, để trả lời những câu hỏi thi của một tờ tạp chí Pháp, mà phần thưởng lớn nhất của nó là chuyến đi thăm thủ đô Paris. Aureliano, vốn là người nhận đặt báo, đã giúp anh điền các câu hỏi, đôi lúc ở ngay tại nhà anh, còn hầu như lúc nào cũng ở bên những lọ sứ xinh xinh và mùi cây thuốc nữ lang của hiệu thuốc duy nhất ở Macondo, nơi ở của Mercedes, người yêu bí mật của Gabriel. Ðó là cái duy nhất sẽ còn lại của một thời quá khứ mà sự hủy diệt của nó không bao giờ trọn vẹn, bởi vì nó cứ tự hủy hoại một cách chậm chạp, tự hao kiệt ngay trong chính nó và từng phút từng phút một nó tự kết liễu mà sẽ không bao giờ chấm dứt sự tự kết liễu. Thị trấn đã bước tới những điểm nút ấy của sự đình trệ, do đó khi Gabriel trúng thưởng và đi Paris với hai bọc xống áo, một đôi giày và toàn tập tác phẩm của Rabelais, anh đã buộc phải ra hiệu cho người thợ máy để ông tế dừng tàu lại nhận mình lên. Ðường phố Thổ Nhĩ Kỳ cũ lúc bấy giờ là một cái bãi hoang, nơi những người Ả-rập cuối cùng đã chịu để cho thần đói lôi mình đến cõi chết theo tập quán ngàn đời ngồi trước cửa, bởi vì đã nhiều năm nay họ phải bán tới mét vải chéo go cuối cùng và trong những chiếc tủ kính tối om om chỉ còn lại những tượng người không đầu. Khu phố của Công ty chuối, mà có lẽ Patricia Brown cố kể lại cho con cháu mình nghe về nó trong những đêm buồn nhớ có dưa gang ngâm giấm xứ Prattville, Alabama, đã là một đồng bằng đẩy cỏ dại. Vị cha xứ già, người đến thay cha xứ Angel và tên của cụ chẳng ai thèm biết đến, đang chờ đợi Thượng đế rủ lòng thương, nằm tênh hênh trên chiếc võng, đau đớn vì bệnh viêm khớp và mất ngủ vì sự hoài nghi, trong khi đó thằn lằn và chuột cãi cọ nhau xem ai sẽ được thừa kế ngôi nhà thờ bên cạnh.
Ở thị trấn Macondo bị lãng quên ấy, nơi ngay tới cả chim chóc cũng lãng quên nó, nơi bụi và hơi nóng đã trở nên rất khó chịu đến mức thở cũng phải vất vả lắm, Aureliano và Amaranta Úrsula là hai người duy nhất hạnh phúc và là những người sung sướng nhất trên trái đất này, mặc dù họ bị vây bọc bởi nỗi cô đơn và tình yêu, đặc biệt là nỗi cô đơn của tình yêu trong một ngôi nhà hầu như không tài nào ngủ được bởi tiếng động ầm ầm của bày kiến gây nên. Gaston đã trở về Brussels, vì đợi máy bay chán chê mê mỏi vẫn không thấy nó đến nên có một ngày nọ ông đã nhét vào va-li những đồ dùng tùy thân và tài liệu thư tín của mình rồi ra đi với ý định trở về đây bằng máy bay trước khi những đặc ân của ông phải nhượng lại cho một nhóm phi công Ðức, vốn đã trình lên các nhà chức trách tỉnh này một kế hoạch nhiều tham vọng hơn so với kế hoạch của ông. Kể từ buổi chiều hai người làm tình với nhau lần đầu tiên, Aureliano và Amaranta Úrsula vẫn tiếp tục tranh thủ những lúc vắng nhà hãn hữu của người chồng để mà yêu nhau cuồng nhiệt trong những phút giây gặp gỡ chốc lát và luôn luôn bị ngắt quãng bởi người chồng bất đồ trở về. Nhưng khi thấy chỉ còn lại hai người ở nhà thì họ liền mệt lử trong những giây phút ngây ngất của ái tình muộn mằn. Ðó là một cơn đam mê buông thả, điên loạn, đến mức khiến cho xương cốt của Fernanda ở trong mồ phải run lên vì sợ và ở trong trạng thái nhảy múa liên tục. Những tiếng rền rĩ đầy sướng vui, những bài hát đầy thèm khát của Amaranta Úrsula đã âm vang bùng lên vào lúc hai giờ chiều ngay trên chiếc bàn trong nhà ăn cũng như vào lúc hai giờ sáng ở trong kho lương thực. “Ðiều làm em đau khổ, – cô cười, – là chúng mình đã để mất quá nhiều thời gian”. Và trong cơn cuồng nhiệt cho thỏa đam mê ấy, cô nhìn thấy đám kiến đang phá trụi vườn hoa rồi gặm gỗ nhà cho thỏa cơn đói lâu ngày, và cô nhìn thấy dòng kiến đỏ ấy lại một lần nữa chiếm cứ mất hành lang nhưng cô chỉ bận tâm chiến đấu với kiến đỏ khi nhìn thấy chúng ở trong phòng ngủ của mình. Aureliano bỏ bê các trang văn viết trên những tấm da thuộc, lại ở lỳ trong nhà, trả lời cho xong chuyện những bức thư của cụ già thông thái xứ Catalunya. Bọn họ đánh mất cảm giác về thực tại, ý niệm về thời gian và nhịp điệu của những thói quen hàng ngày. Bọn họ lại đóng kín cửa ra vào và cửa sổ để khỏi mất thời gian cởi quần áo, và tồng ngồng đi lại ở trong nhà như Remedios – Người đẹp từng thường xuyên mong muốn, và cùng nhau lăn lộn trên những vũng bùn ngoài sân trong khi thân thể không một mảnh vải che, rồi có một buổi chiều nọ bọn họ suýt bị chết ngạt khi làm tình với nhau ngay trong bồn tắm. Trong một thời gian ngắn bọn họ phá tan hoang nhà cửa hơn cả sự phá phách của lũ kiến đỏ: làm gãy hết bàn, ghế, tủ ở phòng khách, làm rách bươm chiếc võng từng chịu đựng rất tốt những cuộc ái ân buồn tẻ nơi trại lính của đại tá Aureliano Buendía, xổ tung ruột chăn, lấy bông lõi tung khắp sàn để làm nhau ngạt thở. Mặc dù Aureliano là một người tình cũng đủ ngón chơi dữ dằn như tình địch của anh, nhưng Amaranta Úrsula lại là người đạo diễn anh các trò tiêu khiển trong thiên đường đổ vỡ ấy và cô làm việc này rất nhiệt tình như thể cô đã tập trung trong tình yêu cái nghị lực cuồng nhiệt mà cụ tổ Úrsula đã hiến dâng cho nghề làm kẹo nặn hình con giống. Ngoài ra, trong lúc cô sung sướng hát và cười ngặt nghẽo trước những trò chơi của mình thì Aureliano ngày một trầm tư hơn, bởi nỗi niềm đam mê của anh vốn lặng lẽ và nguội lạnh. Tuy nhiên cả hai người đi tới những đỉnh điểm của nghệ thuật chơi bời, đến mức khi họ mệt lử trong lúc phè phỡn thì họ lại càng nghịch ngợm thú vị hơn trong lúc nghỉ ngơi. Bọn họ lại hiến dâng tâm sức cho sự sùng bái thần tượng đối với cơ thể mình, ấy là lúc họ phát hiện ra rằng những lúc nghỉ ngơi sau cơn hoan lạc có những khả năng không thể khai thác hết được, nó còn thích thú hơn nhiều so với những khả năng của dục tình. Trong lúc anh lấy lòng trắng trứng gà bôi lên bộ vú cứng dỏng lên của Amaranta Úrsula để mà bóp, hoặc lấy dầu dừa bôi lên đôi vế săn chắc và bụng mềm mại của cô để mà mơn trớn thì cô coi cơ thể cường tráng của Aureliano như một con búp bê để nghịch ngợm, lấy son bôi môi để vẽ mắt hề cho anh, dùng chì kẻ mày để vẽ cho anh bộ ria Thổ Nhĩ Kỳ, đeo cho anh chiếc cà vạt Organza và đội cho anh chiếc mũ làm bằng giấy bạc. Có một đêm, bọn họ lấy mứt đào bôi khắp người từ chân đến đầu rồi như chó họ liếm cho nhau. Rồi như một lũ điên rồ, họ ân ái với nhau ngay ở hành lang và họ bị đánh thức bởi đàn kiến ăn thịt sắp nuốt sống họ.
Trong lúc các cuộc truy hoan ngừng nghỉ, Amaranta Úrsula viết thư trả lời Gaston. Cô cảm thấy ông quá bận rộn và xa lắc đến độ với cô cuộc trở về của ông là không thể có được. Ở một trong những bức thư gửi về trước tiên, ông kể rằng các bạn hữu của mình quả thật có gửi chiếc máy bay đi, nhưng một hãng đường biển ở Brussels, vì nhầm lẫn, đã gửi nó đến Tangandika, và tại hải cảng này nó sẽ được chuyển đến cho cộng đồng của những người Macondo[Macondo ở đây thuộc châu Phi]. Sự nhầm lẫn ấy đã gây ra nhiều phiền phức đến mức chỉ cần thu hồi lại chiếc máy bay cũng phải mất hai năm. Thế là Amaranta Úrsula không phải đề phòng sự trở về bất thình lình của chồng mình. Về phần mình, Aureliano không có liên hệ với thế giới bên ngoài nào khác, ngoài những lá thư của cụ già thông thái xứ Catalunya và những tin tức về Gabriel qua miệng Mercedes, cô gái bán thuốc lặng lẽ. Lúc chầu đó là những liên hệ thực sự. Ðể ở lại Paris, Gabriel đã trả lại chiếc vé khứ hồi để lấy tiền tiêu và sau đó anh sống bằng cách bán báo cũ và vỏ chai do các cô hầu phòng lôi ra từ trong một khách sạn buồn tẻ trên đường Rue Dauphine. Lúc ấy, Aureliano có thể mường tượng thấy anh thường xuyên mặc chiếc áo len cổ to mà chỉ cởi ra khi các sân hiên Montparnasse đầy những cặp uyên ương mùa xuân đi dạo và trong căn buồng nồng nặc mùi súp lơ sôi, nơi Rocamadour đã chết đói, anh phải ngủ ngày và thức viết về ban đêm để khiến cơn đói lòng nhầm giờ đỡ hành hạ mình. Tuy nhiên, những tin tức về Gabriel mà anh nhận được ngày một kém chính xác hơn và các bức thư của cụ già thông thái ngày một thưa nhạt, buồn tẻ hơn, đến mức Aureliano đã quen nghĩ về họ như Amaranta Úrsula nghĩ đến chồng mình, và rồi cả hai người bồng bềnh sống trong một thế giới trống trải, nơi ái tình là thực tại duy nhất vừa có tính thường nhật lại vừa có tính vĩnh hằng.
Bỗng nhiên, tin Gaston sẽ trở về đến với họ như một tiếng sét đánh ngang tai ngay trong cái thế giới vô thức đầy hạnh phúc ấy. Aureliano và Amaranta Úrsula mở to hai con mắt, xem lại lòng mình, rồi tay đặt lên trái tim mình họ nhìn thẳng vào mặt nhau và hiểu rằng họ gắn bó với nhau đến mức sẽ nhận cái chết nếu phải xa nhau. Thế là cô viết cho chồng mình một bức thư nói những sự thật trái ngược hẳn nhau, trong đó cô khẩn khoản nói rằng cô vẫn yêu ông và khao khát được gặp lại ông, đồng thời cô cũng nói rõ rằng mình sẽ không thể sống được nếu không có Aureliano và coi đó như một tiền định không thể nào tránh được. Trái với điều bọn họ mong đợi, với thái độ điềm tĩnh, có thể nói là thái độ của người cha, qua một thư dài hai trang kín đặc chữ, Gaston đã trả lời họ, ông lưu ý bọn họ nên đề phòng những ý nguyện bồng bột nảy sinh từ chỗ bọn họ đang đam mê và đoạn cuối lá thư ông hoàn toàn đồng ý sẽ không trở lại Macondo bởi vì ông tin rằng bọn họ sẽ hạnh phúc như ông đã hạnh phúc trong cuộc đời vợ chồng ngắn ngủi của mình. Ðó là một thái độ hết sức bất ngờ đến mức Amaranta Úrsula cảm thấy mình bị sỉ nhục với ý nghĩ rằng mình đã chuẩn bị cho chồng một cái cớ mà ông ta từng mong đợi để phó mặc cô cho số phận. Sáu tháng sau, sự hận thù càng thêm sâu sắc hơn khi Gaston từ Léopoldville là nơi ông đã nhận lại chiếc máy bay, lại viết thư cho cô chỉ yêu cầu gửi cho mình chiếc xe đạp ẩy chân mà theo ông nói nó là cái duy nhất trong số những gì ông để lại ở Macondo còn có giá trị tình cảm. Aureliano bình tĩnh chăm sóc phòng ngủ của Amaranta Úrsula, cố gắng chứng tỏ cho cô biết rằng anh là một người chồng xứng đáng trong lúc thuận lợi cũng như trong lúc khó khăn, và những túng bấn hàng ngày đang vây hãm họ khi những đồng tiền cuối cùng của Gaston để lại bị tiêu nhẵn đã tạo nên cho họ một sự ràng buộc của tình đoàn kết tuy không rực sáng và kiêu ngạo như nỗi đam mê nhưng đã giúp họ yêu nhau say đắm hơn và khiến họ rất hạnh phúc như đã từng hạnh phúc trong chính cái thời kỳ họ sống cuộc sống đầy sắc dục.
Khi Pilar Ternera mất, bọn họ đang chờ đón đứa con sắp ra đời. Trong lúc có chửa, Amaranta Úrsula định hành nghề sản xuất những cái vòng làm từ xương sống cá. Nhưng ngoại trừ Mercedes, là người nhận mua của cô một tá, không có ai mua những chiếc vòng này. Lần đầu tiên trong đời, Aureliano ý thức được rằng cái tài ngoại ngữ, sự hiểu biết bách khoa, khả năng nhớ kỳ lạ không cần biết những chi tiết nhỏ nhặt của các sự kiện và địa điểm xa xưa của anh, mọi thứ ấy đều vô dụng như cạnh cái hộp khảm ngọc của vợ anh, mà lúc này có lẽ trị giá bằng toàn bộ số tiền của tất cả những cư dân cuối cùng ở Macondo cộng lại. Họ sống nhờ phép màu. Mặc dù Amaranta Úrsula không để mất tính tình vui vẻ cũng như những mánh khóe của cô trong các cuộc thác loạn, cô đã làm quen với việc sau bữa cơm trưa ngồi ở hành lang để mà suy tư và mơ màng ngủ. Aureliano ở bên cạnh cô. Ðôi lúc họ lặng lẽ ngồi cho đến khi màn đêm buông xuống, người nọ nhìn vào mắt người kia, để trong im lặng ân ái với nhau bằng tất cả tâm hồn như trước đây họ từng ân ái với nhau trong sự ồn ĩ. Một tương lai bấp bênh không xác định buộc họ phải hướng tình cảm về quá khứ. Họ nhìn vào nhau mà thấy chính mình trong cái thiên đường thời mưa lụt đã mất, bì bõm lội trong những vũng nước bùn ở ngoài sân, giết những con thằn lằn để đeo lên người Úrsula, chơi trò chôn sống cụ và chính những hình ảnh được hồi tưởng lại ấy đã làm cho họ thấy rõ sự thật là mình hạnh phúc ngay từ khi mới có trí nhớ. Do dõi sâu vào quá khứ mà Amaranta Úrsula nhớ ra một buổi chiều cô bước vào xưởng kim hoàn và mẹ cô đã kể cho cô biết rằng chú nhóc Aureliano là đứa con vô thừa nhận bởi vì bà đã bắt được nó nằm trong chiếc làn. Mặc dù cảm thấy lời giải thích ấy là không có căn cứ xác thực, nhưng bọn họ cũng không có nguồn tài liệu nào khác để thay lời giải thích này bằng một lời giải thích đúng đắn hơn. Sau khi suy đi tính lại tất cả các khả năng, điều duy nhất mà hai người chắc chắn hơn cả là Fernanda không phải là mẹ đẻ của Aureliano. Amaranta Úrsula thiên về ý nghĩ cho rằng Aureliano là con của Petra Cotes, người mà cô chỉ còn nhớ được những chuyện nhơ nhuốc hoang đường và chính lời đoán định đó đã gây nên trong tâm hồn họ nỗi kinh hoàng. Aureliano đau đớn trước ý nghĩ sáng tỏ rằng mình là em trai vợ mình nên anh đã trốn vào tu viện để tìm một dấu vết đáng tin nào đó về nguồn gốc của mình trong cái đống tài liệu bừa bộn đã bị gián nhấm. Lời ghi chú lễ đặt tên xa xưa nhất mà anh thấy là lời ghi chú về Amaranta Buendía, người được cha Nicanor làm lễ đặt tên cho ở tuổi thiếu nữ, đó là thời kỳ cha đi lại khắp làng, bằng cách lợi dụng sự kích thích của sô-cô-la, cố chứng minh cho sự hiện tồn của Thượng đế. Sau khi lật hết bốn cuốn danh bạ anh thấy những lời ghi chú và ngày sinh của mười bảy anh em Aureliano thì anh đã tưởng rằng mình là một trong số mười bảy người này nhưng các ngày làm lễ rửa tội ấy lại quá xa xưa so với tuổi của anh. Thấy anh đang lạc lối trong cái mê cung để tìm cho ra gốc gác ruột thịt của mình và run rẩy vì hoang mang, vị cha sứ mắc chứng tê thấp nằm trên võng quan sát anh và với giọng chậm chạp, hỏi anh tên là gì.
– Aureliano Buendía, – anh trả lời.
– Vậy con chớ mất công tìm kiếm. – Với thái độ dứt khoát cha sứ thốt lên. – Từ lâu rồi, ở đây có một con đường được gọi tên như thế, và bởi thế dân chúng lúc ấy quen đặt tên cho con mình bằng tên đường phố.

........(Còn tiếp ...)

Vui lòng đọc tiếp đầy đủ trên ứng dụng truyện TYT (iOS, Android).
Trải nghiệm nghe truyện audio, tải truyện đọc offline, đặc biệt hoàn toàn miễn phí.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play