Trong suốt một thời gian dài Aureliano không ra khỏi phòng của Melquíades. Chú học thuộc lòng các truyện cổ hoang đường trong cuốn sách đã rách rời, các bản tóm tắt những công trình nghiên cứu của Hermann, một người bại liệt, các chỉ dẫn về khoa quỉ thẩn học, các điểm mấu chất của loại đá giả kim, và cuốn Những lời sấm truyền… của Nostradamus và những nghiên cứu của ông về bệnh dịch hạch, bởi vậy, khi đến tuổi trưởng thành chú không hề hiểu biết gì về thời đại mình, nhưng lại có những kiến thức cơ bản của người thời Trung cổ. Lúc nào bước vào căn phòng đó, Santa Sofía de la Piedad cũng thấy chú vùi đầu vào sách vở. Cụ mang cho chú một tách cà phê không đường vào buổi sáng và một đĩa cơm với vài lát chuối rán vào buổi trưa, đó là món ăn duy nhất ở nhà này kể từ khi Aureliano Segundo mất. Santa Sofía de la Piedad lo việc cắt tóc bắt chấy rận cho Aureliano, sửa quần áo cũ trong những chiếc rương đã bị lãng quên cho chú mặc, khi thấy râu ria chú nhú ra, cụ mang dao cạo và chổi bôi xà phòng của đại tá Aureliano Buendía đến cho chú. Chẳng ai trong số những người con của đại tá, kể cả Aureliano José, lại giống ngài đến như Aureliano, nhất là ở đôi gò má cao và đường nét cương nghị có chút vẻ tàn nhẫn của khóe miệng. Trước đây Úrsula tin rằng Aureliano Segundo thường nói một mình trong khi ngồi học ở trong phòng, bây giờ Santa Sofía de la Piedad cũng nghĩ như vậy. Thực ra, Aureliano nói chuyện với Melquíades. Sau cái chết của hai anh em sinh đôi kia, vào một buổi trưa oi ả, qua sự phản chiếu của cánh cửa sổ, Aureliano nhìn thấy ông già tang thương với cái mũ cánh quạ, như đó là sự hiện hình cụ thể của một ký ức đã hình thành trong đầu óc chú từ rất lâu trước khi chú ra đời. Trước đó Aureliano đã hoàn thành việc phân loại thứ chữ cái viết trên các tấm da thuộc. Khi Melquíades hỏi Aureliano rằng chú đã biết người ta ghi thứ ngôn ngữ nào trên đó chưa, chú trả lời không chút do dự: – Tiếng Phạn. Melquíades hé cho Aureliano biết rằng mình chẳng còn nhiều dịp trở lại căn phòng này. Nhưng Melquíades bình tâm đi đến cái chết vĩnh hằng, bởi vì Aureliano có thời gian để học tiếng Phạn trong những năm tháng trước khi các tấm da thuộc kia tròn trăm tuổi và người ta có thể đọc được chúng. Chính Melquíades đã chỉ cho Aureliano biết rằng ở trên con đường chạy đến bờ sông, nơi ở thời kỳ Công ty chuối người ta thường xem hậu vận và đoán mộng, trong cửa hàng sách của một nhà thông thái người xứ Catalunya có cuốn Sanskrit Primer[Giáo trình cơ sở về tiếng Phạn] mà nếu Aureliano không mua vội thì chỉ sáu năm sau sẽ bị gián nhấm hết. Lần đầu tiên trong rất nhiều năm tháng đã qua của đời mình, Santa Sofía de la Piedad để lộ một tình cảm, và đó là một tình cảm sững sờ, khi Aureliano đòi hỏi cụ mang về cho chú cái cuốn sách nằm giữa tập Jerusalem giải phóng[Tập anh hùng ca gồm 20 chương của Torquato Tasso (1544 – 1595).] và tập thơ của Milton[John Milton (1608-1674): nhà thơ và nhà viết kịch người Anh. Một trong những tác phẩm nối tiếng của ông là tập anh hùng ca mang nội dung tôn giáo Thiên đường đã mất, viết về sự ra đời và sự suy vong của nhân loại. Ông bị mù từ năm 1652. Tác phẩm trên được ông đọc để vợ và các con gái ghi chép lại.], phía bên phải cùng thuộc hàng thứ hai của giá sách. Vì không biết chữ nên Santa Sofía de la Piedad học thuộc lòng những lời hướng dẫn đó và cụ chạy tiền bằng cách đem bán một trong mười bảy con cá vàng còn lại ở xưởng kim hoàn mà chỉ có cụ và Aureliano biết chúng đã được cất giấu ở chỗ nào trong đêm bọn lính lục soát ngôi nhà. Aureliano tiến bộ trong việc học tiếng Phạn, trong khi đó Melquíades ngày một thưa nhạt và xa vời, lẫn dần vào ánh sáng ban trưa rực rỡ. Lần cuối cùng Aureliano cảm thấy cụ là lúc Melquíades dường như chỉ còn là một cái bóng không thể nhìn thấy đang lầm rầm “Ta đã chết vì bị siết trên những cồn cát ở bờ biển Singapore”. Căn phòng lúc đó bỗng trở nên thiếu sức đề kháng trước sự tấn công của bụi bặm và nóng bức, của mọt và kiến, của mối và gián, những con vật từng biến kiến thức trong sách vở và các tấm da thuộc kia thành bụi. Trong nhà không thiếu thức ăn, Aureliano Segundo chết hôm trước thì hôm sau một trong những người bạn của ông từng đem tới chiếc vòng hoa với dòng chữ bất kính kia đã trả cho Fernanda một khoản tiền mà ông ta nợ chồng bà. Cũng từ hôm ấy một người làm nghề chuyển hàng cứ vào ngày thứ tư lại mang tới một làn thức ăn đủ cho cả một tuần lễ. Chẳng bao giờ có ai biết rằng những thức ăn đó là do Petra Cotes gửi tới với ý nghĩ: bằng cách tỏ lòng thương hại kéo dài, bà sẽ làm khổ nhục người đã từng làm mình khổ nhục. Nhưng sự thù hằn đã tan biến nhanh hơn cả chính Petra Cotes tưởng, và khi ấy bà vẫn tiếp tục gửi thực phẩm tới vì kiêu hãnh, và sau đó vì cảm thương. Có những lần khi Petra Cotes không muốn đi bán vé xổ số nữa và dân chúng cũng đã mất hứng thú với trò cờ bạc ấy, bà đã nhịn để nhường thức ăn cho Fernanda, và Petra Cotes luôn luôn thực hiện trách nhiệm gửi thực phẩm chừng nào Fernanda chưa qua đời. Ðối với Santa Sofía de la Piedad, việc giảm số người trong nhà có lẽ cho cụ một sự nghỉ ngơi mà cụ được quyền hưởng sau hơn nửa thế kỷ làm việc. Không bao giờ người ta nghe thấy một tiếng thở than của người đàn bà kín đáo và khó hiểu ấy, người đã gieo vào gia đình này những mầm mống thần thánh của Remedios – Người đẹp và sự trịnh trọng bí ẩn của José Arcadio Segundo, người đã dành cả cuộc đời cô đơn và thầm lặng của mình vào việc nuôi nấng lũ trẻ mà chúng không nhớ rõ bằng mình là con hay cháu của cụ. Cụ chăm sóc Aureliano như thể chú ra đời từ sự mang nặng đẻ đau của mình, và chính cụ cũng không biết rằng mình là cố của chú nữa. Phải ở trong một gia đình như vậy mới có thể nghĩ được rằng Santa Sofía de la Piedad thường ngủ trên một tấm thảm dệt bằng lá cọ trải trên nền nhà kho chứa ngũ cốc, giữa tiếng ếch nhái kêu đêm, và cụ cũng không kể với ai rằng có một đêm cụ đã thức dậy bởi một cảm giác hãi hùng là có ai đó đang nhìn mình trong bóng tối, thì ra đó là một con rắn độc trườn trên bụng cụ. Santa Sofía de la Piedad biết rằng nếu thuở trước cụ kể với Úrsula chuyện đó thì thế nào Úrsula cũng bắt cụ phải ngủ trên giường của mình, nhưng ở thời buổi này chẳng ai để ý đến điều gì nếu cụ không kêu lên ở ngoài hành lang, bởi vì công việc chân tay ở lò bánh, những nỗi hãi hùng về chiến tranh, việc chăm sóc con cháu khiến cho người ta không còn thời gian để nghĩ đến hạnh phúc của người khác nữa. Chỉ có Petra Cotes, người mà Santa Sofía de la Piedad chưa từng biết mặt, là nhớ đến cụ thôi. Sắm cho cụ một đôi giày đẹp và một bộ lễ phục, đó là món nợ mà Petra Cotes vẫn chưa trả được ngay cả trong những ngày tháng tuyệt vời với khoản tiền do các cuộc xổ số đưa lại. Thuở mới đặt chân đốn nhà này Fernanda có nhiều lý do để tin rằng Santa Sofía de la Piedad là một người làm đày tớ suốt đời, và nếu có một vài lần Fernanda nghe nói đó là mẹ chồng mình thì đó cũng là điều rất khó tin, đến mức bà phải mất rất nhiều thời gian mới biết rằng quả đúng như vậy, nhưng chẳng bao lâu bà lại quên đi. Santa Sofía de la Piedad không bao giờ thấy khó chịu với cái vị trí thấp kém đó. Ngược lại, cụ cảm thấy thích thú với việc đi hết từ xó xỉnh này đến xó xỉnh khác, không kêu ca một lời, luôn chân luôn tay sắp xếp và dọn dẹp lại ngôi nhà rộng thênh thang nơi mình đã sống từ khi còn trẻ, và riêng trong thời kỳ còn Công ty chuối ngôi nhà ấy giống một trại lính hơn là một cư xá. Nhưng khi Úrsula qua đời, tính cẩn thận đến mức khắc nghiệt và khả năng làm việc phi thường của Santa Sofía de la Piedad cũng bắt đầu suy giảm. Không phải chỉ vì cụ đã tuổi cao sức kiệt, mà còn vì ngôi nhà đã nhanh chóng rơi vào tình trạng ọp ẹp. Một lớp rêu non xanh rờn phủ các bức tường. Khi ngoài vườn không còn chỗ đất nào trống, các loại cỏ dại liền đội vỡ nền xi măng ở hành lang như thể đội vỡ một tấm kính, và từ các kẽ nứt đã mọc lên chính những bông hoa nhỏ màu vàng mà trước đó đến gần một thế kỷ Úrsula từng nhìn thấy trong chiếc cốc đựng hàm răng giả của Melquíades. Chẳng có thời giờ và cũng chẳng có cách gì ngăn chặn những cuộc tấn công tàn bạo đó của thiên nhiên, suốt ngày Santa Sofía de la Piedad xua đuổi những con thằn lằn đã chui vào phòng hồi đêm. Một buổi sáng cụ trông thấy những con kiến đỏ rời bỏ những chỗ xi măng đã bị đào thủng, bò qua vườn, leo lên những bờ thành của thang gác, nơi có những cây thu hải đường đã úa màu đất, và vào đến tận chỗ trong cùng của ngôi nhà. Thoạt đầu cụ dùng chổi, sau đó dùng thuốc sâu và cuối cùng dùng vôi để giết lũ kiến ấy, nhưng ngày hôm sau chúng lại xuất hiện ở đúng chỗ cũ, thường xuyên qua lại, bền bỉ và bất khả chiến thắng. Lúc đó, vì đang viết thư cho các con mình nên Fernanda không hay biết gì về cuộc tấn công không thể ngăn chặn ấy của đám cỏ dại và lũ sâu bọ đang phá hoại. Một mình Santa Sofía de la Piedad tiếp tục chiến đấu, chống chọi với cỏ dại để không không thể tràn vào nhà bếp, xua những bối mạng nhện sinh sôi nảy nở rất nhanh ở trên tường và miết xát lũ mọt. Nhưng khi thấy căn phòng của Melquíades cũng bị mạng nhện chăng và bụi phủ, thì Santa Sofía de la Piedad bèn mỗi ngày quét dọn ba lần và khi thấy rằng, bất chấp sự dọn dẹp cần mẫn của mình, căn phòng vẫn bị đe dọa bởi những đống gạch ngói đổ vỡ và bầu không khí hôi hám mà chỉ có đại tá Aureliano Buendía và viên sĩ quan trẻ xưa kia tiên đoán được thì cụ hiểu rằng mình đã thất bại. Lúc ấy Santa Sofía de la Piedad mặc bộ lễ phục ngày chủ nhật đã sờn, đi đôi giày cũ của Úrsula và một đôi tất sợi bông mà Amaranta Úrsula đã tặng mình, rồi gói hai hoặc ba bộ quần áo còn lại thành một bọc. – Ta chịu rồi, – cụ bảo Aureliano, – cái nhà này thật là quá rộng, và cái thân còm này không thể nào kham nổi việc thu dọn cho nó tươm tất được. Aureliano hỏi Santa Sofía de la Piedad định đi đâu thì cụ trả lời bằng một cử chỉ mập mờ như thể chẳng hề có một chút ý thức nào về số phận của mình. Tuy vậy, cụ cũng cố xác định rằng sẽ sống những ngày cuối của đời mình với một bà em họ ở Riohacha. Ðiều ấy cũng không lấy gì làm chắc. Vì từ khi các vị thân sinh của Santa Sofía de la Piedad qua đời, cụ không có quan hệ với ai trong làng, không hề có thư từ hoặc lời nhắn hẹn, và cũng chẳng ai nghe thấy cụ nói về một người họ hàng nào cả. Aureliano đưa cho Santa Sofía de la Piedad mười bốn con cá vàng, bởi vì cụ đã quyết ra đi khi trong túi chỉ còn một peso và hai mươi lăm xu. Qua cửa sổ, Aureliano nhìn thấy Santa Sofía de la Piedad, với tấm thân còng vì tuổi tác, lê bước qua vườn mang theo một gói nhỏ quần áo, và nhìn thấy cụ thò tay vào lỗ cửa để cài then lại sau khi đã ra khỏi nhà. Từ ấy không ai hay biết gì về cụ nữa.
Sau khi biết rằng Santa Sofía de la Piedad đã bỏ chạy, Fernanda nói lảm nhảm suốt một ngày ròng trong khi xem lại từng chiếc rương một, từng chiếc tủ một để yên tâm rằng cụ đã không lấy một thứ gì mang đi. Lần đẩu tiên trong đời Fernanda nhóm bếp và bà bị bỏng tay, rồi bà phải nhờ Aureliano bày cho cách thức pha cà phê. Từ đó về sau, chính Aureliano là người làm việc bếp núc. Khi Fernanda thức dậy thì thức ăn đã được Aureliano chuẩn bị sẵn và ủ trong tro nóng, bà chỉ cần ra khỏi phòng ngủ mang về ăn trên một chiếc bàn phủ khăn bằng vải gai, bên trên có đặt những cây đèn nến; khi ăn, bà ngồi trên chiếc ghế trong cùng của mười lăm chiếc ghế trống. Trong khung cảnh đó Aureliano và Fernanda không chia sẻ với nhau nỗi cô đơn, mà ai lo việc người nấy. Họ quét dọn phòng mình; trong khi mạng nhện giăng trên các khóm hồng, phủ trên xà nhà và dệt trên các bức tường. Ðó là thời kỳ Fernanda có ấn tượng rằng ngôi nhà này đầy ma quái. Chẳng thế mà các đồ vật, nhất là những thứ hàng ngày thường dùng, luôn luôn tự nó thay đổi vị trí. Fernanda mất thời gian tìm kiếm chiếc kéo mà bà cứ đinh ninh rằng mình để trên giường, và sau khi lục lọi khắp nơi lại thấy nó trong chiếc tủ ở nhà bếp, nơi bà tin rằng đã bốn ngày rồi mình không đặt chân đến. Ðột nhiên trong tủ đựng các bộ đồ ăn không còn lấy một chiếc đĩa, thế rồi lại thấy sáu chiếc trên bàn thờ và ba chiếc ở chậu rửa bát. Khi Fernanda ngồi viết lại càng thấy các đồ vật di chuyển bất ngờ hơn. Lọ mực đặt ở bên phải sau lại thấy ở bên trái, bàn thấm giấy biến mất và hai ngày sau bà lại thấy nằm ở dưới gối, những trang viết cho José Arcadio lẫn với những trang viết cho Amaranta Úrsula, và bà luôn luôn băn khoăn là đã bỏ thư nọ vào bì kia như nhiều lần từng xảy ra trên thực tế. Có lần bà mất bút. Mười lăm ngày sau người đưa thư mang trả lại. Ông ta thấy ở trong túi của mình và đã đi khắp các nhà hỏi xem ai có cây bút đó. Thoạt đầu, Fernanda tin rằng những chuyện đó là do các thầy thuốc không thể nhìn thấy gây ra, giống như việc mất những chiếc vòng treo tử cung dạo trước, và bà bắt đầu viết một bức thư cầu xin họ để cho mình yên, nhưng rồi bà phải ngừng lại để làm một việc khác, và khi trở về phòng chẳng những bà không thấy lá thư bắt đầu viết ấy đâu, mà ngay cả mục đích của việc viết thư là gì bà cũng quên nốt. Có một dạo bà nghĩ là tại Aureliano. Bà theo dõi Aureliano, đặt các đồ vật ở lối đi với ý định sẽ bắt quả tang khi chú đang mang chúng từ chỗ nọ bỏ vào chỗ kia, nhưng ngay sau đó bà lại yên trí rằng Aureliano không ra khỏi phòng của Melquíades nếu không cần đến nhà bếp hoặc nhà vệ sinh, và chú còn không phải là người thích đùa nữa. Thế rồi cuối cùng Fernanda tin rằng đó là sự quấy nhiễu của ma quái và bà chọn cách đối phó là để vật nào cần sử dụng vào đúng chỗ ấy thật chắc chắn. Bà buộc chiếc kéo vào đầu giường bằng một sợi dây dài, buộc ống bút và bàn thấm giấy vào chân bàn; dùng keo gắn lọ mực vào mặt bàn, ở phía bên phải chỗ bà thường ngồi viết. Nhưng rồi chẳng phải mọi chuyện êm đẹp ngay, bởi vì vừa ngồi may được một lúc lại không thể lôi cái kéo ra chỗ cần phải cắt, vì sợi dây buộc ngắn quá như thể ma quỉ đã cắt bớt đi. Sợi dây buộc ống bút cũng vậy và đến cả cánh tay Fernanda cũng ngắn đi, vì vừa ngồi viết một lúc bà đã không với tới lọ mực nữa rồi. Cả Amaranta Úrsula ở Brussels và José Arcadio ở Roma, cả hai chẳng bao giờ biết những điều bất hạnh này. Fernanda viết cho các con ràng bà sống hạnh phúc, và quả có thế thực, chính là vì bà thấy mình thoát khỏi mọi sự ràng buộc, như thể một lần nữa cuộc đời đang kéo bà về thế giới của cha mẹ mình, ở đó bà sẽ không phải khổ sở về những chuyện hàng ngày bởi vì chúng đã được giải quyết ngay trong tưởng tượng. Việc trao đổi thư từ với con cái làm cho Fernanda quên mất khái niệm về thời gian, nhất là từ khi Santa Sofía de la Piedad bỏ đi. Trước kia bà có thói quen tính ngày, tính tháng và tính năm xem còn bao lâu nữa thì các con bà trở về theo dự định. Nhưng khi hết lần này đến lần khác họ báo thay đổi thời hạn thì bà thấy ngày tháng lẫn lộn, và thời gian dường như không trôi đi. Lẽ ra phải sốt ruột lắm thì bà lại thấy hài lòng với sự chậm trễ. Fernanda không nóng lòng với chuyện nhiều năm sau khi José Arcadio thông báo với bà rằng sắp làm lễ tuyên thệ tu hành suốt đời, rồi sau đó lại nói rằng anh ta đang chờ kết thúc chương trình thần học cao cấp để học về ngoại giao, bởi vì bà nghĩ ràng có biết bao khó khăn trắc trở trên chiếc thang ốc rất dài dẫn đến chiếc ghế của Thánh Peter[Thánh Peter là vị thánh tông đồ số một của Chúa Giêsu. Sinh khoảng năm thứ 10 trước Công nguyên và mất khoảng năm 67 sau Công nguyên, dưới triều đại Nero. Trên khu đất mai táng ông người ta đã xây dựng thánh đường Vatican. Ngày lễ 29 tháng 6.]. Ngược lại, bà xốn xang bởi những tin tức mà đối với người khác chẳng có nghĩa gì, ví dụ như chuyện con trai bà đã nhìn thấy Giáo hoàng. Bà cũng sung sướng như vậy khi Amaranta Úrsula cho biết rằng chương trình học của cô sẽ kéo dài thêm, vì cô được xếp loại ưu nên được ưu đãi, đó là điều cha cô không nghĩ đến trong khi tính toán. Ba năm đã trôi qua kể từ khi Santa Sofía de la Piedad mang về cho Aureliano cuốn sách ngữ pháp tới khi chú dịch được trang đầu tiên. Việc làm của chú chẳng phải vô ích, nhưng cũng mới chỉ là bước đầu trên con đường dài như chẳng thể nào lường hết, bởi vì văn bản bằng tiếng Tây Ban Nha chẳng có ý nghĩa gì: đó chỉ là những bài thơ được mã hóa, Aureliano không còn các phương tiện để tạo cơ sở cho mình đi sâu vào các bài thơ đó, nhưng vì Melquíades đã từng nói với chú rằng ở cửa hàng sách của nhà thông thái xứ Catalunya có những cuốn sách sẽ giúp chú hiểu hết các tấm da thuộc nên chú quyết định xin phép Fernanda đi kiếm những cuốn sách đó. Trong căn phòng đầy gạch ngói đổ vỡ – mà sự gia tăng của những mảnh gạch ngói này sẽ dẫn đến cái kết cục là làm đổ căn phòng – Aureliano suy nghĩ tìm kiếm cách trình bày thích đáng yêu cầu của mình, chú dự đoán khung cảnh và cơ hội thích hợp, nhưng khi thấy Fernanda lấy thức ăn ủ trong tro nóng – cơ hội duy nhất để nói với bà – thì những lời yêu cầu đã chuẩn bị rất kỹ càng bị ứ lại trong cổ, không thể nói thành lời. Ðó là lần duy nhất mà Aureliano theo dõi Fernanda. Chú lắng nghe tiếng chân Fernanda đi lại trong phòng ngủ. Chú nghe thấy tiếng bà bước ra cửa để nhận thư của con cái và gửi người đưa thư những lá thư bà viết cho họ; đến rất khuya chú còn nghe thấy tiếng bút dằn mạnh trên mặt giấy trước khi nghe thấy tiếng tắt đèn và tiếng cầu kinh lầm rầm trong bóng tối. Cho đến tận lúc ấy Aureliano mới ngủ và chú tin rằng ngày mai cơ hội mình mong mỏi sẽ đến. Aureliano có ảo tưởng rằng điều yêu cầu của mình sẽ không bị chối từ, nên một buổi sáng chú đã cắt đi mái tóc dài chấm vai, cạo đi bộ râu tua tủa, mặc chiếc quần chẽn và chiếc áo có cổ giả mà chẳng biết là đã được thừa hưởng của ai, rồi chú đến nhà bếp chờ Fernanda đi ăn. Nhưng không đến người đàn bà ngày ngày vẫn sống ở đây, người đàn bà đầu ngẩng cao, người đàn bà đi lại rắn rỏi ấy, mà chỉ đến một bà lão đẹp tuyệt vời mặc chiếc áo khoác lông điêu thử màu vàng, đội chiếc miện bằng bìa cứng mạ vàng và có dáng vẻ yếu đuối của một người thường khóc thầm. Thực ra, từ khi thấy bộ trang phục hoa hậu đã bị gián nhấm ở trong rương của Aureliano Segundo, Fernanda đã mặc nó nhiều lần. Nếu có ai đó thấy bà đứng trước gương làm dáng với cử chỉ có vẻ đài các đế vương chắc hẳn sẽ cho rằng bà bị điên. Nhưng không phải thế. Fernanda chỉ biến bộ áo hoa hậu ấy thành một cái máy nhớ mà thôi. lần đầu tiên mặc nó vào người, Fernanda đã không tránh khỏi cảm giác ứ nghẹn trong tim và mắt bà đẫm lệ, vì lúc ấy Fernanda như cảm thấy mùi xi trên đôi ủng của một quân nhân đã đến tận nhà tìm mình để cho mình làm hoa hậu, và tâm hồn bà trở nên trong suốt với sự tiếc nuối những giấc mơ đã qua. Bà cảm thấy mình đã già yếu và cằn cỗi lắm rồi, đã khác xa biết bao nhiêu với Fernanda của những giờ phút đẹp đẽ nhất trong đời, đến mức bà cũng nhớ tiếc cả những giờ phút mà bà coi là tồi tệ nhất, và chỉ khi đó Fernanda mới thấy rằng những chùm hoa kinh giới ở ngoài hành lang và hơi nước bốc lên từ những khóm hồng vào lúc chiều về, thậm chí cả bản chất hung dữ của những kẻ đến từ nơi xa lạ, là cần thiết biết bao đối với mình. Trái tim nguội lạnh của bà, từng chống đỡ vững vàng với những miếng đòn rất chính xác của đời sống thường ngày, giờ đây bị rạn vỡ bởi cuộc tấn công đầu tiên của nỗi hoài nhớ. Cảm giác đau buồn đã trở thành một nhu cầu của bà, nó tăng lên theo năm tháng và dần dần trở thành một thói xấu. Bà làm cho mình trở thành một người nhân từ trong nỗi cô đơn. Nhưng buổi sớm ấy khi bà vào bếp và thấy tách cà phê mà chàng trai trẻ gầy gò, xanh xao và có ánh mắt mơ màng kia pha cho mình, thì bà cảm thấy như bị một cái gì đó rất kỳ quặc đập vào mình. Chẳng những Fernanda đã không cho phép Aureliano đi, mà từ đó bà còn cất kỹ chìa khóa nhà trong chiếc túi đựng những chiếc vòng treo tử cung không dùng đến. Sự cẩn thận ấy là vô ích, bởi vì nếu như Aureliano muốn thì chú có thể ra đi rồi lại trở về mà bà không thể nhìn thấy. Nhưng sự giam hãm lâu ngày, sự mơ hồ về thế giới bên ngoài và thói quen phục tùng đã làm khô héo những mầm mống bướng bỉnh trong Aureliano. Thế là chú trở về phòng mình, xem đi xem lại những tấm da thuộc và đến tận đêm khuya vẫn nghe tiếng khóc sụt sùi của Fernanda ở phòng ngủ của bà. Một buổi sáng, như thường lệ, Aureliano đi nhóm bếp, chú thấy trong đống tro lạnh vẫn còn nguyên những thức ăn để cho Fernanda từ hôm trước. Aureliano vội ngó vào phòng và thấy Fernanda nằm trên giường, đắp chiếc áo khoác lông điêu thử, bà đẹp hơn bao giờ hết, và da bà trắng như ngà. Bốn tháng sau đó, khi José Arcadio trở về thì đã thấy bà bất động. Không thể thấy ai giống mẹ hơn José Arcadio. Anh chàng mặc một bộ lễ phục bằng lụa màu đen, chiếc áo cổ tròn và cứng, và thắt một dải lụa mềm thay cà vạt. Ðó là một chàng trai xanh xao, suy nhược, ánh mắt mệt mỏi và khóe miệng yếu đuối. Mái tóc đen, bóng và mượt, được phân đôi bởi một đường ngôi thẳng tắp và trắng bệch chạy giữa đầu, giống như tóc của các thánh mà người ta thường thấy qua tranh tượng. Bóng mờ của bộ râu đã được cạo trên khuôn mặt như được làm bằng nến là dấu hiệu của người đã trưởng thành. Ðôi tay trắng nhợt với những đường gân xanh, những ngón tay như những con giun, trên ngón trỏ ở bàn tay trái có một chiếc nhẫn to bằng vàng gắn mặt đá quý. Khi mở cổng cho José Arcadio, Aureliano chẳng cần đoán xem là ai cũng biết rằng đây là người từ xa đến. Khi José Arcadio vào, ngôi nhà ngào ngạt mùi nước hoa mà Úrsula đã rảy lên đầu khi anh chàng còn nhỏ để bà cụ trong cảnh mịt mù có thể nhận ra thằng chút. Không thể hiểu được vì sao mà sau rất nhiều năm đi xa, José Arcadio vẫn là một chú bé già trước tuổi, buồn và cô đơn ghê gớm. José Arcadio đến thẳng phòng của mẹ anh, ở đó Aureliano đã làm theo cách của Melquíades: cho thủy ngân bốc hơi bốn tháng trong cái ống của cụ tổ sáu đời, để giữ gìn thi thể. José Arcadio không hỏi một điều gì. Anh chàng hôn lên trán tử thi, rồi lấy từ dưới váy ra một chiếc túi nhỏ trong có ba chiếc vòng treo tử cung chưa dùng và chiếc khóa hòm quần áo Anh ta làm tất cả những việc đó một cách dứt khoát, khác hẳn với sự mềm yếu của mình. José Arcadio lấy từ hòm quần áo ra một chiếc hộp nhỏ có nạm gia huy và trong chiếc hộp ngào ngạt hương gỗ trắc bá ấy, anh ta thấy một bức thư rất dài, ở đó Fernanda như rút ruột rút gan kể biết bao nhiêu sự thật mà bà đã giấu kín. Anh chàng đứng đọc lá thư ấy một cách đầy khao khát nhưng không hề băn khoăn, đến trang thứ ba thì dừng lại nhìn Aureliano với vẻ hơi hờ hững.
– Vậy ra, – José Arcadio nói với giọng sắc ngọt như dao cạo, – Mày là một đứa con hoang.
– Cháu là Aureliano Buendía mà!
– Cút về phòng của mày đi – José Arcadio nói.
Aureliano về phòng và không ra khỏi đấy nữa, kể cả khi nghe thấy tiếng ồn ào của đám tang cô đơn chú cũng không vì tò mò mà bước ra. Thỉnh thoảng, từ nhà bếp Aureliano nhìn thấy José Arcadio đi đi lại lại quanh nhà để mà lịm đi trong nhịp thở đầy khao khát dục vọng của mình, và đến quá nửa đêm chú vẫn còn dõi theo tiếng bước của José Arcadio trong các phòng ngủ đổ nát. Trong nhiều tháng Aureliano không nghe thấy tiếng nói của José Arcadio, chẳng phải chỉ vì anh ta không nói với chú, mà còn vì chú chẳng muốn có chuyện gì xảy ra và chẳng muốn mất thời gian suy nghĩ về bất cứ việc gì ngoài những tấm da thuộc kia. Khi Fernanda chết, Aureliano đã lấy đến con cá vàng gần như là con cuối cùng và đã đến hiệu sách của nhà thông thái xứ Catalunya để mua những cuốn sách mà chú cần. Trên đường đi, Aureliano chẳng hề quan tâm tới những gì mà mắt mình nhìn thấy, có lẽ vì chú không có những ký ức về chúng để so sánh, và những con đường vắng vẻ, những ngôi nhà buồn tẻ cũng chẳng khác gì những con đường và những ngôi nhà chú đã từng tưởng tượng thấy trước đây, khi chú còn khao khát làm quen với chúng. Aureliano đã tự cho phép mình làm điều mà Fernanda cấm, đó là lần duy nhất với mục đích duy nhất và trong một khoảng thời gian vô cùng ngắn ngủi, chú đi một mạch qua mười một ô phố ngăn cách nhà mình với con đường mà ở đó trước đây người ta thường đoán mộng, rồi khó khăn lắm mới vào đến một nơi nhem nhuốc, tối tăm và chật chội đến mức dường như không thể xoay trở được thân mình. Ngôi nhà chẳng giống một hiệu sách mà giống như một nơi chứa rác với những cuốn sách cũ để lộn xộn trên những chiếc giá đã bị mọt, trong các xó xỉnh đầy mạng nhện, và ngay cả ở những chỗ lẽ ra là lối đi. Trên một chiếc bàn dài cũng chất đầy sách, chủ nhà đang viết một bài văn dài dằng dặc với những chữ bay bướm và hơi rối rắm trên những tờ giấy rời xé từ cuốn vở học trò. Ông ta có một mái tóc bạc rất đẹp và nhô ra trước trán, trông giống chiếc mào của con chim dẻ cùi; đôi mắt màu xanh, linh lợi và hẹp toát ra sự nhân từ của một người đã từng đọc tất cả các thứ sách. Ông ta mặc một quần cộc đẫm mồ hôi, và không ngừng viết để xem ai đến. Aureliano dễ dàng thấy năm cuốn sách mình cần giữa đống sách hỗn độn đó, bởi vì nó nằm đúng ở chỗ Melquíades đã bảo cho chú biết. Không nói một lời nào, Aureliano đưa cho ông già thông thái người xứ Catalunya năm cuốn ấy và con cá vàng; ông già ngắm nghía những thứ đó, đôi lông mày ông nhíu lại như hai con sâu róm.
“Có lẽ mày điên chắc”, ông già vừa nói bằng ngôn ngữ địa phương của mình vừa nhún vai, rồi đưa lại cho Aureliano năm cuốn sách và con cá vàng. – Hãy mang chúng đi, – ông già nói tiếng Catalan[Một thứ tiếng địa phương được dùng ở Catalunya, thuộc Tây Ban Nha.] – Người duy nhất đọc những cuốn sách này là cụ Isaac, Người MÙ[Nhân vật trong Cựu ước, là con của Abraham và Sarah, và là cha của Jacob.]. Vậy chú mày hãy nghĩ kỹ về việc mình làm. José Arcadio sửa chữa lại phòng ngủ của Meme, anh sai quét dọn, sửa lại các tấm rèm cửa bằng nhung và tấm trướng gấm trước chiếc giường phó vương, và sử dụng lại phòng tắm đã bị bỏ mà cái bồn chứa nước bằng xi măng ở đó bị váng nước đặc và bẩn làm cho đen lại. Trong hai căn phòng ấy, sự cao ngạo của các loại vật dụng, của những thứ hàng ngoại lai, của các thứ nước hoa rởm và của các loại đá trang sức rẻ tiền đã giảm hẳn đi. Thứ duy nhất ở trong phần còn lại của ngôi nhà cản trở José Arcadio là những bức tượng thánh trên bàn thờ, do đó một buổi chiều anh ta đem chúng đất thành tro trên một đống lửa nhóm ở sân. José Arcadio ngủ đến quá mười một giờ. Anh chàng vào nhà tắm với một chiếc áo rộng mặc trong nhà được trang điểm bằng cách rút chỉ và thêu hình con rồng màu đỏ, đi đôi dép có đường viền màu vàng; và ở đó, vừa cầu kinh chậm rãi và kéo dài, anh ta vừa nhớ đến Remedios – Người đẹp. Trước khi tắm, José Arcadio dùng các chất muối đựng trong ba chiếc lọ bằng đá vân vẩy thơm bồn đựng nước. Anh chàng không lấy gáo làm bằng vỏ quả bí để dội nước lên người mà lại ngâm mình trong nước thơm ngát, nằm ngửa ở đó đến hai giờ đồng hồ mơ màng với sự mát mẻ và với nỗi hoài nhớ Amaranta. Vài ngày sau khi trở về, José Arcadio đã bỏ bộ quần áo bằng lụa đen, không những vì nóng mà còn vì ở đây bộ đồ ấy chỉ mình anh ta có thôi thay vào đó anh ta mặc quần chẽn, rất giống quần của Pietro Crespi mặc trong những buổi dạy khiêu vũ và chiếc áo bằng lụa tơ tằm có thêu những chữ viết tắt tên mình trên ngực. Mỗi tuần hai lần anh chàng giặt tất cả những quần áo thay ra, và trong khi chờ quần áo ấy kịp khi anh ta mặc bộ đồ rộng dùng trong nhà, vì chẳng còn bộ nào khác. Không bao giờ José Arcadio ăn ở nhà. Anh chàng đi khỏi nhà từ lúc cái nóng ban trưa bắt đầu dịu đi và khuya mới trở về. Khi ấy anh chàng tiếp tục đi đi lại lại buồn bã, thở hít như một con mèo, và nghĩ tới Amaranta. Bà ta và cái nhìn hết hoảng của cái vị thánh trong ánh sáng của ngọn đèn đêm là hai kỷ niệm còn lại trong anh chàng về ngồi nhà này. Rất nhiều lần, vào cái tháng tám kỳ lạ ở Roma, giữa giấc mơ José Arcadio mỏ mắt trừng trừng và nhìn thấy Amaranta từ trong bể nước xây bằng đá vân chui lên, với chiếc váy mỏng và chiếc băng đen băng trên tay, bà đã được lý tưởng hóa bởi nỗi buồn khổ của kẻ sống biệt xứ. Nếu như Aureliano José cố gắng dìm nghẹt hình ảnh đó trong bùn máu của chiến tranh, thì ngược lại, José Arcadio lại cố gắng lưu giữ nó sống động trong bùn lầy của dục vọng, trong khi làm vui lòng bà mẹ với sự dối trá về lòng ước muốn trở thành Giáo hoàng. Cả José Arcadio và Fernanda đều không bao giờ nghĩ rằng những thư từ họ viết cho nhau là sự trao đổi về những điều bịa đặt hoang đường. José Arcadio, từng bỏ lớp học chuyên đề ngay sau khi đến Roma, vẫn tiếp tục đọc sách về thần học và luật tu hành để tránh nguy hiểm cho việc thừa kế tài sản lớn lao mà mẹ anh ta thường nói đến trong những bức thư đầy cám dỗ, và nó có thể giải thoát cho anh ta khỏi cảnh sống nghèo khó và bẩn thỉu mà anh ta đang chung đụng với hai người bạn trên một chiếc gác xép ở Trastevere. Khi José Arcadio nhận được lá thư cuối cùng của Fernanda, lá thư được viết theo dự cảm về cái chết đang đến gần, anh chàng liền nhặt những mảnh cuối cùng của đồ trang sức giả của mình bỏ vào va-li, rồi chui vào hầm một chiếc tàu thủy để vượt biển, tại đó những người di cư chen chúc như một lũ bò ở lò sát sinh, họ ăn mì ống và pho mát đã có giòi.
........(Còn tiếp ...)
Vui lòng đọc tiếp đầy đủ trên ứng dụng truyện TYT (iOS, Android).
Trải nghiệm nghe truyện audio, tải truyện đọc offline, đặc biệt hoàn toàn miễn phí.