Theo quan niệm dân gian, mèo là loài vật có khả năng liên thông giữa âm dương, thậm chí còn được đồn đại là có chín mạng sống. Khi mèo đến gần xác chết, người ta tin rằng người chết có thể mượn một mạng của mèo để sống lại mà biến thành cương thi.
Mèo đen luôn được xem là biểu tượng của sự xui xẻo, và liên hệ với tiếng mèo kêu nửa đêm hôm qua, Lê Tri kết luận đây là điều kiện để trưởng thôn có thể sống lại và giết người.
Với tình hình hiện tại, chắc chắn không thể để con mèo đi, ai biết được nó có quay lại nữa không.
Lê Tri suy nghĩ một lúc rồi nói: “Trước hết nhốt nó vào phòng tôi đã.”
Cô ôm con mèo đen về phòng, thấy Tri Y đang tròn mắt từ trên giường ngồi dậy, liền hỏi: “Sao chưa ngủ?”
Tri Y ngại ngùng đáp: “Một mình tôi không ngủ được.” Cô ấy lo lắng hỏi tiếp: “Lúc nãy tôi nghe thấy cô và Hứa Thuật hét lên, đã xảy ra chuyện gì sao?”
Lê Tri bình thản nói: “Không có gì đâu.” Sau đó, cô đặt con mèo đen xuống giường và hỏi: “Cô có thích mèo không?”
Tri Y vui mừng ra mặt: “Thích lắm! Mèo ở đâu ra thế?”
Thấy cô ấy thích mèo, Lê Tri an tâm, đặt con mèo đen lên giường: “Nhặt được bên ngoài đấy. Để nó ngủ cùng cô, đừng để nó ra ngoài nhé, mèo đen không được lại gần xác chết.”
Tri Y rùng mình, lập tức ôm chặt con mèo: “Tôi biết rồi!”
Lê Tri khép cửa rồi quay lại linh đường. Sau cảnh tượng xác chết vùng dậy khi nãy, Hứa Thuật càng cảnh giác hơn, không bỏ sót bất kỳ tiếng động nào trong sân. Khi Lê Tri đi ngang qua quan tài, cô liếc vào bên trong, thấy trưởng thôn đang nằm đó, tay chắp lại, đầu đang gối lên chiếc gối hình mào gà đỏ tươi.
Có lẽ vì kế hoạch giết người đêm nay của ông ta bị cản trở nên ông ta trông rất không hài lòng, khóe miệng cụp xuống.
Lê Tri nghĩ, chẳng khác gì con quái vật sáp vô dụng trong từ đường cả.
Có vẻ như ngay cả những quỷ quái trong phó bản này cũng không thể tùy ý giết người, chúng cũng phải tuân theo những quy tắc của trò chơi. Đợi khi Lê Tri ngồi xuống, Hứa Thuật không kiềm chế được nữa, lập tức hỏi: “Cô có phát hiện gì trong từ đường không?”
Lê Tri chống khuỷu tay lên ghế, ngón tay gõ nhịp đều đặn trên tay vịn: “Tôi đang sắp xếp lại suy nghĩ. Chờ sáng mai mọi người dậy rồi tôi sẽ nói.”
Hứa Thuật nhìn cô, một lúc sau rất nghiêm túc nói: “Tôi nghĩ cô chắc chắn sẽ nổi tiếng sau chương trình này.”
Lê Tri hơi nhướng mày, quay đầu nhìn anh ta, trong mắt cô ánh lên một tia sáng từ ngọn nến trên bàn thờ, có gì đó cuốn hút đến kỳ lạ: “Thế giới của các anh bây giờ ra sao?”
Hứa Thuật không ngờ cô lại hỏi câu này, ngẩn người một lúc mới đáp: “Tôi không thể tiết lộ nhiều, nhưng hệ thống [quỷ quái] sẽ mang đến cho nhân loại một thế giới hoàn toàn mới. Người chơi càng nổi tiếng, lợi ích nhận được càng lớn, và tôi tin rằng cô sẽ trở thành một trong những người dẫn đầu.”
Ánh mắt anh ta lóe lên một tia nhiệt huyết, thì thầm: “Trong thế giới của tôi, người chơi có độ nổi tiếng cao gần như được tôn thờ như thần thánh.”
Lê Tri trầm ngâm. Thấy anh ta không muốn nói thêm, cô cũng không hỏi tiếp. Sau đó, cô và Hứa Thuật canh cho đến nửa đêm một cách yên bình. Khi đến lượt Tri Y và Liên Thanh Lâm, Lê Tri chỉ dặn dò họ vài câu rồi quay về phòng nghỉ ngơi.
Tri Y đã làm rất tốt việc dỗ dành con mèo đen, nó nằm ườn trên giường ngủ ngon lành. Lê Tri vuốt nhẹ cằm nó rồi tắt đèn đi ngủ.
Chưa nằm được bao lâu, ngoài trời đã vang lên tiếng mưa rơi lộp độp trên mái bạt. Lê Tri trở mình, nghe tiếng mèo thở khò khè bên cạnh và tiếng mưa rả rích bên ngoài, rồi cô chìm vào giấc ngủ sâu.
Sáng hôm sau, mưa vẫn chưa ngớt. Những hạt mưa nhỏ li ti dày đặc và đều đặn, ở miền Nam, người ta gọi loại mưa này là mưa phùn. Bên ngoài, mưa phủ khắp chốn, không khí càng thêm phần lạnh lẽo.
Đêm qua là một đêm yên bình, không có ai bị thương. Nhìn sáu người còn nguyên vẹn ngồi ăn sáng với nhau, ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm.
Hứa Thuật nhìn Lê Tri mấy lần, thấy cô điềm nhiên ăn bánh bao, không chút lo lắng, cuối cùng anh ta cũng không nhịn nổi, hỏi: “Bây giờ mọi người đã đông đủ cả rồi, cô có thể nói về những gì mà mình phát hiện được ở từ đường tối qua không?”
Tri Y bất ngờ phun cơm ra: “Cô lại đến từ đường à?!”
Những người còn lại nhìn Lê Tri với ánh mắt kinh ngạc và ngưỡng mộ, Tri Y chợt nhận ra: “Không lạ gì khi tối qua cô không muốn canh đêm với tôi, chắc sợ tôi sẽ hoảng sợ nếu bị bỏ lại một mình, đúng không?” Tri Y cảm động đến mức đôi mắt đều long lanh: “Tri Tri, cô đúng là người tốt!”
Lê Tri để yên cho cô ấy dụi đầu vào cánh tay mình hai cái, nuốt nốt miếng bánh bao rồi nói: “Trưởng thôn chỉ có một người con trai nhưng đã chết yểu, chúng ta đích thực là con nuôi của ông ta.”
Dù đã nghe suy đoán này từ hôm qua, nhưng khi nó được xác nhận, mọi người vẫn khó lòng mà chấp nhận được.
Cao Sĩ Quân không còn tâm trạng ăn sáng: “Vậy chúng ta có nên tiếp tục chôn cất trưởng thôn không? Ông ta đâu phải là người thân của chúng ta!”
Chúc Chi Bạch nói: “Nhưng cha nuôi cũng là một phần của gia đình. Chúng ta không biết cha mẹ ruột của mình là ai, họ ở đâu. Và có thể nhiệm vụ không phức tạp như chúng ta nghĩ, có lẽ những manh mối này chỉ là để đánh lạc hướng.”
Lập luận của ai cũng có lý, tình hình trở nên bế tắc.
Lê Tri cầm lấy một quả trứng luộc, đập nhẹ lên bàn rồi bắt đầu bóc vỏ.
Những người đang bối rối đồng loạt nhìn về phía cô, Cao Sĩ Quân sốt ruột hỏi: “Sao cô còn ngồi bóc trứng vậy?”
Lê Tri ngạc nhiên nhìn anh ta: “Vì tôi còn chưa no mà.”
Cao Sĩ Quân: “...”
Liên Thanh Lâm nhìn Lê Tri: “Cô quyết định đi, chúng ta nên tiếp tục an táng trưởng thôn hay tìm manh mối về cha mẹ ruột, bọn tôi sẽ theo ý cô.”
Mọi người đều dồn ánh mắt kỳ vọng vào người lãnh đạo của nhóm, Lê Tri thở dài, ra hiệu bằng ánh mắt về phía ngoài sân: “Tình hình hiện tại là chúng ta không có sự lựa chọn nào khác, chỉ có thể tiếp tục nhiệm vụ chính.”
Ngoài cổng, chú Cửu đang xách cây rìu gỉ đi qua đi lại, thỉnh thoảng lại liếc nhìn họ, ánh mắt đầy vẻ đe dọa.
Quả nhiên, chưa kịp ăn hết quả trứng, ông ta đã bước vào, thúc giục: “Ngày mai là ngày chôn cất trưởng thôn, hôm nay mấy đứa phải lên núi chặt cây liễu về làm cờ dẫn hồn và gậy xuất táng*. Thầy âm dương đã chọn được huyệt mộ rồi, chặt cây xong thì đào mộ. Cho mấy đứa mượn cây rìu này, mau chóng lên đường đi, đừng có chần chừ nữa!”
Liên Thanh Lâm nghiến răng, đợi ông ta rời đi liền giơ ngón giữa về phía cửa: “Đợi qua màn này tôi sẽ tẩn cho ông ta một trận!”
Lê Tri nhét nốt miếng lòng trắng trứng vào miệng, lau tay: “Đi chặt cây thôi.”
Mưa phùn vẫn rơi, nhưng trong sân không có áo mưa, cả nhóm bọn họ chỉ còn cách mang rìu mà đội mưa lên núi. Cánh rừng mờ ảo trong làn mưa, việc tìm một cây liễu giữa rừng bách không hề dễ dàng. Trong thôn không có, sáu người quyết định leo lên núi để tìm kiếm.
Trên đường lên núi, Lê Tri chia sẻ suy nghĩ của mình: “Dân số thôn Quan Bình giảm sút sau khi đất nước thống nhất, số lượng ít ỏi dẫn đến sự suy tàn của thôn. Với vai trò trưởng thôn, hẳn là Quan Mậu Đức phải tìm cách thay đổi tình hình. Tôi nghi ngờ việc ông ta nhận nuôi chúng ta có liên quan đến điều này.”
Liên Thanh Lâm suy nghĩ rồi nói: “Nhận nuôi tám đứa trẻ với hy vọng sau này chúng lớn lên sẽ quay lại xây dựng quê hương?”
Tri Y chợt hiểu ra: “Nhưng chúng ta không trở về, mà chọn ở lại thành phố lớn nên thôn dân mới căm ghét chúng ta như vậy!”
Lập luận này nghe có lý, nhưng Lê Tri vẫn cảm thấy sự việc không đơn giản như vậy.
Cơn mưa khiến đường trong thôn lầy lội, việc leo núi trở nên khó khăn, cả nhóm phải lội qua những đoạn đường bùn đất, quần áo ướt sũng, lạnh lẽo và khó chịu.
Không biết đi bao lâu, Chúc Chi Bạch đột nhiên la lên kinh hãi: “Có người treo cổ trên cây kìa!”
Anh ta hoảng hốt, trượt chân ngã khuỵu xuống đất, người đầy bùn. Mọi người đỡ anh ta dậy, nhìn theo hướng tay anh ta chỉ, nhưng không thấy gì cả. Chúc Chi Bạch chớp mắt hai lần, nhưng phía trước chỉ có bóng cây đung đưa trong gió mưa mà thôi.
Liên Thanh Lâm hỏi: “Anh nhìn lầm rồi sao? Giữa ban ngày sao lại có ma quỷ.”
Nghe vậy, Chúc Chi Bạch cũng không chắc chắn nữa, tự hỏi có phải mình quá căng thẳng mà nhìn lầm hay không.
Cả nhóm im lặng, thời tiết vốn đã lạnh, giờ càng khiến cho bọn họ thêm phần run rẩy, Lê Tri nghĩ một lúc rồi bước về phía trước: “Đi kiểm tra xem sao.”
Mưa mù khiến mọi thứ xung quanh trở nên mờ ảo. Khi đến gần cái cây mà Chúc Chi Bạch nói, cả nhóm mới nhận ra đó chính là cây liễu mà họ đang tìm. Tán cây không cao lắm nhưng rất rậm rạp, cành lá rủ xuống, đung đưa trong mưa, trông như có người treo cổ trên đó thật.
Chúc Chi Bạch thở phào nhẹ nhõm rồi phấn khởi: “May quá, tôi nhìn nhầm, chưa chi đã dễ dàng tìm được cây liễu rồi!”
Để làm cờ dẫn hồn và gậy xuất táng, họ không cần chặt cả cây mà chỉ cần một số nhánh cây to và thẳng. Để công bằng, mỗi người đều lên chặt hai nhát rìu. Chiếc rìu gỉ nặng nề và cùn, việc chặt cây rất tốn sức.
Liên Thanh Lâm chặt vài nhát,rồi than thở về chú Cửu: “Ngày nào cũng lôi rìu theo mà không thấy ông ta mài gì cả!”
May mà các nhánh cây không quá to, chỉ còn vài nhát nữa là xong, Chúc Chi Bạch cầm lấy rìu và chặt tiếp. Cành cây rung lên, làm từng giọt mưa lộp độp rơi xuống. Chặt được hai nhát, anh ta cảm thấy có gì đó đang đung đưa trên đầu mình, thỉnh thoảng còn chạm vào đầu.
Anh ta nghĩ đó là cành cây rủ xuống, liền đưa tay lên phủi.
Nhưng khi chạm vào, cảm giác không giống như cành cây. Đó là thứ gì đó mềm mại, ẩm ướt, lạnh lẽo, giống hệt... giày của người chết.
Chúc Chi Bạch dừng tay, đưa cái cổ cứng ngắc ngước lên nhìn.
Ngay trên đỉnh đầu anh ta, có một đôi chân treo lủng lẳng, sưng phù, trắng bệch, đi một đôi giày vải đen, mũi chân cứ thế đung đưa trên đầu anh ta.
_____
(*) Cờ dẫn hồn và gậy xuất táng là hai vật phẩm thường xuất hiện trong các nghi thức tang lễ truyền thống ở một số vùng, đặc biệt là trong các nghi lễ liên quan đến việc di quan và an táng.
Cờ dẫn hồn:
Cờ dẫn hồn (hay còn gọi là cờ hồn phách, cờ phướn) là một lá cờ thường được làm từ vải trắng hoặc vải vàng, trên đó có ghi những thông tin về người đã khuất, như tên, ngày tháng năm sinh và ngày mất.
Cờ dẫn hồn được sử dụng trong lễ tang với mục đích dẫn dắt linh hồn người đã khuất, chỉ đường cho họ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Cờ này thường được cắm hoặc treo ở nơi cử hành lễ tang và khi di quan (chuyển quan tài đến nơi chôn cất hoặc hỏa táng), nhằm dẫn đường cho linh hồn và bảo vệ họ trên con đường đến thế giới bên kia.
Gậy xuất táng:
Gậy xuất táng là một cây gậy được sử dụng trong nghi thức đưa tang, đặc biệt trong quá trình di quan. Gậy này thường được người thân, thường là người con trai trưởng hoặc người đại diện của gia đình, cầm khi đi trước quan tài.
Gậy xuất táng có ý nghĩa dẫn đường, giúp linh hồn của người đã khuất tìm đường đi một cách thuận lợi, đồng thời thể hiện sự kính trọng và lòng hiếu thảo của con cháu đối với người đã mất. Trong một số nghi lễ, gậy xuất táng có thể được trang trí hoặc buộc kèm theo các biểu tượng tâm linh để mang lại ý nghĩa bảo vệ và dẫn dắt linh hồn.