Tin ông Năm Truyện hy sinh làm cho nhiều cán bộ và chiến sĩ lo lắng. Mới hôm nào người ta vẫn thấy ông một tay xách dép, một tay chống gậy, đến đâu cũng cười nói thật thoải mái, cặp mắt hấp háy sau cặp kính cận:
- Ráng lên, ráng lên ít nữa có quân bổ sung ta lại làm một quắn nữa!
Hoặc là:
- Tui nó không dễ gì đánh bật mình ra khỏi cái ven đô này được đâu. Các đồng chí yên trí, các đồng chí đi đâu, phân khu sẽ đi theo đến đó.
Vậy mà, đã một tuần nay phân khu không liên lạc đựợc với trung đoàn, tin ông Năm Truyện chết truyền đi như một luồng gió lạnh. Nếu bình thường ra, việc một đồng chí tư lệnh hy sinh không phải là một việc gì quan trọng ghê gớm lắm. Nhưng việc đó xảy đến giữa lúc mà các đơn vị phân khu đang chịũ đựng một cuộc phản kích ác liệt trên địa bàn nằm lọt giữa vòng vây của địch thì lại hóa ra một việc vô cùng rắc rối, gây khó khăn cho lãnh đạo. Lâu hỏi Thị:
- Nghe nói trung đoàn Quyết Thắng rút về bưng Còng rồi phải không?
- Mình bây giờ cũng chẳng biết đơn vị nào ở đâu nữa, chi biết đơn vị mình vẫn có lệnh bám trụ ở đây. Chủ lực của phân khu bây giờ thành chủ lực chống càn rồi. Rốt cục trung đoàn mình thì khi nào cũng đảm đương nhiệm vụ khó khăn nhất. Hồi ở khu 6 cũng vậy, hồi chín năm cũng vậy. Nhưng mà tao chắc hồi chín năm ở chiến khu Dương Hòa và chống càn ở địch hậu Bình Trị Thiên cũng không gay go như bây giờ! Cái hồi mà ông Thêm còn làm liên lạc, đội ca lô lệch, huýt sáo chạy trước con chó ấy, kể chi! Kỳ này thì chắc tha hồ truyền thống cho cụ Thêm cụ ấy chép. Hôm ra đi đợt hại. cụ nói với tao: “Trung đoàn mình về kỳ này chắc xẹp mất. khó mà xây dựng lên được, hết mất nòng cốt rồi!”. Cụ cứ tiếc mãi cái chất lượng của đơn vị khi bắt đầu từ miền Bắc ra đi - Tao thấy thương cụ quá, vừa qua bom xơi gần hết ban chính trị, còn một mình cụ sống sót ở ban tuyên huấn. Kỳ này nghe nói lại bị trận nữa ở Phú Hòa Đông. Cụ mà mất cái “gáo” thì trung đoàn coi như hết người cũ, hết người biết chuyện chiến khu Dương Hòa với trận Thanh Hương, chiến dịch Trung Lào mà kể cho chiến sĩ nghe...
Quá không tham gia câu chuyện vì anh là chiến sĩ mới, tuy vậy anh vẫn lắng nghe không bở sót một chi tiết nào. Từ khi xuống vùng ven, mỗi ngày đối với anh giống như một trang sách mới. Anh chưa kịp hiểu ra đầu đuôi câu chuyện thứ nhất thì một
chuyện thứ hai lại xảy ra. Xuống đến gần sông Sài Gòn, người ta hỏi anh có biết bơi không. Vậy rồi vừa đi, tiểu đội trưởng vừa phổ biến cách buộc bồng. Cả đơn vị bơi qua sông cách đồn địch không đến năm trăm mét. Đến chỗ trú quân, đắp xong cái hầm nói trên bờ rạch, đồng chí tiểu đội trưởng phổ biến là bên kia rạch cách ta không đầy một ki lô mét, có một tiểu đoàn địch đóng trong một xóm công giáo di cư. Ngồi dưới bụi dừa nước, anh trông thấy không biết bao nhiêu loại máy bay lên xuống suốt ngày ở sân bay Tân Sơn Nhất, ngay sát trước mặt anh.
Vừa mới đến địa điểm tập kết, chân ướt chân ráo, đêm hôm sau, đã có lệnh hành quân đến một vị trí mới. Nơi anh đến hãy còn khét mùi bom đạn. ở đó, một đơn vị bạn vừa chống càn xong và rút lui có lẽ chưa quá một vài tiếng. Tối đến, anh nghe một tiếng súng nổ ở cuối bờ sông. Người ta cho anh biết địa phương vừa mới bắt một tên thám báo và bắn tại chỗ. Hôm nay, anh đi khiêng thương, gặp đồng chí trung đoàn trưởng một cách thật bất ngờ, tiếp đó lại đến cái tin tư lệnh trưởng phân khu hy sinh.
Ngày anh từ miền Bắc ra đi, qua mỗi bến phà, mỗi nhà ga đổ nát, qua những con đường chiến lược chi chít hố bom, anh vẫn thường gặp những đoàn thanh niên xung phong cưòi nói râm ran, vẫn gặp những em học sinh đội mũ rơm mang lá ngụy trang chạy theo anh từng đoạn đường dài, và những đoàn xe bật đèn gầm nôì nhau lầm lì đi ra mặt trận.
Những đêm mắc võng trên bãi khách, những câu chuyện đùa vui với cô giao liên, những cuộc họp đồng hương giữa đỉnh Trường Sơn, những buổi phổ biến chiến thắng từ tiền tuyến đưa về trên đường hành quân, tất cả đối với anh vẫn mang một màu sắc thơ mộng vì ở đó sự ác liệt không phải lúc nào cũng xảy ra.
Sau mỗi trận bom, sau những trận chiến đấu từ một trận địa cao pháo, sau khi vượt một con sông dưới ánh sáng và tiếng gầm của phản lực anh
vẫn có thì giờ để lùi ra mà tự ngăm mình, nhữ cái đẹp được nhớ lại, được tưởng tượng thêm ra, tiếp sức cho mộj trận chiến đấu mới. Còn ở đây, cái nhịp độ khẩn trương của cuộc chiến đấu chỉ kịp cho anh có thì giờ suy nghĩ: Phải làm sao đây? Tiến hay lùi? Sống hay chết? Đánh hay không? Vượt ra khỏi hầm hay trụ lại? Cứ như thế, hết trận thử thách này đến trận thử thách khác.
Quá có thói quen ghi nhật ký. Nhật ký của anh chép đầy những câu nói hay, những bài thơ đẹp. Có khi anh còn viết cả một lá thư cho bạn vào trong đó, ghi lại
những ý nghĩ của mình mà không gửi đi. Có khi anh chép những phong cảnh và cảm nghĩ của mình về một vùng đất đi qua, có khi anh kể chuyện lại với mình về một cuộc gặp gỡ với một cô thanh niên xung phong, và cũng có khi anh làm vào đó cả những bài thơ nữa.
Vậy mà ba tuần nay, anh không viết được lấy một chữ. Cuốn nhật ký mặc đầu đã được bọc kỹ trong túi ni lông, hôm bơi qua sông vẫn bị ướt nhòe từng quãng.
Những ngày đi Trưởng Sơn, cứ đều đặn mỗi tuần một lần, anh lại gửi một lá thư theo đường giao liên ra Bắc, vậy mà đã mấy tuần nay anh không làm được việc đó nữa. Lý do chính không phải là thời gian, bởi vì có ngày ngồi bên rạch từ sáng tới trưa, từ trưa đến tôi, anh không làm gì cả, chỉ có một việc chờ địch đến thì đánh. Đến bữa, anh lại cầm một cành lá chạy qua những quãng trống để lấy một nắm cơm mà anh nuôi nấu lên vắt sẵn, mang về hầm ăn, Cũng có lần anh mở bồng, giở sổ tay toan viết, lại nghe tiếng máy bay trực thăng, anh cất sổ đi và nghĩ: ‘Thôi để lúc khác”.
Một cuộc chuẩn bị chiến đấu cứ rập rình hết ngày này qua ngày khác. Bao giờ cũng sẵn sàng, súng lên đạn, bồng buộc sẵn, cần thì nổ súng hoặc chuyển quân.
Đêm đến, giấc ngủ cứ ập tới không thể nào cưỡng lại được Quá cảm thấy có một cái gì không bình thường trong sinh hoạt, anh ngạc nhiên khi mọi người chung quanh anh vẫn giữ được cái thói quen hàng ngày. Họ đánh răng mỗi buổi sáng bằng nước dưới rạch, họ tắm giặt dưới những lùm cây. Khi tình hình im ắng, họ có thể cầm cành cây chạy qua những quãng trống từ đầu rạch đến cuối rạch để gặp một người đồng hương mới bổ sung về đơn vị. vẫn có những người ướp cả cánh mai vàng vào cuốn sổ tay. Sau những trận bom, khi moi hầm, chôn cất tử sĩ xong, họ thản nhiên nói với nhau những câu chuyện bình thường:
- Hôm nay bên cậu có cơm ăn không? Hoặc là: - Chiều nay mình định ăn cơm sớm để vào trong ấp một chút!
... Sáng ngày mai trinh sát sẽ phải ra bám địch ở hướng Vườn Cau Đỏ. Nguyên cái chuyện chạy qua mấy điểm pháo cũng đã đủ hồi hộp. Ra giáp mí cầu sắt là có thể gặp địch bất cứ lúc nào... Đáng lẽ trong khi có thể nghĩ về một bài thơ hay một đoạn nhật ký, thì bây giờ Quá lại nghĩ đến những chuyện như vậy... Phía trước, Thị vẫn nói chuyện với Lâu về cái ông Thêm, trợ lý tuyên huấn của trung đoàn:
- Ông ấy còn hăng hái lắm, hôm ra đi vẫn tổ chức kể chuyện truyển thống của đơn vị...
Quá bỗng nhớ đến cái ông cán bộ gầy nhom, nói tiếng miền Trung ấy. (Gần đây người ta mới nói cho Quá biết đó là ông Thêm). Quá đã được ông ta kể cho nghe về truyền thống của trung đoàn hôm anh vừa mới về đơn vị. Những câu chuyện của ông kể, gây cho Quá rất nhiều hứng thú. Ông kể về những trận đánh nhà Mo - ranh, Cột Cờ, chợ Đông Ba từ ngày đầu tiên ở cố đô Huế, những con đường hành quân của trung đoàn vòng quanh Đông Dương, những lần phá vây rút lên chiến khu Dương Hòa, những ngày ân lá bép thay cơm ở chiến trưởng Cực Nam Trung Bộ. Cứ mỗi đoạn như thế, ông lại nhắc tên môt anh hùng, một dũng sĩ, nóí vê một sự tích một chiến công của những người lớp trước.
Mới cách đây hơn nửa thống, ngồi nghe ông Thêm nói. Quá cứ cảm thấy như mình đến cái trung đoàn này quá trễ không kịp được tham gia vào những chiến công lừng lẫy đó, không được là chiến sĩ trung đoàn trong khi nó đang đảm nhiệm những nhiệm vụ cực kỳ nặng nề mà cũng cực kỳ vinh quang đó. Nhưng cho đến bây giờ, chính anh đang được cùng với trung đoàn chịu đựng một cuộc thử thách thật ác liệt, thì anh lại không cảm thây điều đó. Đi đâu Quá cũng nghe người ta nói trung đoàn mất sức chiến đâu rái, cái giaiđoạn là mũi nhọn phía bác Sài Gồn đã qua rổi. Bây giờ chỉ có chống càn, chạy gạo, tải thương. Ngay cả cái ông Thêm mà Thị đang nhác đến đó bây giờ cũng đang lo trung đoàn khó mà có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc...Chiếc võng chao nghiêng, Thị đang đi bỗng dừng lại, khoát tay ra hiệu cho Quá ngồi xuống, vừa lúc đó có tiếng quát:
- Ai?
Im lặng một lúc, sau đó có tiếng nói nhỏ: - Các đồng chí cáng thương...
Tiếp theo là tiếng hỏi dõng dạc: - Phải 16 không?
- Ai mà hỏi 16?
- A2 đây! (A2 là ký hiệu của tiền phương phân khu). Thị chưa chịu đứng lên, thì từ trong bóng tối một chiến sĩ đã bước ra:
- Có phải E bộ ở đây không, đồng chí? Thấy Thị vẫn còn có vẻ ngần ngừ, anh ta ghé tai nói nhỏ:
- Tôi đưa thủ trưởng vượt sông qua đây, suốt hai ngày nay nó càn bên Bình Mỹ. Đồng chí chỉ giùm tôi vào ban chỉ huy trung đoàn, anh Tám ảnh đến làm việc... Phía
sau, một người mặc quần áo bà ba bước tới. Thị nhận ngay ra đó là đồng chí Tám Hàn, phó chính ủy phân khu.
- Thương binh còn nhiều không, đồng chí?
- Báo cáo thủ trưởng còn nhiều, ở ngoài trận địa chưa đưa về hết.
- Anh Ba hiện nay ở dâu?
- Dạ, I ngoài sở chỉ huy ạ! Phó chính ủy nhìn những cái kim lân tinh trên đồng hồ đeo tay, ngẫm nghĩ một lát rồi nói với người chiến sĩ cùng đi:
- Mình theo các đồng chí đây về chỗ trung đoàn bộ, có gì mai ta tính sau.
Thị và Quá tiếp tục khiêng thương đi trước, đồng chí cán bộ và chiến sĩ mang AK theo sau. Chiến sĩ đi theo phó chính ủy phân khu chính là An, vệ sĩ của ông.
Thương binh của trung đoàn dồn cả về Gò Sao. ở đây còn cả một bộ phận của công binh, trinh sát, và toàn bộ tiểu đoàn 7. Khu vực đóng quân là một vườn cây ăn quả lâu năm. Phía tây, sau lưng họ là một con rạch lớn, qua con rạch đó là bưng, kế đến là một cái ấp lớn nằm dọc theo con đường nhựa mà bên kia là nhà máy xay, nơi đang xảy ra chiến sự.
Trước mặt họ, qua một con rạch nhỏ là đường quốc lộ 13 chạy dọc theo sông Sài Gòn ở hướng đông. Bên kia sông Sài Gòn là thị xã Bình Dương. Phía bắc Gò Sao là một cánh đồng lầy. Qua cánh đồng lầy là Vườn Cau Đỏ, đến Vườn Măng Cụt, nơi tập kết đầu tiên của trung đoàn khi xuống ở khu vực này. Đó cũng là con đường mà trung đoàn vẫn tổ chức đưa thương binh ra bò sông Sài Gòn để chuyển anh em về phía sau. Phía đó, mấy hôm nay, Mỹ đang đổ quân càn. Phía nam Gò Sao, qua một con rạch nhỏ, một cánh đồng lầy, là một làng giáo di cư mới lập lên từ thỏi Ngô Đình Điệm, ơ bốn phía của Gò Sao, nơi nào cũng có địch.
Trong đợt một, tiểu đoàn 7 đã về bám trụ ở đây hơn hai tuần lễ. Hầu như ngày nào đơn vị cũng phải tổ chức đánh càn. Có lần, sau khi đánh xong, họ phải bơi qua rạch, ém quân bên bưng Voi Nhỏ một vài ngày rồi lại quay trở về, Cũng có lần. đánh xong họ vòng lên phía bắc, qua Vườn Măng Cụt, vượt đường 13, rút tạm về sát bờ sông Sài Gòn. Để đứng chân được ở đây, thường xuyên trung đoàn phải rải trinh sát bám địch ỗ mấy địa điểm có thể cơ động được. Họ đánh xong chỗ này, lại rút sang chỗ kia, cứ như thê xoay đèn cù với địch trên một địa bàn hẹp bằng cái bàn tay này
(nói theo cách nói của anh em 16). Nơi mà tiểu đoàn lui tới nhiều nhất vẫn là Gò Sao.
Đó là một khu vườn vuông, mỗi chiều không đầy một ki - lô - mét rưỡi. Những con rạch nhỏ chạy ngang dọc, chia khu vườn ra từng ô vuông như bàn cờ. ở đây người ta trồng đủ các lòậi cây: dừa, cam, ổi, giâu gia, mận hồng đào. v.v. Người chủ vườn là một ông già 60 tuổi, lúc đầu còn lui tới bứt dừa, chặt mía cho bộ đội. Sau đó, vì bom đạn nhiều quá, ông khoán trắng cho tiểu đoàn khu vườn này, cho bộ đội tự do muốn làm gì thì làm: bứt trái, chặt cây, đào hầm tùy ý, miễn sao như ông nói dùng cái vườn của ông để đánh được giặc.
Họ đào hầm chiến đấu ở dưới những gốc giâu, gốc dừa, men theo các bò rạch, các ụ chiến đấu ở ngoài cánh đồng dưới lùm cây hoặc bên bãi mía để có thể đánh địch từ xa. Trong lúc chiến đấu, men theo bờ cây hoặc lòng rạch, họ đi chuyển từ khu vực này qua khu vực khác, từ trong vườn ra ngoài cánh đồng và từ cánh đồng vào trong vườn. Sau khi đánh xong, tùy theo hướng địch, họ có thể lội qua những con rạch rút về bưng Voi Nhỏ hay khu vực Vườn Cau theo ý định của họ.
Giữa cái dải đất hẹp sình lầy này, thì khu vực Gò Sao vẫn là khu vực giấu quân tốt nhất. Đầu vậy. họ biết không chóng thì chầy, nhất định chúng nó sẽ tập trung đánh lớn ở đây. Sau trận đánh ở nhà máy xay, sau khi dịch đổ quân càn quét ở phía Bắc, tiểu đoàn 7 phải rút vê đây là một điều cùng bất đắc dĩ. Hầu như đêm nay không có người nào ngủ. Họ đắp lại hầm, chặt cành cây che thật kín.
Khi phó chính ủy phân khu và cáng thương về đèn Vườn Giâu thì tiếng gà đã gáy rộn trong ấp Xóm Mới. Việc đầu tiên của An là đi xem lại cái hầm mà người ta dành cho thủ trưởng, xong anh đi một vòng xem xét địa hình quanh Vườn Giâu. Sau đó, anh mở bồng, pha sữa và cát nửa cái bánh mỳ đưa cho phó chính ủy rồi đến bên gốc cây, mở nắm gạo rang của mình ra ăn. Có mời An thì An cũng không bao giờ ăn, phó chính ủy biết vậy nên chỉ uống một ngụm sữa và cất nửa cái bánh mỳ vào xà cột.
Đã ba ngày nay, ngâm mình suốt dưới rạch, bây giờ mới có dịp tắm rửa một chút. Ông lấy khăn lau nhúng xuống nước, ngồi kỳ cọ thật sạch những lớp bùn bám ở chân, ở tay, ở tóc. Có được một phút nghỉ ngơi như thế thật là thoải mái.
Mùi hương của một thứ hoa gì đó tan ra trong đêm mát dịu. Đầu sao thì mình cũng có thể nghỉ ngơi được một đêm hôm nay. Rồi mai sẽ phải làm việc với trung đoàn,
có thể sau đó lại qua rạch, lộn về Vườn Cau rồi sang Bình Mỹ. Một cuộc chạy càn đã đẩy giạt ông sang đây. Bây giờ trong tay ông chỉ còn trung đoàn 16, ông sẽ cố gắng động viên nó bám lấy cái địa bàn Nhỏ hẹp này. Ông ráng đứng vững cho đến khi chính ủy và tư lệnh phó đi họp về. Lúc đó sẽ có chỉ thị mới. Có thể ông sẽ về phía sau, hoặc ít ra thì cũng có quân sô’ bổ sung.
Ông cảm thấy sự có mặt của ông lúc này, ở đây chỉ có một ý nghĩa: Làm cho bộ đội vững tâm. Phó chính ủy nghĩ vậy và chuẩn bị cuộc nói chuyện mà ông đã dự định từ khi vượt qua Vườn Cau Đỏ băng cánh đồng sình lầy, nhòm thấy trước mặt khu vực Gò Sao. Chắc chắn người ta sẽ hỏi ông về tình hình chung của chiến dịch, về việc có đánh vào Sài Gòn nữa không và về nhiệm vụ sắp tới của đơn vị, người ta sẽ đặt ra cái vấn đề đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các cuộc họp: Nếu muốn đánh nữa thì phải bổ sung quân, phải có chi viện và sự phối hợp của đơn vị bạn. Đánh mà không có củng cố, không có bổ sung thì chất lượng sẽ yếu đi. Điều này là điều chính ông cũng đang băn khoăn.
Vào bộ đội gần hai mươi nhăm năm, chưa lần nào ông thấy khó khăn như bây giờ, cũng chưa bao giờ ông thấy lòng tin của mình bị dao động như vậy. Trong các cuộc họp, ông vẫn giải thích, vẫn động viên, nhưng cứ mỗi đêm, ngồi trước tấm bản đồ vùng ven, ông cảm thấy lòng mình rối bời như những đường ngang nét dọc chằng chịt trên đó vậy.
Cái lệnh cuối cùng mà ông nhận được từ Bộ tư lệnh Miền là: ‘Trung đoàn 16 giữ vững địa bàn sẵn sàng chờ lệnh mới”...
Đài 15 oát không hoạt động được nữa. Liên lạc với phía sau bị cắt đứt. Chính ủy đi họp chưa về. Cứ riêng ông nghĩ thì ta không đủ khả năng đánh vào Sài Gòn được nữa. Ta cần phải bảo vệ lực lượng để đánh lâu dài. ở đây lâu nhất định sẽ bị tiêu diệt. Nhưng ông cũng hiểu mặt nữa: có thể đây là một nhiệm vụ chiến lược nào đó mà cấp trên chưa nói hoặc chưa có thể nói rõ. Như thế sẽ có sự hy sinh cục bộ. Điều đó rất có thể xảy ra.
Phó chính ủy Hàn là một cán bộ xưa nay vẫn có tiếng thận trọng, chắc chắn. Tập kết ra Bắc năm 54 thì đến năm 60. ông trở lại chiến trưởng. Năm 65, ông là phái viên của Cục chính trị Miền, được cử xuống công tác ở vùng phân khu Một. Sau một thời gian, ông được cử làm chủ nhiệm chính trị phân khu. Trong trận càn “Xê - đa - phôn”. ông đã cùng quân dân củ Chi bám đất, nằm hầm bí mật chỉ đạo phong trào,
cùng với du kích chiến đấu giằng co với địch trên từng quãng địa đạo một. Vì là người được thử thách trong trận đánh Mỹ đầu tiên, sau khi rút về Cục chính trị một thời gian, ông lại được cử xuống đây lần thứ hai vớí cương vị phó chính ủy phân khu.
Phân khu Một có tầm quan trọng đặc biệt. Đó là cửa ngõ tây bắc của Sài Gòn. Nó cũng là nơi mà từ những căn cứ phía saụ, vượt qua khu Tam Giác sắt, ta có thế tiếp cận Sài Gòn nhanh nhất. Với cương vị phó chính ủy một phân khu, quan trọng như vậy, ông tin rằng chỉ sau một thời gian ngắn nữa, chiến thắng sẽ mở ra cho ông một tiền đồ thật rộng lớn. Những ngày đầu tết Mậu Thân, cùng với bộ tư
lệnh phân khu, ông đã bám sát ngay phía sau các đơn vị mũi nhọn đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất, vào trường huấn luyện Quang Trung. Ồng đã chuẩn bị theo đơn vị vào thành. Cái không khí náo nức những ngày đầu Tết Mậu Thân qua đi, địch quay trở lại phản kích, tình hình trở nên căng thẳng. Thoạt đầu, với kinh nghiệm của một cán bộ lâu năm, ông hiểu ra vấn đề và suy đoán được tình thế, xác định cho mình thái độ sẵn sàng đón chịu những thử thách ghê gớm nhất. Sự thử thách này sẽ đánh giá mình một lần nữa. Vượt qua được chặng đưòng đó, ông sẽ củng cố thêm một bước sự tín nhỉệm của cấp trên đối với mình.
Sau đợt 1, khi cần một người trong bộ tư lệnh ở lại chiến trường, ông giành lấy trách nhiệm đó. Nhưng ngay sau cái đêm họp bộ tư lệnh tiền phương, chính ủy vừa ra đi, tư lệnh trường đang ở lại thu xếp một số việc, thì địch càn vào sở chỉ huy. Ông vượt được ra khỏi vòng càn, còn tư lệnh trưởng thì hy sinh ngay tại chỗ. Tiếp sau đó là những ngày đứt liên lạc với đơn vị. Một số cán bộ ở sở chỉ huy tiền phương chạy thất tán, ông vươt qua sông tìm trung đoàn 16 vừa để nắm tình hình vừa để chỉ đạo sự hoạt động của trung đoàn. Dầu sao thì nằm giữa một đơn vị chiến đấu ông cũng cảm thấy yên tâm hơn. Ồng trải tấm ni lông xuống trước cửa hầm, định ngả lưng một lúc, nhưng vừa chợp mắt thì đã nghe tiếng thì thầm:
- Để thủ trưởng ngủ... Biết An đang nói chuyện với một người nào đó định đến tìm mình, phó chính ủy choàng thức dậy: - Sao anh lại xuống đây, địch nó chuẩn bị càn khu vực này mà?
Trung đoàn trưởng Kiên đứng trước mặt phó chính ủy Hàn, cái xà cột tòn ten sau lưng, quần xắn lên quá đầu gối, hai ống chân bết đầy bùn đất, râu mọc tua tủa, mắt hốc đi sau một đêm thức trắng.
- Bộ đội về hết chưa? Phó chính ủy hỏi.
Trung đội mũi nhọn không ra được, số anh em còn lại và thương binh đã rút ra, họ đang trên đường về.
- Tôi có thể xuống chỗ anh em thương binh một chút ,bây giờ được không? Rõ ràng bây giờ là lúc trung đoàn không cần sự có mặt của phó chính uỷ. Họ đã nhận lệnh đánh, và bây giờ họ đang đánh. Một con mắt ông Ba Kiên nheo lại nhìn phó chính uỷ. Có lẽ ông đã đoán biết phó chính ủy định nói gì với ông. Điều đó không cần thiết, con mắt nói như vậy. “Phó chính ủy muốn ở lại, tất nhiên trung đoàn phải thu xếp”. Tám Hàn nghĩ vậy và có vẻ lưỡng lự. Ông cũng hiểu ràng thêm một đồng chí tư lệnh vào giữa vòng càn cho trung đoàn lúc này gây khó khăn không ít. Nhưng ông ra đi giữa lúc này thì có nên không? Như thế chẳng hóa ra mình chỉ là một người chạy càn như bao nhiêu người khác hay sao? Nếu ông ra đi, thì lời đề nghị của trung đoàn trưởng sẽ hóa thành một mệnh lệnh mà ông phải phục từng. Đi hay ở cùng là nhiệm vụ. Đi hay ở cùng đều nguy hiểm cả. Nhưng đầu sao ra khỏi vòng càn trước mắt vẫn đúng hơn.
Trung đoàn trưởng lại giục: - Đồng chí An đưa anh Tám đi ngay đi. Nếu tình hình bên Bình Mỹ đỡ căng, tôi sẽ cho trinh sát báo tin và dẫn anh qua sông luôn. An biết nhà má Hai ở Voi Nhỏ chứ? Bây giờ cậu cứ đưa anh Tám về đó. Tôi thu xếp đưa thương binh đi xong, tôi sẽ về đó báo cáo tình hình với anh, như thế được không, anh Tám?
Phó chính ủy phân khu xuống một đơn vị, ngả lưng nằm một chút, chưa làm được gì đã lại ra đi sao? Nhưng làm gì bây giờ trong khi đơn vị đang bấn lên vì một trăm thứ việc? Tám Hàn bỗng cảm thấy không những mình xuống đây không làm ích gì cho trung đoàn mà còn làm vướng bận họ nữa là khác. Ông đưa tay nắm lấy bàn tay đầy bùn đất của trung đoàn trưởng:
- Thôi, hẹn tối nay. Nhớ tổ chức bộ tiêu cho anh em đánh từ xa. Ở đây chỉ còn khu vực Gò Sao này là căn cứ tốt nhất, dầu có phải tạm thời rút đi, thì vẫn phải cho trinh sát bám địch, để nếu có điều kiện ta lại quay lại.
- Chúng tôi cũng nghĩ vậy.
Phó chính ủy nói vài câu về nhiệm vụ bám đất, đánh địch, xong nắm tay trung đoàn trưởng một lần nữa như không muốn rời ra. Bộ tư lệnh phần khu có còn đất để
bám không? Cứ mỗi lần nghĩ đến điều đó ông lại nghĩ đến các đơn vị chiến đấu còn lại. Họ sẽ đánh địch, họ sẽ thu hút các hướng tiến công của địch. Nhờ vậy mà lâu nay ông có thể ở sau lưng những cuộc càn ấy chỉ đạo cốc trận chiến đấu. Mỗi lần gặp một cốn bộ chỉ huy đơn vị như thế này. ông lại có cảm giác như là rồi đây ông sẽ không bao giờ gặp họ nữa. Một loạt pháo chớp nhàng ở phía bốc, mùi thuốc súng bay khét vưòn giâu.
- Nó bắn đó là đâu đấy?
- Trên đường rút của ta đấy, anh đi nhanh đi! An chú ý đưa anh Tám qua vườn mía cẩn thận. Một loạt pháo nữa, rồi tiếp một loạt nữa, những mảnh
pháo chém xuống cành cây san sát. Tiêng trung đoàn trưởng thét lên: - Đi đi! An dẫn thủ trưởng đi đi!
Ngày hôm đó qua đi không như dự kiến của trung đoàn. Sau đợt pháo cấp tập buổi sáng, khu vực Vườn Giâu bỗng trở lại yên tĩnh. Bộ đội bám công sự chiến đấu được lệnh thay nhau về nghỉ. Khoảng mười giờ, một chiếc “đầm già” bay trên đầu gọi loa: “A lô, a lô, anh em cán binh Việt Cộng chú ý... anh em cán binh Việt Cộng chú ý... Trung đoàn 101 đã bị bao vây. Sớm muộn các bạn sẽ bị tiêu điệt. Các bạn hãy mau mau tỉnh ngộ...”.
Mười hai giờ trưa, trinh sát tiểu đoàn đi bám địch về cho biết: Chúng nó vừa mới đổ một tiểu đoàn xuống Ba Thôn, hướng đông - nam Gò Sao, cách bộ tiêu tiểu đoàn ở hướng này không đầy 800 mét. Mười hai giờ ba mươi, cánh trinh sát thứ hai về báo tin: Hai tiểu đoàn dù được đổ xuống nhà máy bột ngọt sáng nay, đang tiến về phía bưng Voi Lớn, sau lưng đơn vị. Cùng lúc, cánh trinh sát thứ ba, bám địch ò hướng bốc, cũng về cho biết: Từ Vườn Cau Đỏ qua Nhà Bò sang đến Vườn Măng Cụt, chỗ nào cũng có lính Mỹ. Hiện đang có một tiểu càn từ hướng Vưòn Măng Cụt, theo hướng 13 đi xuống.
Ông Ba Kiên sau khi tiễn đưa phó chính ùy phân khu xong, đi kiểm tra trận địa một vòng quay trở về, vừa chợp mắt một chút thì được gọi dậy nghe tình hình. Tiểu đoàn 7 còn ba mươi tay súng. Vì phải đánh địch từ xa, tiểu đoàn trưởng Thực đã bố trí năm bộ tiêu ở năm hướng. Quân sô’ còn lại là hai mươi. Sô’ hai mươi người đó vừa phải bảo vệ thương binh vừa phải chia ra ba hướng đánh địch sau khi các bộ tiêu rút về hoặc bị chọc thủng. Trong khi tiểu đoàn trưởng Thực mở bản đồ, báo cáo lại kế hoạch tác chiến, ông Ba Kiên lơ đãng bứt lá cây, quấn tròn, vê thuốc lào hút một