Cái võng đung đưa, dừng lại, người khiêng thương trở vai. Hơi thở của anh ta phả vào mặt Lâu. Nằm ngửa mặt lên trời, Lâu cũng biết quãng đường này là quãng đường nào?
Họ vừa đi qua cái chùa sập, qua một con rạch, qua ruộng thuốc lá, và bây giờ đang đi trên quãng đường sình lầy. Cái võng nhấp nhô, nhún lên nhún xuống. Lâu thản nhiên nhìn những luồng đạn cầu vồng đỏ rực từ trên máy bay 1 trực thăng bắn xuống. Nó chặn đường rút của ta đấy! Các loại máy bay bật đèn xanh, đèn đỏ đầy trời. Những lớp khói mỏng của bom, của lửa, của đèn dù lơ lửng trên không. Từ trận địa ra, Lâu hoàn toàn mất hết cảm giác lo lắng, sợ hãi. Anh nằm bình yên trên cáng, phó mặc cho số phận, người ta sẽ đưa anh ra đến bến sông, đặt anh lên một cái xuồng, và đưa anh đi bất cứ nơi nào cũng vậy thôi. Anh yên tâm vì anh đã bị thương. Nếu có một mảnh đạn trúng vào người anh bây giờ thì cũng chỉ là một vết thương như vết thương anh đã bi ở chân mà thôi.
Phía sau... Những ngày gian khổ ác liệt... Những hình ảnh xáo trộn, mơ hồ… Trận đánh kéo dài hai ngày chưa chấm dứt, từ đêm N3, mở đầu đợt hai tổng công kích, cả trung đoàn, chỉ có một tiểu đoàn xuống kịp. Trinh sát tiểu đoàn hai lần ra đi bị phục kích. Lần thứ ba, tiểu đoàn trưởng Thực quyết định cho trinh sát đi trước và bộ đội theo sau, gặp địch là đánh.
Lâu là người đầu tiên trông thấy những bóng mũ sắt lấp loáng ở bụi tre bờ ấp. Anh vừa kịp ngồi xuống thì súng nổ. Anh lăn đi một vòng và ném trái thủ pháo cầm sẵn trong tay vào chỗ phát ra tiếng nổ.
Trận đánh điễn ra nhanh quá, cối tiểu đoàn phải chuyển làn bắn sang bên kia đường, phía sau sở chỉ huy địch. Diệt xong cụm địch ở nhà máy xay thì trời đã sáng, tiểu đoàn tổ chức phòng ngự, chờ đơn vị bạn. Suốt một ngày, đại đội Lâu chịu bảy đợt phản kích. Những cây chuối trên miệng hầm cháy đen, tàn lửa phả vào mặt rát bỏng. Đến 5 giờ chiều, khi trận địa trở lại im lặng thì chiếc “đầm già” điểm một phát hỏa mù ngay phía trước hầm Láu, Ị. Tiếp đó, anh nghe tiếng phản lực rít, rồi bốn trái bom rơi xuống bốn góc. Cối hầm đội lên, tối sầm lại... Tỉnh dậy, Lâu đã thấy mình nằm trên cáng. “Tiểu đoàn 9 vẫn chưa xuống, thương binh chưa đưa ra hết,.. Đại đội 2 hiện chỉ còn bảy tay súng... Xin trung đoàn cho ý kiến rút ra hay trụ lại...”
Lâu nghe tiểu đoàn trưởng Thực đang nói với cậu liên lạc nào đó trước lúc ra đi... Anh thiếp đi, lại tỉnh lại. Cái võng lắc lư, tiếng súng khi gần khi xa, ánh pháo sáng
nhòe đi lẫn với những quầng sáng chập chờn trước mắt. Người đi trước hẫng chân, cái võng chao đi. Người đi sau lảo đảo, đưa hai tay ôm chặt đòn cáng, rít lên:
- Cái lão này, đường rộng không bước, bước xuống hố! Mù hay sao vậy? Đi thì chậm rì, không mau mau ra khỏi chỗ này pháo nó ăn họng bây giờ!
Người đi trước im lặng không nói gì, thở gấp, cổ ngoẹo sang một bên, má tý vào đòn cáng.
- Thương binh K. mấy đó?
- K. Hai đây!
Người đi trước trả lời. Anh chiến sĩ dứng ở ngã ba đường, người vừa mới nói câu đó chỉ tay về bên trái:
- Các cậu có biết đường qua rạch Bến Cát không? Qua khỏi rạch, rẽ phải năm trăm mét có người đón. Đừng đi sang trái, hướng đó về Vườn Cau, có địch.
- Người khiêng cáng phía trước bấy giờ mới lên tiếng:
- Phải mi đó không. Thị?
- Ai rứa?
Anh chiến sĩ chỉ đường vừa hỏi vừa ghé tận mật người khiêng thương, rồi bỗng kêu lên:
- A! Thủ trưởng Kiên! Ngay sau đó, anh ghé vai vào đòn cáng:
- Sao thủ trưởng không nói anh em khác khiêng cho? Mấy thằng thông tin đâu hết rồi?
Ông Ba Kiên trao đòn cáng cho Thị, trả lời chậm rãi: - Hết người rồi!
Thị quay lại phía sau: - Thằng Quá hả? Răng mi để thủ trưởng khiêng phía trước? Khỏe như vâm rứa mà chịu đầu nhẹ!
Ngạc nhiên khi biết người khiêng thương binh với mình là trung đoàn trưởng. Quá hơi lúng túng một chút, nhưng rồi anh bình tĩnh lại ngay, trả lời liến thoắng:
- Nếu tôi mà biết là thủ trưởng thì tôi đã chẳng để...
Ông Ba Kiên đưa tay áo quệt mồ hôi: - Các cậu khiêng thương về Gò Sao, nói với đồng chí Thân chủ nhiệm trinh sát: huy động tất cả anh em còn lại vào trận địa chuyển cho hết thương binh ra ngay trong đêm nay, cho trinh sát ra nắm địch ở hướng Nhà Bò, Vườn Cau Đỏ để tối mai có thể đưa anh em đi. Rét quá, có thuốc cho mình một điếu... Cậu này ở đơn vị mô mà mình không biết?
- Báo cáo, đồng chí ấy mới bổ sung về trinh sát.
- Cậu có biết hút thuốc không?
- Báo cáo, có ạ!
Chỉ còn một điếu thuốc, trung đoàn trưởng bụm tay che lửa hút một hơi dài rồi đưa cho Quá. Qua ánh lửa, Quá liếc nhìn ông già rất nhanh, ông đội cái mũ tai bèo sụp xuống, hai gò má nhô cao, bóng tối che mất đôi mắt. Ở sở chỉ huy, có lệnh tất cả đi khiêng thương. Khi cái cáng cuối cùng buộc xong, pháo bắn rát quá, Quá đang chưa biết tìm ai thì bỗng có một người đi qua, anh liền nắm lay vai, gọi giật lại:
- Đồng chí nào đấy, khiêng một vai đi chứ! Định đi không vậy mà về à?
Người đó quay lại nhìn Quá, nhìn cáng thương, im lặng một lát rồi ghé vai vào đòn cáng.
- Cậu ở K. mấy? Quá hỏi:
- Ở trung đoàn bộ. Người đó trả lời. Thấy anh ta (lúc đó tối trời, Quá không nhìn rõ mặt) có vẻ ít nói và lúng túng, Quá lên giọng đàn anh ngay:
- Cho sát đòn cáng vào. Sao lại đi xiêu vẹo vậy, lính cậu à?
Người đi trước vẫn im lặng. Quá cũng không buồn bắt chuyện nữa, vì trên đường từ trận địa ra, anh phải luôn luôn dỏng tai để nghe tiếng pháo. Anh cứ luôn miệng giục đi nhanh. Suốt dọc đường anh chi gọi trung đoàn trưởng bằng “cái lão này”... Thì ra bây giờ đó là ông Ba Kiên, người mà anh em trinh sát vẫn hay nhắc đến. Cái ông Ba Kiên hay hút thuốc lào, hay nói chuyện tiếu lâm... cái ông Ba Kiên được phong Anh hùng quân đội, một mình chịu cả một mũi với một tiểu đoàn địch trong trận càn Thanh Hương suốt từ sáng đến tối đó! Người ta nói rất nhiều chuyện về ông... Trước đây, Quá vẫn hình dung ra một ông Ba Kiên linh hoạt, vui tính, đến đâu là sôi nổi đến đó. Vậy mà bây giờ... Ông Ba Kiên đứng đó trước mặt Quá, cái quần xắn lên đến đầu gối, hai chân bết sình lầy, rét run cầm cập. Suốt dọc đường, ông
không hề nói một câu nào. Có lúc Quá hỏi, ông cũng im lặng. Bây giờ, ông đứng xoa hai tay vào nhau hầu như không chút bận tâm đến sự lúng túng của Quá sau khi xảy ra sự việc bất ngờ vừa rồi....
Dẫu sao thì cuộc gặp gỡ này đối với Quá cũng khá thú vị, ít ra thì nó cũng làm cho trung đoàn trưởng nhớ ngay đến một chiến sĩ mới như anh. Nghĩ vậy, Quá mạnh dạn bắt chuyện:
- Thủ trưởng cho xin luôn điếu thuốc.
- Hút đi! Ồng Ba Kiên né sang một bên đường cho Thị và Quá đi lên, rồi như chưa yên tâm với những điều mình đã dặn vừa rồi, ông nhắc lại:
- Thị ạ, cậu về nói với cậu Thân thế nào cũng gom hết anh em trinh sát còn lại, tổ chức xoi cho được con đường đưa thương binh ra Bến Đá. Đường xoi xong cho người chốt lại. Thiếu người thì rút tổ trinh sát đang bám địch ở căn cứ Tên lửa Hốc về. Nói với cậu ta không phải đưa trinh sát đi khiêng thương nữa.
Ông Ba Kiên vừa quay đi thì Thị gọi giật lại:
- Thủ trưởng!
- Cái gì vậy?
- Thủ trưởng chờ đây một chút, tôi về gọi liên lạc, đừng đi một mình.
- Thôi, không cần.
Ông Ba Kiên nói vậy và quay đi, mặc cho Thị đứng chần chừ nhìn lại. Cách đây năm năm, khi mới đặt chân về trung đoàn, Thị đã Được nghe bao nhiêu người kể về ông Ba Kiên... Thành tích nổi bật của ông trong cuộc kháng chiến chống Pháp thì hầu như cả trung đoàn này người nào cũng biết. Trong trận càn Thanh Hương, tên Xuân, tham mưu trương trung đoàn đầu hàng, trung đoàn trưởng hy sinh, trung đoàn Trăm - linh - một vừa chiến đấu vừa bảo vệ dân rút lên chiến khu trong vòng vây của mười bốn tiểu đoàn địch. Tiểu đoàn ông là tiểu đoàn chặn hậu và tổ ông là tổ chặn hậu cho cà tiểu đoàn. Trận đó, ông và tổ ba người đã đánh nhau với cả một tiểu đoàn địch suốt cả ngày cho đơn vị rút...
Tuy vậy, đó vẫn là những điều Thị được nghe kể lại, chứ anh chưa hề tiếp xúc và làm việc với ông. Mãi cho đến lần đi nghiên cứu vị trí Đắc Pét ở Tây Nguyên, Thị mới hiểu về ông một cách thực sự.
Lúc đó, ông Ba Kiên là trung đoàn phó, phụ trách tham mưu trưởng.
Đường đi từ trung đoàn đến căn cứ Đắc Pét phải mất mười ngày leo dốc. Đơn vị thiếu gạo, nhưng những người đi công tác như Thị vẫn được ưu tiên mỗi ngày một lon. Chuyến đi kéo dài cả tháng, vì vậy, mỗi người phải mang trên lưng, ít nhất cũng đến mười cân gạo, chưa kể ba lô, súng đạn.
Ông Ba Kiên cùng đi với một công vụ, nhưng mọi thứ ông đểu tự mang vác lấy đầy đủ như những anh em khác, chỉ thua một khẩu súng. Đồn Đắc Pét là đồn biệt kích, đóng trên một ngọn đồi cao, chung quanh có suối bao bọc. Muốn vào được đến lô cốt, anh em trinh sát phải bò qua chín lớp hàng rào. Lần nào cũng vậy, hễ trinh sát bò lên trước, là ông Ba Kiên bò theo sau. Có đêm, vào nửa chừng vướng mìn, chạm đây bật pháo sáng, súng từ trong lô cốt quét ra đỏ rực, anh em phải bò lùi trở ra. Nhưng ra lần này rồi, ông lại bắt bò vào lần khác. Cứ như thê, mãi cho đến lúc qua được hàng rào thứ chín, chính tay sờ được vào cái tường lô cốt, ông Ba Kiên mới đồng ý quay ra.
Dạo ấy, chiến trường Tây Nguyên thiếu muối. Đi nghiên cứu, môi người phải mang theo khẩu phần muối của mình trong một tháng và ăn rất dè dặt. Chỉ khi xới bát cơm lên, họ mới lấy vài hạt trộn vào. Họ phải bứt trái vả, trái sung độn vào với cơm để ăn cho đỡ nhạt. Vậy mà khi nghiên cứu chưa xong, thì hầu như mọi người đều hết muối.
Ông Ba Kiên biết tính Thị cẩn thận, bao giờ cũng để dành một ít dự trữ, liền sai cậu công vụ sang xin mấy hạt. Ngồi bên này suối, Thị nghe ông nói:
- Thọ ơi Thọ (Thọ là tên cậu công vụ), mi sang nói với thằng Thị cho tau xin ít hạt muối, tau nuốt cơm không vô.
- Thằng Thọ sang, Thị nói:
- Hết cả rồi, báo cáo anh ấy cho anh em về mấy ngày lấy muối sang ăn.
Thằng Thọ tưởng thật, trở về nói lại. Ông Ba Kiên cười:
- Thằng Thị hẳn nói chơi, nghiên cứu chưa xong, về chi được mà về?
Nói vậy, rồi ông lại ngồi và cơm nhạt ăn. Thị trông thấy thương quá, lấy mấy hạt muối đưa cho cậu trinh sát mang sang. Ông gói vào trong giấy rồi lấy ra vài hạt bỏ vào bát cơm đảo lên, vừa ăn vừa khen ngon... ít lâu sau thì trung đoàn đánh Đắc Pét, ông Ba Kiên đã dặn kỹ đại đội chủ công là phải nhớ mở cửa hàng rào về phía bên phải cái cây to, vì bên trái cái cây nhìn thẳng vào là lỗ châu mai. Thị trèo lên cây quan sát và sau khi ta phát hỏa một lúc thì thấy ĐK của ta đã bắn cháy đỏ rực khu trung tâm. Anh báo xuống cho ông Ba Kiên và ông cho lệnh đánh bộc phá.
Nhưng chờ mãi đến ba mươi phút, vẫn chưa thấy mở được hàng rào. Pháo địch bắn nhiêu quá, sở chi huy mât liên lạc không nắm được tình hình. Ong Ba Kiên nói:
- Thị, mi lên với tau!
Vừa nói xong, ông cầm lấy máy điện thoại chạy đi. Đến nơi Thị mới biết cửa mở bị mở chệch sang bên trái. Gần lô cốt đầu cầu, Thị gặp thằng Châu, trung đội trưởng bộc phá, đang ngồi khóc trước hàng rào. Hỏi tại sao khóc, nó nói:
- Trung đội tao chết hết rồi!
Lúc đó, đại bác địch tộp trung bắn dữ sội vào ssột phá khẩu, trên hàng rào cứ mỗi đoạn lại một người chết. Thị năm lấy tay Châu kéo vào lô cốt, định quay lại đón ông Ba Kiên, nhưng vào đến trong lô cốt thì đã thấy ông ngồi nắm ống nghe chỉ huy bộ đội đánh vào tung thâm... Lên đến gần sở chỉ huy thì ông bị thương. Thị chạy sau không biết. Đến lúc thấy ông nhảy xuống hầm, rút cuộn băng ra, thì anh mới vội vàng nhảy theo xuống. Ông tự băng lấy vết thương và nói:
- Tau bị thương ở chân, nhưng vẫn đi được. Lên đi!... Ông vẫn tiếp tục nhảy cò một chân, cầm ống nghe như vậy theo mãi vào trong khu trung tâm để chỉ huy bộ đội chiến đấu. ở phía sau, ban chỉ huy trung đoàn nghe tin ông bị thương, điện hai ba lần gọi ông ra. Lần thứ nhất, Thị nói với ông là có điện gọi, ông bảo:
- Mày xuống điều cho tau một khẩu ĐK lên đặt trước cửa hầm này! (Lúc đó ở một góc đồn, bọn địch cụm lại và chống cự quyết liệt). Sau khi khẩu ĐK được điều lên, Thị nhắc lại điện gọi của trung đoàn, ông nói:
- Để tau chỉ huy đánh cho xong khu biệt kích đã! Ông chỉ mục tiêu cho ĐK bắn trực tiếp vào nhà quận trưởng. không nói gì đến chuyện điện gọi nữa. Đến lúc điệt xong ụ đề kháng cuối cùng thì chân của ông cũng sưng vù lên, ông ngồi tại chỗ, bảo
Thị kiếm cho ông một điếu thuốc xong cho gọi đồng chí tiểu đoàn trưởng lên giao lai những công việc cần phải làm. Hút hết điếu thuốc, ông nói:
- Bây giờ tau đi đây, đứa nào đi với tau nào?
Thị nói: - Tôi đi với thủ trưởng được, nhưng cõng thủ trưởng thì nặng lắm. Theo chỉ thị của trung đoàn, tiểu đoàn đã tổ chức cáng để đưa thủ trưởng ra.
Ông cười: - Bay nói đùa, tau mà lại đi cáng à? Mi cũng đừng lo đi với tau rồi phải cõng, tau bị thương lần này là lần thứ một trăm rồi. Mi chạy đi kiếm cho tau một cái gậy!
Thị kiếm cho ông một cái cọc chuẩn, ông vừa chống gậy vừa tựa vào vai Thị mà đi ra. Gặp những anh em bị thương đang nằm rải rác trên hàng rào ngoài cửa mở, ông nói:
- Ta thắng rồi đó! Ráng lên, ai đi được thì cố mà đi về, để dành cáng cho thương binh nặng và dành người mà còn thu chiến lợi phẩm, súng đạn của tụi nó đầy cả trong đồn mà không đưa ra kịp rồi pháo nó dập cháy hết!
Đúng như lời ông Ba Kiên nói, chiều hôm đó, máy bay lên ném bom vào vị trí Đắc Pét. Lần đó, ta thu không biết cơ man nào là chiến lợi phẩm. Từ sau trận Đắc Pét trở đi, Thị thường được đi theo ông Ba Kiên. Ông Ba Kiên có thói quen hay đi công tác với các chiến sĩ trinh sát, ngược lại các chiến sĩ trinh sát cũng rất thích được đi công tác với ông.
- Từ chỗ quý trọng, yêu mến thủ trưởng của mình, Thị cũng như những anh em trinh sát khác, không ai bảo ai, nhưng người nào cũng có ý thức rất rõ trong việc bảo vệ thủ trưởng của mình. Vì vậy, việc Quá đã để cho ông Ba Kiên khiêng đầu trốc cáng là một điều mà Thị rất không bằng lòng mặc đầu anh biết đó là một việc làm vô tình.
Vì bận cáng thương trên vai, không quay lại đi theo - ông Ba Kiên được, anh đành nhìn theo trung đoàn trưởng khuất vào bóng tối và cằn nhằn một mình:
- Cái ông già ni, khi mô cũng rứa!...
Chờ cho chiếc cáng đi quá lên một đoạn, Lâu mới lên tiếng:
- Thị à, cậu có nghe tin tức gì về tiểu đoàn 9 không?
- Không. Chỉ nghe tin nó càn bên Bình Mỹ, ông Năm Truyện chết, ông tư lệnh phân khu ấy mà!
- Vì sao chết?
- Nó càn vào sở chỉ huy, trực thăng quăng lựu đạn trúng hầm.
Lại im lặng. Cái võng đung đưa theo nhịp bước. Họ đi ra khỏi khu vực pháo bắn. Sự căng thẳng của một đêm qua đi nhưng sự căng thẳng của những chuỗi ngày dai dẳng ác liệt lại ùa đến. Tin ông Năm Truyện, tư lệnh phân khu chết không ai phổ biến, nhưng lan đi rất nhanh. Anh em chiến sĩ trung đoàn 16 đã nhiều người gặp ông. Sở chỉ huy tiền phương của bộ tư lệnh phân khu đặt ở Bình Mỹ, cách khu vực hoạt động của trung đoàn 16 một con sông nhỏ. Có một lần Lâu đã đi qua đó. Gọi là sở chỉ huy nhưng thực ra ở đó cũng chỉ có mấy cái hầm cạnh bụi dừa nước bên bờ rạch. Hôm đó, Lâu đi qua thấy một cán bộ đeo kính trắng, mặc áo bà ba đen, quần cụt, chân không đi dép, đang ngồi với một cán bộ hơi già, tóc đã ngả màu tiêu muối. Trước mặt họ trải một tấm ni lông. Trên tấm ni lông cố bốn cái bắp ngô và hai ly cà phê. Lâu biết ngay đây là hai ông cán bộ cỡ “cốp”. Anh liền đứng lại:
- Thủ trưởng có thuốc cho em xin một điếu. Đồng chí cán bộ tóc hoa râm rút bao “Cáp tăng” đưa cho Lâu và hỏi:
- Cậu I trung đoàn nào?
- Báo cáo, ở 16!
- Mấy hôm nay có gì ăn không?
Lâu nhìn bắp ngô, cười: - Báo cáo thủ trưởng, cả ngày hôm nay chỉ có nắm cơm bằng quả trứng gà.
Cả hai người cán bộ nhìn nhau rồi cùng chỉ bốn cái bắp ngô đặt trên tấm ni lông trải trước mặt:
- Cậu bở vào bồng mang đi mà ăn. Ớ đây tụi mình cũng ăn vậy cả thôi. Ráng chịu mấy bữa nữa rồi mình móc gạo ăn no hơn.
Lâu cảm ơn thủ trưởng, cầm bốn cái bắp ngô, rồi rập hai gót chân đầy sình vào nhau, giơ tay phải lên ngang vành mũ định chào xong thì quay đi. Bỗng người cán bộ đeo kính nắm tay anh, lôi lại:
- Ngồi xuống đây một chút đã. Cậu ở đơn vị làm gì?
- Ở bộ binh, đại đội 2, tiểu đoàn 7.
- Vừa rồi đơn vị đánh ở đâu?
- Bột Ngọt.
- Cậu xem liệu sức có thể đánh vào đó một lần nữa được không?
- Cái đó thì cấp trên biết chứ tôi làm sao biết được thủ trưởng?
- Tớ không nói cấp trên, tớ chỉ muốn biết phần các cậu thôi. Ví dụ như đánh lần nữ,a, cậu có sợ không? Cậu có tin không? Chất lượng bộ đội hiện nay của đơn vị, theo cậu, có bảo đảm hoàn thành được nhiệm vụ như vậy không?
- Khó nói quá! Sợ thì nhất định có sợ, nhưng đánh thì phải đánh. Còn như đơn vị thì cả tiểu đoàn còn được hơn 40 tay súng, nhất định sức chiến đấu kém hơn trước. Chỉ có cách là cấp trên bổ sung quân số, cho ăn thật no, đưa đạn ĐKB xuống cho nhiều, bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất như đêm N1 thì nhất định rôm rả thôi.
Người cán bộ deo kính nhìn người cán bộ tóc hoa rất cười. Người cán bộ già hắng giọng:
- Nhưng tôi hỏi đồng chí thêm điều này: Nếu trên yêu cầu vì nhiệm vụ chiến lược cho toàn cục, với 40 tay súng ấy. đồng chí có dám đánh vào Bột Ngọt lần nữa không?
Lâu nhìn người cán bộ già, tự nhiên nổi máu tự ái, anh nghĩ: “Cái ông này chỉ biết chuyên môn lên lớp người ta, ông tưởng rằng chỉ có ông là thông suốt nhiệm vụ, chỉ có ông là biết “dám đánh”, còn tụi mình toàn là những thứ người phải đả thông, phải lãnh dạo. Đã thế thì được, mình sẽ có cách trả lời”. Nghĩ vậy, Lâu nghiêm nét một lại:
- Nêu có yêu cầu như thố thì xin cấp trên cứ ra lệnh, chúng tôi sẽ chấp hành cho đến người cuôì cùng. Còn như thủ trường mà hỏi tôi đánh vào Sài Gòn được không, thì theo tôi, ba bảy hai mươi mốt ngày, chúng ta nhất định sẽ bơi sông Rạch Tra trở về, chứ không có cách nào khác.
Người cán bộ đeo kính cười. Người cán bộ tóc hoa râm lại hỏi:
- Mình không hỏi ý kiến cậu là ta đánh vào Sài Gòn có được không, mà mình muốn hỏi là nếu vì một nhiệm vụ chiến lược, đầu ít người, chúng ta vẫn phải đánh thì cậu nghĩ thế nào?
Lâu bực mình vì câu hỏi vặn đi vặn lại ấy, anh đã toan nói một câu thật chốt chúa, nhưng ghìm lại được:
- Thì tôi đã chả trả lời thủ trựởng rồi đó sao, thủ trưởng còn bảo nghĩ thế nào nữa? Khi tôi xung phong tòng quân, tôi làm đơn tự nguyộn đi chiến trưởng rồi. Nếu cần thì thủ trưởng cứ ra lệnh.
Lâu tưởng là anh sẽ còn bị lên lớp một trận nữa, nhưng đồng chí cán bộ già không hỏi gì thêm mà lại đưa cả bao “Cáp tăng” còn lại cho Lâu. Anh không từ chối, nghĩ: “Các ông này chẳng thiếu gì thuốc!’’. Anh cầm bốn cối bắp ngô và bao thuốc đúng dậy, bỗng bắt gặp dôi mắt sắc và lạnh của một chiến sĩ gầy đen đang ngồi nấu nước bên cạnh hầm. “Cái thằng cha này chác là công vụ thủ trưởng đây, hắn thấy mình cầm bốn cái bắp chắc là tức lắm!”. Lâu bỗng nảy ra ý nghĩ muốn trêu tức cậu ta, liền đến bên cạnh ghé tai nói nhỏ:
- Này, bốn cái bắp thủ trưởng cho mình đấy. Cậu phục vụ thủ trưởng, vậy sáng nay có gì ăn chưa? Nếu chưa thì cầm lấy một cái! Người chiến sĩ quắc mắt:
- Thôi, cút đi, chỉ cà khịa! Cậu tưởng người ta chia cho các thủ trưởng nhiều bắp lắm à?
- Thì ít ra cũng nhiều hơn khẩu phần bọn tớ!
Lâu đi rồi, anh chiến sĩ vẫn hậm hực nhìn theo. Sau này Lâu mới biết người cán bộ đeo kính trắng là ông Năm Truyện, tư lệnh phân khu, và người cán bộ già là Tám Hàn, phó chính uỷ. Còn cậu thanh niên đen gầy, có đôi mát sáng đó là An, chiến sĩ bảo vệ của phó chính uỷ...
Người ta đồn ông Năm Truyện là một cán bộ rất xông xáo, trước đây ông là sư trưởng của sư đoàn 9, từng tham gia chỉ huy những trận đánh có tiếng vang như trận Bình Giã, Đồng Xoài. Nhiều cán bộ của trung đoàn 16 cũng ca ngợi tác phong xông xáo và sâu sát của ông vì trước đây họ đã từng có dịp phôi hợp tác chiến ‘sư đoàn này.