Cuộc Sống Bí Mật Của Các Nhà Văn

Học cách viết


8 tháng

trướctiếp

Nghiệp nhà văn khiến nghiệp nài ngựa hiện ra như một vị trí ổn định.

John STEINBECK

Một tuần sau

Thứ Ba ngày 18 tháng chín năm 2018

1.

Đầu cúi thấp, hai bàn tay quặp chặt ghi đông, tôi đạp dấn những cú pê đan cuối cùng để lên tới đỉnh ở đầu Đông hòn đảo. Tôi đổ mồ hôi hột. Chiếc xe đạp tôi thuê dường như nặng cả tấn và chiếc ba lô tôi đeo như cứa vào vai tôi.

Tôi không cần đợi lâu, đến lượt tôi phải lòng Beaumont. Đã tám ngày kể từ khi sống ở đây, tôi tranh thủ những lúc rảnh rỗi để khảo sát khắp đảo và tập quen địa hình.

Hiện tại, tôi gần như thuộc lòng bờ biển phía Bắc của Beaumont, ở đó có bến cảng, phố chính và những bãi biển đẹp nhất. Lổn nhổn toàn vách và mỏm đá, bờ biển phía Nam khó tiếp cận hơn, hoang dã hơn, nhưng đẹp không kém. Tôi mới chỉ mạo hiểm lai vãng tới đó một lần duy nhất, trên bán đảo Sainte-Sophie, để nhìn thấy tu viện cùng tên, nơi vẫn còn sinh sống chừng hai chục tu sĩ dòng thánh Benedict.

Ở phía ngược lại, mũi Safranier nơi lúc này tôi đang tới không nằm trên Strada Principale(5) con đường dài chừng bốn chục cây số chạy vòng quanh đảo. Để đến được đấy, phải vượt qua bãi biển cuối cùng ở phía Bắc - bãi Vịnh Bạc - rồi đi tiếp hai cây số nữa trên con đường đất hẹp nằm giữa rừng thông.

Theo những lời chỉ dẫn mà tôi lượm lặt được trong tuần, lối vào khu đất của Nathan Fawles nằm ở cuối con đường vốn rất hợp với cái tên ngộ nghĩnh là đường mòn của những nhà thực vật học này. Khi rốt cuộc cũng tới nơi, tôi chỉ thấy một cánh cổng nhôm lồng khít trong bức tường bao cao ngất bằng phiến thạch. Không có hộp thư cũng chẳng có bất kỳ ghi chú nào về tên chủ sở hữu. Về lý thuyết, ngôi nhà mang tên Nam Thập Tự, nhưng cái tên này chẳng được thể hiện ở bất cứ đâu. Duy chỉ có vài tấm biển nồng nhiệt chào đón bạn: Nhà riêng, Cấm vào, Chó dữ, Khu vực có camera giám sát… Thậm chí còn chẳng có cách nào để bấm chuông hay thông báo về sự hiện diện của mình. Thông điệp hết sức rõ ràng: “Bất kể bạn là ai, bạn cũng không được chào đón.”

Tôi bỏ xe đạp lại rồi men theo chân tường bao. Đến một lúc, khu rừng nhường chỗ cho một khoảng cây bụi um tùm những thạch thảo, sim và oải hương dại. Sau năm trăm mét, tôi ra tới một vách đá dốc thẳng xuống biển.

Bất chấp nguy cơ ngã tan xương, tôi trượt trên những mỏm đá cho tới khi tìm thấy một điểm tựa. Tôi khó nhọc đi dọc một vách đá mà rốt cuộc tôi cũng có thể vắt chân bước qua ở chỗ vách bớt dốc hơn. Vượt qua chướng ngại ấy, tôi tiếp tục đi theo bờ biển chừng năm chục mét nữa, rồi sau khi vòng qua một khối đá, rốt cuộc tôi cũng trông thấy nó: nhà của Nathan Fawles.

Được xây trên sườn vách đá, căn biệt thự như được tạc trong đá. Theo truyền thống vĩ đại của kiến trúc hiện đại, đó là một hình hộp được kẻ sọc bằng những tấm lát bê tông cốt thép để thô kiểu tháo ván khuôn. Ba tầng nhà sừng sững, các sân hiên được xây bên sườn nhà và đảm bảo lưu thông bằng một cầu thang đá dẫn thẳng ra biển. Khối móng nhà dường như liền với vách đá. Nhà được bố trí một loạt cửa sổ kính liền, giống như trên một chiếc tàu chở khách. Cánh cửa chính vừa cao vừa rộng giúp người ta đoán ra nó được dùng làm kho chứa tàu. Phía trước nhà là một ụ nổi bằng gỗ, cuối ụ có buộc một chiếc thuyền máy vỏ gỗ bóng loáng.

Trong khi tiếp tục thận trọng tiến lên trên các mỏm đá, tôi ngỡ trông thấy một bóng người đang di chuyển trên sân hiên. Có thể nào đó chính là Fawles không nhỉ? Tôi khum tay che phía trên mắt để cố nhìn cho rõ bóng người. Đó là bóng một người đàn ông đang… tì một khẩu súng trên vai.

2.

Tôi vừa kịp lao vào nấp đằng sau một mỏm đá thì một phát súng vang rền không trung. Phía sau tôi, cách chừng bốn năm mét, tác động của viên đạn làm bắn ra nhưng manh vỡ sắc nhọn nổ lốp đốp bên tai tôi. Tôi ở đó, lả đi chừng hơn một phút. Tim đập thình thịch. Toàn bộ cơ thể tôi run rẩy và một tia mồ hôi chảy dọc sống lưng. Audibert không nói dối. Fawles đã hoàn toàn phát điên và thẳng tay nã đạn vào những vị khách không mời dám lai vãng tới lãnh địa của ông. Tôi vẫn nằm ẹp xuống đất; không dám thở nữa. Sau hành động cảnh báo đầu tiên này, tiếng gọi của lý trí thét bảo tôi nên vắt chân lên cổ mà cháo chạy ngay lập tức. Tuy nhiên, tôi quyết định không chùn bước. Trái lại, tôi nhỏm dậy và lại tiếp tục tiến về phía ngôi nhà. Lúc này Fawles đã xuống tầng dưới, trên phiến đá lát được đắp vun nhô cao hơn hẳn các mỏm đá. Phát đạn thứ hai trúng một thân cây đã bị gió quật đổ. Súc gỗ nổ tung thành những chùm gỗ chết sượt qua mặt tôi. Tôi chưa bao giờ sợ đến thế. Tôi ngoan cố, gần như bất chấp bản thân, vẫn cứ nhảy từ mỏm đá này sang mỏm đá khác. Nathan Fawles, tác giả những cuốn tiểu thuyết mà tôi xiết bao mến mộ, không thể là một kẻ sát nhân tiềm tàng được. Để thức tỉnh tôi hiệu quả hơn, phát đạn thứ ba làm bụi bay tung lên chỉ cách đôi giày Converse tôi đi năm mươi phân.

Chẳng bao lâu, tôi chỉ còn cách Fawles vài mét.

- Biến đi! Ngươi đang xâm phạm lãnh địa riêng đấy! ông lớn tiếng từ trên phiến đá.

- Đó không phải là lý do để nã súng vào tôi như vậy!

- Với ta thì đó chính là lý do!

Mặt trời rọi thẳng vào mắt tôi. Bóng Fawles nổi bật trong ánh ngược sáng, không thể nhìn thấy rõ mặt ông. Tầm vóc trung bình nhưng hình thể rắn chắc, ông đội mũ cói rộng vành và đeo kính râm ánh phản chiếu phớt xanh. Nhất là, ông vẫn chĩa súng về phía tôi, sẵn sàng nhả đạn.

- Ngươi đến đây làm quái gì thế?

- Tôi đến gặp ông, ông Fawles ạ.

Tôi cởi ba lô đang đeo ra để lấy ra tập bản thảo Sự rụt rè của những đỉnh cao.

- Tôi tên là Raphaël Bataille, Tôi đã viết một cuốn tiểu thuyết. Tôi mong ông đọc nó rồi góp ý giúp tôi.

- Ta cóc quan tâm đến cuốn tiểu thuyết của ngươi. Và chẳng điều gì cho phép ngươi tìm tới nhà ta quấy rầy cả.

- Tôi quá sức tôn trọng ông, đâu thể quấy rầy ông được.

- Thế nhưng đó lại là điều ngươi đang làm đấy. Nếu thực sự tôn trọng ta thì hãy tôn trọng cả quyền không bị làm phiền của ta đi.

Một con chó tuyệt đẹp - giống golden retriever lông vàng óng - chạy tới chỗ Fawles đang đứng trên sân hiên rồi sủa về phía tôi.

- Tại sao ngươi vẫn tiếp tục tiến bước trong khi ta đang nhắm bắn ngươi nhỉ?

- Tôi biết là ông sẽ không giết tôi đâu.

- Tại sao?

- Vì ông đã viết Loreleï StrangeNhững kẻ bị sét đánh. Vẫn lóa mắt vì sấp bóng, tôi nghe thấy ông cười gằn.

- Nếu ngươi tin rằng các nhà văn sở hữu những phẩm chất đạo đức mà họ gán cho các nhân vật của mình thì ngươi thực sự ngây thơ. Thậm chí còn hơi ngu ngốc.

- Ông nghe này, tôi chỉ muốn nghe lời khuyên của ông thôi. Để cải thiện trình độ viết lách của mình.

- Những lời khuyên ư? Nhưng chẳng bao giờ có lời khuyên nào khiến một nhà văn tốt hơn cả! Nếu có được ba xu óc phán đoán thì có lẽ ngươi đã ngộ ra điều ấy.

- Quan tâm đến người khác đôi chút cũng không gây hại cho ai mà.

- Chẳng ai có thể dạy ngươi viết cả. Đó là thứ mà ngươi phải tự mình học lấy.

Vẻ trầm ngâm, Fawles bớt đề phòng trong giây lát, xoa đầu con chó trước khi nói tiếp:

- Được rồi, nếu muốn một lời khuyên thì ngươi có nó rồi đấy. Giờ thì xéo đi.

- Tôi có thể để bản thảo của tôi lại cho ông được không? tôi hỏi đoạn lấy từ trong ba lô ra tập giấy rời đã được đóng thành quyển.

- Không, ta sẽ không đọc đâu. Không có chút cơ may nào đâu.

- Chết tiệt thật, ông chẳng rộng lượng chút nào!

- Vẫn với cái giá đó, tuy nhiên ta sẽ cho ngươi một lời khuyên khác: hãy làm gì khác với cuộc đời mình chứ đừng mong trở thành nhà văn.

- Bố mẹ tôi lúc nào chẳng nói với tôi như thế.

- Chà chà, điều đó chứng tỏ họ đỡ ngốc hơn ngươi.

3.

Một cơn gió bỗng kéo thốc một con sóng tới tận mỏm đá nơi tôi đang đứng. Để tránh nó, tôi leo lên một cụm đá khác, điều này khiến tôi càng lại gần nhà văn hơn. Ông lại giương khẩu súng nạp đạn kiểu bơm đang kẹp dưới vai lên. Một khẩu Remington Wingmaster càng kép nòng có rãnh, như đôi khi ta vẫn thấy trong các phim cổ, dù khẩu súng đã được định dạng là súng săn.

- Mà ngươi tên gì ấy nhỉ? ông hỏi khi con sóng đá ào qua.

- Raphaël, Raphaël Bataille.

- Và ngươi bao nhiêu tuổi?

- Hai mươi tư ạ.

- Ngươi muốn viết văn từ khi nào thế?

- Vốn dĩ xưa nay rồi ạ. Tôi chỉ quan tâm đến việc đó thôi.

Tranh thủ lúc ông chú ý, tôi bắt đầu một màn độc thoại hòng giải thích từ ngày bé, việc đọc sách và viết văn đã là những chiếc phao cứu sinh giúp tôi chịu đựng sự tầm thường và phi lý của thế giới như thế nào. Nhờ sách vở, tôi đã tự xây cho mình một thành trì bên trong ra sao, cái thành trì mà…

- Ngươi còn lải nhải những điều sáo rỗng đó lâu không? ông ngắt lời tôi.

- Đó không phải là những điều sáo rỗng, tôi tự ái phản đối rồi cất lại tập bản thảo vào ba lô.

- Giá như hôm nay bằng tuổi ngươi, ta sẽ có những tham vọng khác chứ không muốn trở thành nhà văn.

- Tại sao vậy?

- Bởi lẽ cuộc sống của một nhà văn là thứ kém mê hoặc nhất trấn đời, Fawles thở dài. Ngươi sống một đời như xác sống, cô độc và tách biệt với những người khác. Cả ngày ngươi mặc nguyên bộ pyjama và hủy hoại đôi mắt mình trước một màn hình, chén pizza nguội ngắt trong lúc trò chuyện với những nhân vật tưởng tượng rốt cuộc sẽ khiến ngươi phát điên. Ngươi mất nhiều đêm đổ mồ hôi sôi nước mắt để viết ra một câu mà ba phần tư lượng độc giả ít ỏi của ngươi thậm chí còn không để ý. Làm nhà văn là thế đấy.

- Suy cho cùng, đâu phải chỉ có thế…

Fawles tiếp tục nói như thế không nghe thấy gì:

- Và điều tệ hại nhất, đó là rốt cuộc ngươi trở nên nghiện cuộc sống thối tha đó bởi lẽ ngươi ảo tưởng rằng với cây bút và bàn phím của mình, ngươi đang trở thành một đấng tạo hóa, có thể vá víu thực tại.

- Với ông, nói ra điều này thì dễ thôi. Ông có mọi thứ rồi mà.

- Ta có cái gì chứ?

- Hàng triệu độc giả, danh tiếng, tiền bạc, những giải thưởng văn chương, những cô gái sẵn sàng lên giường cùng ông.

- Nói thẳng nhé, nếu ngươi viết vì tiền hay vì gái thì hãy chọn một hoạt động khác đi.

- Ông hiểu tôi muốn nói gì mà.

- Không. Và thậm chí ta còn không biết tại sao ta lại đôi co với ngươi.

- Tôi để lại cho ông bản thảo của tôi.

Fawles phản đối, nhưng không để mất thời gian, tôi quăng ba lô về phía sân hiên nơi ông đang đứng.

Bị bất ngờ, nhà văn cố né người để tránh va chạm. Bàn chân phải bị trượt lôi ông ngã xuống một tảng đá.

Ông cố nén một tiếng kêu, tìm cách đứng dậy ngay và buột miệng rủa:

- Thổ tả thật. Mắt cá chân của ta!

- Tôi ngại quá. Tôi sẽ giúp ông.

- Chớ lại gần! Nếu muốn giúp ta, ngươi hãy biến đi càng xa càng tốt và đừng bao giờ quay trở lại!

Ông nhặt lại vũ khí rồi ngắm bắn tôi. Lần này, tôi không còn nghi ngờ khả năng Fawles xử bắn tôi tại trận nữa. Tôi quay ngoắt rồi chạy trốn, trượt trên những mỏm đá, dùng hết tay này đến tay kia bám víu, không mấy quan tâm đến việc giữ gìn thể diện nữa, hòng thoát khỏi trận lôi đình của nhà văn.

Vừa rời đi, tôi vừa thắc mắc làm thế nào mà ngày hôm nay Nathan Fawles lại có thể trình bày bài diễn văn bất đắc chí đó. Tôi từng đọc nhiều bài phỏng vấn ông thời điểm trước năm 1999. Trước khi rút khỏi văn đàn, Fawles luôn sẵn sàng xuất hiện trên các phương tiện truyền thông. Ông vẫn luôn dùng những lời lẽ ân cần, thể hiện tình yêu với việc đọc và viết. Điều gì có thể khiến cho ông thay đổi như vậy?

Tại sao một người đàn ông đang ở tột đỉnh vinh quang lại đột ngột buông bỏ tất cả những gì mình thích làm, tất cả những gì xây dựng nên và nuôi dưỡng bản thân ông ta, để tự giam mình trong nỗi cô đơn? Trong cuộc sống của Fawles, điều gì đã đảo lộn đến mức ông từ bỏ tất cả những thứ đó? Một cơn trầm cảm nặng? Một cái tang? Một căn bệnh? Trước giờ chưa ai trả lời được những câu hỏi này. Điều gì đó mách bảo tôi rằng, nếu có thể khám phá bí ẩn Nathan Fawles, tôi cũng sẽ thực hiện được ước mơ xuất bản một cuốn sách.

Quay trở lại khu rừng, tôi cưỡi lên xe đạp để tìm lại đường về thành phố. Ngày của tôi xem ra đã trôi qua hiệu quả. Có lẽ Fawles không đưa ra bài học về viết văn như tôi hằng mong đợi, nhưng ông còn làm tốt hơn thế: ông đã mang đến cho tôi một đề tài tiểu thuyết tuyệt vời và năng lượng mà tôi cần để bắt đầu viết nó.


Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play

trướctiếp