Theo đó, một việc rất nhỏ
cũng có thể đem lại niềm hạnh phúc lớn lao. Hãy lấy ví dụ về một việc đã xảy ra
trong chuyến đi từ Auschwitz đến trại tập trung Dachau. Chúng tôi đều lo sợ
chuyến xe sẽ đưa chúng tôi đến trại Mauthausen. Căng thẳng dâng cao khi chúng
tôi tiến gần đến cây cầu bắc qua sông Danube - nơi xe lửa phải băng qua để đến
Mauthausen (chúng tôi biết được điều này là do một tù nhân có kinh nghiệm kể
lại). Những ai chưa bao giờ trải qua điều gì đó tương tự thì khó mà hình dung
được điệu nhảy vui sướng của những tù nhân trong xe khi thấy chúng tôi không
băng qua cây cầu mà “chỉ” đi đến Dachau.
Điều gì xảy ra trên đường chúng tôi đến trại Dachau trong suốt
chuyến đi kéo dài hai ngày, ba đêm? Sàn xe lửa không đủ chỗ cho mọi người cùng
ngồi, cho dù là kiểu ngồi co người lại cho ít tốn diện tích nhất. Đa số chúng
tôi phải đứng suốt đường đi, trong lúc một số người thay phiên nhau ngồi xổm
lên những bó rơm ít ỏi thấm đẫm nước tiểu. Khi vừa đến nơi, tin quan trọng đầu
tiên mà chúng tôi biết được từ các tù nhân cũ: Dachau là một trại tương đối nhỏ
(sức chứa khoảng 2.500 người), không có “cái lò” nào cả, không lò thiêu, không
phòng hơi ngạt! Điều đó có nghĩa là nếu một người chẳng may trở thành một
“Moslem” thì người đó cũng sẽ không bị đưa thẳng đến phòng hơi ngạt mà phải chờ
đến chuyến “vận chuyển bệnh nhân” về lại Auschwitz. Sự ngạc nhiên sung sướng
này đã khiến tâm trạng chúng tôi phấn chấn lên. Lời ước của viên tự quản của
chúng tôi ở Auschwitz đã thành hiện thực: chúng tôi đã nhanh chóng được chuyển
đến một khu trại không “ống khói” - không giống Auschwitz. Chúng tôi cười và
đùa nghịch, bất chấp những gì mình sẽ phải trải qua trong những giờ tới.
Khi điểm danh, một trong số chúng tôi không có mặt. Thế là chúng
tôi buộc phải đợi bên ngoài dưới mưa, trong cơn gió lạnh cho đến khi người ta
tìm thấy người vắng mặt đó. Cuối cùng người ta tìm thấy anh ấy trong khu nhà mà
anh đã ngủ quên do kiệt sức. Việc điểm danh chuyển thành việc trừng phạt tập
thể. Suốt cả đêm cho đến sáng, chúng tôi buộc phải đứng ngoài sân, lạnh cóng và
ướt sũng sau chuyến hành trình căng thẳng. Tuy nhiên, tất cả chúng tôi đều thấy
vui! Vui vì không có bóng dáng của ống khói lò thiêu và vì Auschwitz đã ở phía
sau.
Một lần khác, chúng tôi nhìn thấy một nhóm tù bị kết án đi ngang
qua chỗ làm việc của chúng tôi. Tính tương đối về sự bất hạnh hiện lên mới rõ
rệt làm sao! Chúng tôi ghen tị với những người tù phạm tội thật sự ấy. Họ chắc
chắn có cuộc sống điều độ, an toàn và hạnh phúc. Họ chắc chắn có được cơ hôi
tắm rửa thường xuyên - chúng tôi buồn bã nghĩ. Họ chắc chắn có bàn chải răng,
bàn chải giặt, nệm ngủ - mỗi người một cái - và hàng tháng nhận được thư từ tin
tức về người thân, hoặc ít nhất cũng biết được họ có còn sống hay không. Còn
chúng tôi đã mất cái quyền ấy từ rất lâu rồi. Và chúng tôi cũng cảm thất ghen
tỵ khi một số người trong chúng tôi có cơ hội vào nhà máy và làm việc trong một
căn phòng có mái che! Ai cũng ao ước có được sự may mắn nhỏ nhoi đó. Nhưng
những điều được gọi là “may mắn” này cũng có nhiều mức độ khác nhau. Trong số
các đội làm việc ngoài trại (tôi là thành viên của một trong các đội đó) có một
vài đơn vị được xem là tệ hơn những đơn vị khác. Một số tù nhân phải chịu cảnh
lội ở khu đất sình lầy trên sườn dốc để dỡ than từ xe đẩy xuống trong suốt 12
giờ liền. Hầu như mỗi ngày đều có tai nạn xảy ra với công việc cực khổ này, và
thường là dẫn đến tử vong.
Ở môt số nhóm làm việc khác, tên quản đốc giám sát theo cách
truyền thống, tức là bằng roi vọt. Điều này khiến chúng tôi cảm thấy khá may
mắn khi không thuộc quyền quản lý của bọn chúng hoặc nếu có cũng chỉ tạm thời.
Một lần nọ, thật không may tôi lại rơi vào một nhóm như thế. Trước khi chuông
báo động có không kích vang lên, chúng tôi làm việc liên tục suốt hai giờ không
nghỉ (trong thời gian này, tên quản đốc đặc biệt để mắt tới tôi). Nếu như hôm
đó không có tiếng chuông giải thoát kia, tôi nghĩ rằng mình sẽ phải về trạm
trên một trong những chiếc xe chở những người đã chết hoặc gần như chết do kiệt
sức. Không ai có thể tưởng tượng được rằng trong tình huống đó tiếng chuông báo
động đã khiến tù nhân chúng tôi cảm thấy nhẹ nhõm như thế nào, ngay cả cảm giác
của võ sĩ quyền anh khi nghe tiếng chuông kết thúc hiệp đấu đúng lúc cứu anh ta
khỏi nguy cơ đo ván cũng không thể so sánh được.
Chúng tôi biết ơn cả những ân huệ nhỏ nhặt nhất - nếu có thể gọi
đó là “ân huệ”. Chẳng hạn như chúng tôi vui mừng khi có thời gian bắt chấy cho
nhau trước khi đi ngủ, mặc dù việc này cũng chẳng có gì thú vị do phải đứng
trần truồng trong khu nhà không có lò sưởi với tuyết đóng cục trên trần nhà.
Nhưng chúng tôi biết ơn nếu như tiếng còi không vang lên trong lúc bắt chấy và
đèn không bị tắt. Bởi nếu làm việc đó không xong, chúng tôi sẽ bị lũ chấy rận
đánh thức vào lúc nửa đêm.
Những niềm vui ít ỏi về cuộc sống trong trại đã sản sinh một
loại hạnh phúc tiêu cực - theo cách nói của triết gia Schopenhauer[9] là một
hình thức “thoát khổ” - cho dù sự cứu rỗi đó chỉ mang tính tương đối, tạm thời.
Niềm vui thật sự, dù nhỏ nhoi, cũng rất ít. Tôi nhớ có lần tôi đã vẽ một bảng
cân bằng hạnh phúc và thấy rằng trong nhiều tuần qua, tôi chỉ có được hai lần
vui vẻ. Một lần là lúc trở về trại từ nơi làm việc, sau khi chờ đợi rất lâu,
tôi được vào nhà bếp và được xếp vào hàng do một tù nhân - đầu bếp F. phân phát
thức ăn. Ông ấy đứng sau một cái chảo lớn và múc xúp vào bát của những tù nhân
đang vội vã cầm bát đi qua. Ông ấy là đầu bếp duy nhất không nhìn vào những
người đang cầm tô đợi ông múc xúp; là đầu bếp duy nhất múc phần xúp bằng nhau,
bất kể người nhận là ai; và là người không ưu ái cho cả những người bạn hoặc
đồng hương của mình, thêm cho họ khoai tây trong khi những người khác chỉ được
múc một ít xúp toàn nước.
Nhưng thật không phải nếu tôi phán xét những người tù vốn coi
trọng tình đồng hương. Ai có thể trách những người này khi họ ưu ái bạn bè của
mình hơn trong hoàn cảnh như thế này, bởi không sớm thì muộn, ai ai ở đây cũng
phải đối mặt với vấn đề sự sống hay cái chết. Không người nào được quyền phán
xét họ trừ khi người đó thực lòng hỏi chính mình rằng liệu trong tình huống
tương tự mình sẽ không làm như thế chăng.
Sau một thời gian dài quay trở lại cuộc sống bình thường (một
thời gian dài sau khi ra trại), một người đã cho tôi xem những bức ảnh của các
tù nhân trong trại tập trung đang nằm chen chúc trên giường, ánh nhìn vô cảm
hướng về những người khách viếng thăm. “Thật là khủng khiếp, những khuôn mặt
gầy rộc với những đôi mắt toát lên cái nhìn đe doạ - điều ấy đã nói lên tất
cả”.
“Tại sao anh lại nghĩ như vậy?”, tôi hỏi, thật sự không hiểu lý
do đằng sau lời phán xét kia. Lúc ấy, tôi nhớ lại tất cả mọi việc: 5 giờ sáng,
bên ngoài trời vẫn còn tối. Tôi đang nằm trên tấm ván cứng trong khu bệnh xá,
nơi có khoảng 70 người đang “được chăm sóc”. Chúng tôi bệnh và không phải rời
trại để đi làm; không phải đi xếp hàng. Chúng tôi có thể nằm cả ngày ở một góc
nhỏ trong bệnh xá, ngủ chập chờn và chờ đến lúc được phát bánh mì (dĩ nhiên,
phần bánh mí sẽ bị cắt giảm) và phần xúp trong ngày (toàn nước và cũng bị giảm
số lượng). Nhưng chúng tôi hài lòng; chúng tôi hạnh phúc cam chịu tất cả. Trong
lúc nằm cuộn mình vào nhau để giữ ấm, và cũng vì quá lười, không buồn cử động
nếu không cần thiết, chúng tôi nghe thấy tiếng còi chát chúa và những tiếng la
hét ở ngoài sân, nơi những người làm ca đêm vừa trở về và đang được điểm danh.
Cánh cửa mở toang, gió tuyết lạnh lùa vào trong bệnh xá. Một người tù kiệt sức,
toàn thân phủ đầy tuyết, chạy vào phòng và ngồi xuống một vài phút. Nhưng tên
trạm trưởng lôi anh ấy ra ngoài. Quy định nghiêm ngặt không cho người lạ vào
khu nhà trong khi đang tiến hành điểm danh. Tôi thấy thương cảm cho người ấy
biết bao và vui mừng vì mình không phải là người ấy, thay vào đó tôi lại ốm và
có thể ngủ chập chờn trên những chiếc giường bệnh! Căn bệnh quả thật là một vị
cứu tinh cho tôi trong hai ngày ở đó, và tôi có thể được nghỉ thêm hai ngày
nữa.
Khi nhìn thấy những tấm ảnh trên tạp chí, ký ức về những ngày
nằm bệnh trong trại lại hiện về trong tâm trí tôi. Sau khi nghe tôi giải thích,
mọi người đã hiểu tại sao tôi không thấy tấm ảnh là đáng sợ: những người trong
các bức ảnh đó có lẽ cũng không quá bất hạnh.
Ngày thứ tư trong khu bệnh xá, tôi vừa bị điều động đi làm ca
đêm thì vị bác sĩ trưởng bước vào và muốn tôi tình nguyện phục vụ y tế ở một
trại khác đang có nhiều bệnh nhân bị sốt. Mặc kệ lời khuyên của các bạn mình
(và bất chấp sự việc rằng hầu như không có đồng nghiệp nào của tôi tình
nguyện), tôi vẫn quyết định xung phong. Tôi biết rằng khi nhận công việc đó, có
thể tôi sẽ chết sớm. Nhưng nếu tôi phải chết ở đó thì ít nhất cái chết của tôi
cũng có ý nghĩa. Tôi nghĩ chắc chắn việc có thể giúp đỡ những người tù khác với
tư cách bác sĩ sẽ có ý nghĩa hơn là sống một cuộc đời tẻ nhạt và cuối cùng phí
hoài nó trong vai một tên lao động khổ sai vô nghĩa.
Đối với tôi, đây là một phép toán đơn giản, tôi không phải hy
sinh gì cả. Nhưng viên sĩ quan từ đội vệ sinh đã bí mật ra lệnh phải “chăm sóc
kỹ” hai bác sĩ tình nguyện trong suốt thời gian chúng tôi ở đó. Trông chúng tôi
yếu ớt đến nỗi anh ta sợ rằng mình sẽ có thêm hai cái xác hơn là hai bác sĩ.
Như tôi đã đề cập trước đó, ở trong trại tập trung, việc giữ
mạng sống của mình và người bạn tù tri kỷ là mối quan tâm thường trực, còn lại
thì tất cả những việc không có liên quan tới nhiệm vụ ấy đều bị xếp vào hàng
thứ yếu. Mọi sự hy sinh cũng chỉ vì mục đích này. Tính cách của một người có
liên quan tới việc người ấy bị vây hãm trong trạng thái bấn loạn, bị đe doạ
những giá trị bản thân đến mức khiến cho người ấy trở nên hoài nghi chính những
giá trị ấy. Dưới tác động của một thế giới đã không còn công nhận giá trị của
cuộc sống và phẩm giá con người, một thế giới đã cướp đi ý chí của con người và
biến họ thành đối tượng để tiêu huỷ (kế hoạch đã lập ra, nhưng cần phải sử dụng
triệt để đến tận xương tuỷ con người ấy) - bản ngã của con người cũng mất đi
chân giá trị. Nếu một người trong trại không đấu tranh chống lại điều này để
giữ lấy phẩm giá của mình thì người ấy sẽ mất luôn cảm giác mình là con người -
một con người có đầu óc, có sự tự do bên trong và có giá trị riêng. Người đó sẽ
nghĩ mình chỉ là một phần của đám đông; sự tồn tại của người đó rơi xuống cấp
độ sống của loài thú. Một đám đông bị chăn dắt - đôi khi từ nơi này đến nơi
khác; đôi khi đi cùng nhau, rồi tách ra - giống như một bầy cừu không có suy
nghĩ hoặc ý chí. Một đàn chó săn nhỏ nhưng nguy hiểm luôn rình rập họ khắp nơi,
thành thạo trong những màn tra tấn và những trò hung bạo. Chúng không ngừng
chăn dắt cả đàn, bao vây phía trước, phía sau, với những tiếng hét, cú đá và
những cú quất roi. Và chúng tôi, đàn cừu, chỉ nghĩ được hai việc - làm sao để
tránh lũ chó xấu xa và làm sao để có được chút thức ăn.
Giống như một con cừu nhút nhát giữa đàn, mỗi người chúng tôi cố
gắng chen vào giữa đội hình. Điều này giúp chúng tôi có cơ hội tránh được những
cú đánh của những tên lính gác ở hai bên, phía trước và phía sau hàng. Vị trí
trung tâm còn có thuận lợi là được che chắn khỏi những cơn gió lạnh. Vì vậy, để
cố gắng giữ ấm, một người sẽ cố gắng len lỏi vào đám đông. Điều này được thực
hiện tự động trong các đội hình. Nhưng có nhiều lúc, đây là một nỗ lực có nhận
thức ở phía chúng tôi - tuân theo một trong các quy luật bắt buộc nhất để sinh
tồn trong trại: Không được gây sự chú ý. Lúc nào chúng tôi cũng cố gắng tránh
sự chú ý của bọn SS.
Dĩ nhiên có những lúc cần tách mình khỏi đám đông. Rõ ràng một
cuộc sống cộng đồng mà bất cứ điều gì mình làm cũng đều bị để ý, là nguyên nhân
thôi thúc con người thoát khỏi đời sống ấy, dù chỉ là trong chốc lát. Người tù
muốn ở một mình, với chính mình và với những suy nghĩ của mình. Anh ta khao
khát có được sự riêng tư và yên tĩnh một mình. Sau chuyến đi đến nơi được gọi
là “trại an dưỡng”, tôi có cơ hội hiếm hoi được yên tĩnh trong khoảng 5 phút.
Phía sau khu bệnh xá mà tôi làm việc - nơi có khoảng 50 bệnh nhân mê sảng chen
chúc, có một chỗ vắng vẻ ở một góc hàng rào dây thép gai kép bao quanh trại. Đó
là nơi một cái lều được dựng tạm bằng vài cái sào và một số cành cây để đặt nửa
tá xác chết (con số tử vong bình quân mỗi ngày trong trại). Nơi đó có một cái
hầm dẫn nước thông tới các ống nước. Tôi thường ngồi trên cái nắp gỗ của căn
hầm này mỗi khi không phải làm việc. Tôi chỉ ngồi và nhìn về phía những triền
dốc có hoa xanh mướt và những ngọn đồi xanh mờ xa xa của vùng Bavaria được đóng
khung trong những vòng dây thép gai chằng chịt. Tôi đã mơ màng một cách thiết
tha, đầu óc lang thang lên vùng phía Bắc và Tây Bắc theo hướng nhà mình, nhưng
tất cả những gì tôi thấy được chỉ là những đám mây lơ lửng trên bầu trời.
Những cái xác lúc nhúc giòi bọ bên cạnh cũng không ảnh hưởng đến
tôi. Chỉ có bước chân của những tên lính gác đi ngang mới có thể kéo tôi ra
khỏi những giấc mơ của mình; hoặc là tiếng gọi từ khu bệnh xá, hoặc là để nhận
những đồ dùng y tế mới được chuyển đến bệnh xá - gồm khoảng 5 hoặc 10 viên
thuốc aspirin cho 50 bệnh nhân trong nhiều ngày. Tôi nhận thuốc rồi chia đều
ra, cảm nhận mạch đập của bệnh nhân và cấp nửa viên thuốc cho những trường hợp
bệnh nặng. Những ca bệnh đã đến mức vô phương cứu chữa sẽ không được nhận
thuốc. Việc này sẽ chẳng giúp ích gì cho họ, hơn nữa nên dành thuốc cho những
người vẫn còn chút ít hy vọng sống. Với những trường hợp nhẹ, tôi chẳng có gì
ngoài những lời động viên. Tôi lê bước đến chỗ nằm của từng bệnh nhân, cố gắng
an ủi họ mặc dù tôi cũng yếu và mất sức từ lúc bị sốt. Rồi tôi quay lại nơi
riêng tư của mình trên cái nắp gỗ che hầm nước.
Cái hầm này có lần đã vô tình cứu mạng của ba người tù. Trước
ngày giải phóng không lâu, có nhiều cuộc vận chuyển tù nhân hàng loạt đến
Dachau; và ba tù nhân này đã khôn ngoan cố tìm cách để không bị chuyển đi. Họ
leo xuống cái hầm và núp ở đó, trốn bọn lính. Tôi bình tĩnh ngồi trên nắp, ra
vẻ không biết gì và chơi một trò chơi trẻ con là ném đá qua những hàng rào dây
kẽm gai. Nhìn thấy tôi, lính canh ngập ngừng một chút nhưng rồi bỏ qua. Một lúc
sau tôi nói với ba người bên dưới rằng điều nguy hiểm tồi tệ nhất đã qua.
Người ở bên ngoài trại thật khó có thể hiểu được rằng cuộc sống
của người trong trại hầu như chẳng có giá trị gì. Các tù nhân trong trại tuy
chai sạn, nhưng cũng nhận thức rõ rằng khả năng sống sót của những người có mặt
trong chuyến vận chuyển người bệnh chắc chắn là con số 0. Những cái xác gầy yếu
của người bệnh được ném vào xe đẩy và được những người tù kéo đi trong nhiều
dặm, dưới cơn bão tuyết, để đến trại tiếp theo. Nếu một trong số người bệnh
chết trước khi chiếc xe được kéo đi, anh ta cũng sẽ bị quẳng lên xe - danh sách
phải chính xác! Danh sách là thứ duy nhất quan trọng. Một người chỉ được tính
khi anh ấy có một số hiệu. Cái đại diện cho mỗi sinh mạng chỉ là một con số:
chết hoặc sống - điều đó không quan trọng; cuộc sống của “một con số” nào có
quan trọng gì. Cái gì đằng sau con số ấy và cuộc sống ấy chẳng có giá trị gì:
số phận, tiểu sử, tên họ của một con người. Trong chuyến vận chuyển các bệnh
nhân mà tôi với tư cách bác sĩ phải đi cùng từ một trại ở Bavaria đến một trại
khác, có một tù nhân trẻ mà anh trai của cậu không có trong danh sách và đáng
lẽ ra anh ta sẽ bị bỏ lại đằng sau. Cậu bé đã năn nỉ thống thiết đến nỗi người
quản trại quyết định sẽ đổi người: có một tù nhân muốn được ở lại và người anh
được nhận vào thế chỗ cho người này. Nhưng danh sách phải chính xác! Điều đó
thật dễ dàng. Người anh trai chỉ cần đổi số hiệu của mình với một tù nhân khác.
Như tôi đã đề cập trước kia, chúng tôi không có giấy tờ gì; chỉ
riêng việc giữ được mạng sống của mình đã là một điều vô cùng may mắn rồi. Còn
lại, tất cả đều không quan trọng. Tất cả những điều khác về chúng tôi, chẳng
hạn như đống quần áo rách trên bộ xương gầy còm, chỉ được quan tâm nếu chúng
tôi bị chỉ định vào chuyến vận chuyển người bệnh. Mọi người lục soát các
“Moslem” đã chết một cách thô bạo để xem chiếc áo khoác hoặc đôi giày của họ có
tốt hơn của mình hay không. Dù gì thì số phận của họ đã chấm hết, nhưng những
người còn lại trong trại vẫn phải làm việc và vì thế phải tận dụng mọi phương
tiện để tìm cơ hội sống sót cho mình. Trái tim của người tù dường như đã chai
sạn. Họ nhận thấy số mệnh của mình hoàn toàn tùy thuộc vào tâm trạng của những
tên lính canh - những quân cờ của số phận - và điều này càng khiến họ ít giống
con người hơn.
Trong suốt thời gian ở Auschwitz, tôi đã đưa ra một quy tắc ứng
xử cho bản thân, và với kinh nghiệm của mình, tôi có thể khẳng định rằng đây là
một quy tắc hữu hiệu. Hầu hết những người bạn tù của tôi sau này cũng noi theo
quy tắc này. Nhìn chung, tôi sẽ thành thật trả lời tất cả các câu hỏi và chỉ
dừng lại ở đó, tuyệt đối không bàn về những việc không được hỏi tới. Nếu người
ta hỏi tôi về tuổi, tôi sẽ trả lời về tuổi. Nếu hỏi tôi về nghề nghiệp, tôi sẽ
nói “bác sĩ” nhưng không nói chi tiết. Buổi sáng đầu tiên ở Auschwitz, một lính
SS bước đến sân tập trung. Chúng tôi bị chia thành những nhóm nhỏ: nhóm tầm bốn
mươi tuổi, nhóm dưới bốn mươi tuổi, nhóm công nhân cơ khí, kỹ sư, và cứ thế.
Rồi chúng tôi lại bị tách ra, tạo thành những nhóm mới. Nhóm của tôi bị đưa
sang một dãy nhà khác, tại đấy chúng tôi lại phải xếp hàng. Sau khi bị phân
loại một lần nữa và trả lời những câu hỏi về tuổi và nghề nghiệp, tôi bị đưa
qua một nhóm nhỏ hơn. Một lần nữa, chúng tôi lại bị đưa qua một trạm khác và bị
phân nhóm khác. Điều này tiếp diễn thêm vài lần nữa, tôi thấy khổ sở, lạc lõng
giữa những người lạ đang nói những thứ ngôn ngữ kỳ quặc. Rồi đến làn xét chọn
cuối cùng, tôi thấy mình quay trở lại nhóm mà tôi đã bị xếp vào ở lần phân loại
đầu tiên! Họ chắc không để ý rằng tôi đã bị đưa từ trạm này sang trạm khác
trong lúc chờ đợi. Nhưng tôi nhận ra trong những phút ngắn ngủi ấy, số phận đã
đi lướt qua tôi dưới nhiều hình thái khác nhau.
Khi có đợt chuyển bệnh nhân tới “trại an dưỡng”, tên của tôi
(tức số hiệu của tôi) được đưa vào danh sách, bởi vì người ta cần một số bác
sĩ. Nhưng không ai tin rằng đích đến thật sự của chuyến đi ấy là trại an dưỡng.
Vài tuần trước, một cuộc vận chuyển như thế đã được chuẩn bị. Và mọi người cũng
nghĩ rằng nơi đến là lò hơi ngạt. Khi được thông báo những ai tự nguyện làm ca
đêm sẽ được đưa ra khỏi danh sách chuyển đi, 82 tù nhân đã xung phong ngay lập
tức. Mười lăm phút sau, chuyến vận chuyển bị hủy, nhưng 82 người trong danh
sách ca đêm vẫn còn ở đó. Điều này đồng nghĩa với việc hầu hết họ đều chết
trong vòng hai tuần tới.
Bây giờ, cuộc vận chuyển đến trại an dưỡng được sắp xếp lần thứ
hai. Một lần nữa, không ai biết liệu đây có phải là một trò bịp để dụ một số
người bệnh làm việc - dù chỉ trong 14 ngày - hay đó sẽ là chuyến đi đưa họ đến
phòng hơi ngạt hoặc đến trại an dưỡng thực sự. Bác sĩ trưởng, người thích tôi,
lên nói cho tôi vào lúc 10 giờ kém 15 phút đêm ấy: “Tôi đã nói với mọi người
trong phòng rằng anh có thể gạch tên mình khỏi danh sách trước 10 giờ”
Tôi nói với ông rằng đó không phải là cách hành xử của tôi; rằng
tôi đã học được cách để số phận tự nó diễn ra. “Tôi sẽ ở cùng với các bạn của
mình”, tôi nói. Có gì đó thương cảm trong ánh mắt của ông, như thể ông đã biết
sự thật đằng sau cuộc vận chuyển này. Ông nhẹ nhàng bắt tay tôi, như thể đó là
lời tạm biệt, không phải cho cuộc sống, mà từ cuộc sống. Tôi chầm chậm đi về
lều của mình. Ở đó, tôi thấy một người bạn mà tôi rất tin tưởng đang chờ.
- Anh thật sự muốn đi với họ sao? - Anh ấy buồn bã hỏi.
- Ừ, tôi sẽ đi.
Anh ấy khóc, và tôi cố an ủi anh ấy. Còn một việc nữa phải làm -
tôi lấy lại bình tĩnh và nói:
- Nghe này Otto, nếu tôi không thể trở về nhà với vợ tôi, và nếu
anh có thể gặp lại cô ấy, hãy nói với cô ấy rằng tôi đã nói chuyện với cô ấy
hàng ngày, hàng giờ. Anh hãy nhớ nhé. Thứ hai, tôi yêu cô ấy hơn bất cứ ai. Thứ
ba, tuy chỉ cưới cô ấy trong thời gian ngắn, nhưng điều ấy có ý nghĩa lớn lao
đối với tôi, thậm chí hơn tất cả những gì chúng ta đã trải qua ở đây.
Otto, bây giờ anh đang ở đâu? Anh vẫn còn sống chứ? Chuyện gì đã
xảy ra với anh từ giây phút cuối chúng ta ở cạnh nhau? Anh có tìm thấy vợ tôi
không? Và anh có nhớ tôi đã bắt anh học thuộc lòng những lời nói của tôi - từng
từ một - như thế nào không, mặc dù anh đã khóc như trẻ con?
Sáng hôm sau, tôi bị chuyển đi theo đoàn. Lần này không phải là
trò bịp. Chúng tôi không đi đến phòng hơi ngạt mà thật sự đến trại an dưỡng.
Những người đã thương tiếc cho tôi vẫn ở lại trong trại cũ với điều kiện sống
còn tồi tệ hơn ở trại mới của chúng tôi. Họ đã cố tự cứu mình, nhưng việc ấy
rốt cuộc chỉ là sự đóng đinh của chính họ vào số phận. Nhiều tháng sau, khi đã
được tự do, tôi gặp lại một người bạn ở trại cũ. Anh ấy, một kiểm soát viên
trong trại, đã kể cho tôi nghe việc anh đã tìm thấy những mảnh thịt người bị
cắt ra từ các xác chết đang được nấu trong nồi như thế nào. Trong trại đã xảy
ra tình trạng ăn thịt người. Tôi đã rời khỏi đó đúng lúc.
Điều này khiến tôi nhớ đến câu chuyện về thần chết ở Teheran.
Một lần nọ, một người Ba Tư giàu có đang đi dạo trong vườn cùng người đầy tớ
của mình. Người hầu ấy khóc rằng anh ta vừa mới gặp Thần Chết và bị Thần Chết
dọa nạt. Anh cầu xin chủ nhân cho mình một con ngựa chạy thật nhanh để có thể
trốn đến Teheran vào buổi chiều hôm ấy, Người chủ bằng lòng và người hầu phi
nước đại trên lưng ngựa. Khi trở về nhà, chính người chủ lại gặp Thần Chết và
ông đã hỏi: “Tại sai ngài dọa nạt và làm tên hầu của ta khiếp sợ?”. Ta chẳng
dọa nạt gì cả, ta chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên vì thấy hắn ở đây mà thôi. Theo dự tính,
ta sẽ gặp hắn ở Teheran đêm nay”, Thần Chết nói.
Người tù thường rất sợ hãi khi phải đưa ra quyết định và hành
động. Đó là kết quả từ niềm tin rằng số phận làm chủ con người, và rằng con
người không nên cố tác động vào số phận bằng bất cứ cách nào mà hãy để nó tự
diễn ra. Ngoài ra, sự vô cảm cũng góp phần không nhỏ trong việc tác động đến
tâm lý của người tù. Có một số khoảnh khắc cần phải đưa ra quyết định thật nhanh,
quyết định sẽ đem lại sự sống hoặc cái chết, thì người tù vẫn muốn để số phận
định đoạt cho mình. Sự tránh né này thể hiện rõ ràng nhất khi người tù phải đưa
ra quyết định ở lại hay bỏ trốn. Trong thời khắc phải đưa ra quyết định - thời
khắc này thường kéo dài vài phút - anh ta luôn phải chịu đựng sự hành hạ của
Địa Ngục. Mình có nên thử bỏ trốn? Mình có nên mạo hiểm?
Tôi cũng đã từng trải qua cảm giác khổ sở như vậy. Khi trận địa
tiến đến gần hơn, tôi đã có cơ hội bỏ trốn. Một đồng nghiệp của tôi được phái
đến các khu trạm bên ngoài trại để thực hiện nhiệm vụ y tế có ý định bỏ trốn và
đưa tôi đi cùng anh ấy. Trong lúc giả vờ bàn bạc về ca bệnh đòi hỏi lời tư vấn
của chuyên gia, anh ấy lôi tôi ra ngoài. Bên ngoài trạm, một thành viên của
phong trào kháng chiến nước ngoài sẽ đưa cho chúng tôi đồng phục và tài liệu.
Vào phút cuối, do một vài trục trặc kỹ thuật, chúng tôi buộc phải trở về trại.
Chúng tôi đã tranh thủ cơ hội này để chuẩn bị một số đồ đạc cho mình - một ít
khoai tây hư - và tìm một chiếc ba lô.
Chúng tôi lao vào một căn lều bỏ trống của một trại nữ, lều bỏ
hoang vì họ đã bị chuyển sang một trại khác. Lều trại khá lộn xộn; rõ ràng
nhiều người đã đem theo nhiều đồ đạc và bỏ đi. Có nhiều đồ rách nát, nón rơm,
thức ăn hư và bát đĩa vỡ. Một vài cái tô vẫn còn trong tình trạng tốt và rất có
giá trị đối với chúng tôi, nhưng chúng tôi quyết định không mang đi. Chúng tôi
biết rằng trong tình trạng thiếu thốn cùng cực, họ không chỉ sử dụng những cái
tô ấy để ăn mà còn làm chậu rửa và bô tiểu. (Có quy định nghiêm cấm sử dụng bất
kỳ đồ gia dụng nào trong trại. Tuy nhiên, một vài người buộc phải phá luật,
nhất là các bệnh nhân bị sốt phát ban, những người quá yếu để đi ra ngoài cho
dù có được giúp đỡ). Trong khi tôi đứng canh gác bê ngoài, bạn tôi bước vào lều
và nhanh chóng trở ra với một cái ba lô mà anh giấu dưới áo khoác. Anh ấy đã
nhìn thấy một cái khác ở bên trong và tôi sẽ lấy nó. Vì vậy chúng tôi đổi chỗ
và tôi tiến vào trong. Khi lục lọi trong đống rác, tôi tìm thấy một chiếc ba lô
và cả một cái bàn chải. Đột nhiên tôi nhìn thấy một cái xác phụ nữ giữa những
thứ đồ mà họ bỏ lại.
Tôi chạy về lều của mình và gom hết đồ đạc: tô đựng thức ăn, đôi
găng tay bị rách được “thừa kế” từ một bệnh nhân đã chết vì sốt, và một ít giấy
vụn có những ghi chú về công trình khoa học mà tôi phải bỏ dở lúc bị bắt (như
đã nói trước đó, tôi bắt đầu tái cấu trúc lại bản thảo mà tôi đã bị mất ở
Auschwitz). Tôi kiểm tra một lượt các bệnh nhân của mình, những người đang nằm
co quắp trên những tấm ván mục được kê thành hai dãy trong bệnh xá. Tôi đến bên
cạnh người đồng hương duy nhất của mình, người gần như sắp chết và mạng sống
của anh ấy được tôi cố gắng níu kéo bất chấp tình trạng hiện tại của anh. Tôi
phải giữ ý định trốn khỏi đây, nhưng người bạn của tôi dường như đã đoán ra
được điều gì đó (có lẽ tôi có một chút căng thẳng). Bằng giọng yếu ớt, anh ấy
hỏi tôi: “Cả anh cũng bỏ đi nữa à?”. Tôi chối, nhưng tôi thấy khó mà tránh khỏi
ánh nhìn buồn bã của anh ấy. Một lần nữa, ánh nhìn vô vọng của anh khiến tôi có
cảm giác tội lỗi. Cảm giác khó chịu đã bám lấy tôi từ lúc tôi nhận lời trốn
cùng người bạn bây giờ lại càng trở nên mạnh mẽ. Bỗng nhiên tôi quyết định đặt
số phận trong tay mình lần nữa. Tôi chạy ra khỏi lều và nói với anh bạn kia
rằng tôi không thể đi cùng anh ấy. Ngay khi tôi nói rằng tôi đã quyết định sẽ ở
lại với các bệnh nhân của mình, cảm giác khó chịu trong tôi bỗng trôi tuột đi.
Tôi không biết những ngày sắp tới sẽ xảy ra chuyện gì, nhưng tôi đã tìm thấy sự
bình yên bên trong mà tôi chưa từng trải qua trước đó. Tôi trở lại lều, ngồi
trên tấm phản dưới chân người đồng hương, cố trấn an anh; rồi tôi trò chuyện
với những người khác, cố gắng làm cho họ bớt mê sảng.