Khi những lớp mỡ dưới da
biến mất, trông chúng tôi chẳng khác nào những bộ xương khô, có khác chăng là
được khoác thêm lớp da và bộ quần áo cũ rách. Cơ thể chúng tôi bị bào mòn theo
từng ngày. Nó sử dụng chính nguồn dưỡng chất đã tích luỹ để duy trì sự tồn tại
của chính nó. Sau nhiều lần quan sát, mỗi một người trong chúng tôi có thể dự
đoán khá chính xác ai sẽ là người ra đi tiếp theo và khi nào. “Anh ấy không còn
sống được lâu đâu” hoặc “Tiếp theo sẽ là anh ấy”, chúng tôi thì thầm trong lúc
bắt chấy rận cho nhau. Mỗi một ngày qua đi, đến chiều tối, chúng tôi quan sát
chính cơ thể trần truồng của mình và có cùng suy nghĩ: Cơ thể của tôi thực sự
chỉ còn là một cái xác. Tôi còn gì là tôi nữa? Tôi vẫn là tôi bên dưới lớp da
bọc xương này, là một thành viên thuộc đám đông đằng sau hàng rào kẽm gai, tụ
tập trong những lều trại chật hẹp. Tôi là một phần của đám người mà mỗi ngày ai
ai cũng nhận ra rằng một phần nào đó của cơ thể bắt đầu mục rã.
Như đã đề cập ở trên, ý nghĩ về thức ăn và các món khoái khẩu đã
ăn sâu vào trong nhận thức của người tù. Mỗi khi có thời gian rảnh là họ nghĩ
ngay đến thức ăn, đây là điều không thể tránh khỏi. Mọi người sẽ thông cảm với
chúng tôi khi biết rằng ngay cả những người cứng cỏi nhất trong chúng tôi cũng
ao ước đến ngày có đủ thức ăn, không phải chỉ vì cơ thể chúng tôi thèm khát
thức ăn, mà còn vì biết rằng những chuỗi ngày sống không ra sống này - sự thiếu
thốn những nhu cầu tối thiểu của con người khiến chúng tôi không thể nghĩ gì
khác ngoài thức ăn - cuối cùng cũng chấm dứt.
Những người chưa từng trải qua hoàn cảnh như vậy thì khó mà hiểu
được những cuộc đấu tranh tinh thần dữ dội mà một người đang trong cơn đói phải
trải qua. Họ khó mà hiểu được nỗi thống khổ của việc phải đứng đào xới hàng giờ
liền trong một cái hào, mòn mỏi chờ đợi âm thanh duy nhất phát ra từ chiếc còi
thông báo 9 giờ 30 hay 10 giờ sáng - khoảng thời gian nửa tiếng được nghỉ để ăn
trưa - lúc này, các tù nhân sẽ được tự do bên khẩu phần ăn của mình (miễn là
bánh mì vẫn còn). Các bạn cũng khó mà hiểu được sự khổ sở của những người tù
khi họ liên tục hỏi người quản đốc - nếu người đó không phải là người quá khắt
khe - rằng mấy giờ rồi; và khẽ chạm vào mẩu bánh mì trong túi áo, trước tiên
mân mê nó bằng những ngón tay tê cóng, sau đó mới bẻ một mẩu nhỏ cho vào miệng,
và cuối cùng, với một chút ý chí cuối cùng, bỏ mẩu bánh mì vào túi trở lại, và
tự hứa rằng phải để dành cho đến chiều.
Dù là vô thức hoặc có ý thức đi nữa thì chúng tôi cũng không
ngừng đấu tranh để tìm ra cách sử dụng hợp lý nhất phần bánh mì ít ỏi vốn chỉ
còn được phát duy nhất một lần vào lúc cuối ngày. Có hai phương án để xử lý vấn
đề này. Một là sẽ ăn hết phần bánh mì đó ngay lập tức. Điều này có hai thuận
lợi, thứ nhất là sẽ thoả mãn ngay cơn đói tức thời trong một lúc, ít nhất một
lần trong ngày, và thứ hai là sẽ không phải lo lắng bị mất trộm. Cách giải
quyết của nhóm thứ hai là chia nhỏ phần bánh mì đó thành nhiều phần cho nhiều
lần sử dụng, và nhóm này cũng có những lí lẽ riêng của họ. Tôi cuối cùng cũng
nhập bọn với nhóm thứ hai.
Thời điểm kinh khủng nhất trong 24h ở trại là thời điểm thức dậy
lúc trời vẫn còn tối, ba tiếng còi inh ỏi lôi chúng tôi dậy từ giấc ngủ mỏi
mệt, ai cũng chưa kịp tỉnh hẳn. Chúng tôi bắt đầu vật vã với đôi giày ướt, cố
nhét đôi chân đau nhức và sưng phồng do bị phù vào trong. Có những tiếng rên
rỉ, kêu than quen thuộc về những phiền phức lặt vặt, chẳng hạn như việc lấy dây
kẽm thay cho dây giày bị đứt. Một sáng nọ, tôi nghe một người mà tôi biết là
rất ngoan cường và tự trọng khóc nấc lên như một đứa trẻ bởi ông buộc phải đi
chân trần trên tuyết do không thể mang vừa đôi giày của mình. Trong thời khắc
kinh khủng đó, tôi tìm thấy một chút an ủi; tôi lấy ra mẩu bánh mì từ trong túi
và khoan khoái nhai trệu trạo.
Sự thiếu ăn là mối quan tâm hàng đầu của các tù nhân, đó cũng là
lý do của sự thiếu vắng yếu tố tình dục ở đây. Ngoài những tác động từ cú sốc
ban đầu, suy dinh dưỡng có lẽ là lời giải thích duy nhất cho điều mà nhà tâm lý
sẽ quan sát được trong các trại toàn đàn ông này: đó là, tỷ dụ như trại lính,
thì ở đây hầu như không xảy ra các lệch lạc về tình dục. Ngay cả trong những
giấc mơ, người tù dường như cũng không quan tâm đến tình dục, mặc dù các cảm
xúc tuyệt vọng, cái đẹp hoặc các cảm giác hưng phấn vẫn thể hiện rõ ràng trong
những giấc mơ.
Với phần lớn tù nhân, mọi nỗ lực của họ được dùng để chống chọi
với cái đói, cái rét và để tập trung giữ lại phần da thịt còn lại đã khiến họ
không còn quan tâm đến những việc không phục vụ cho các mục đích ấy, và điều
này giải thích sự thiếu thốn tình cảm hoàn toàn của người tù. Trên đường vận
chuyển từ Auschwitz đến trại Dachau, tôi đã có cơ hội nhìn lại mái nhà xưa yêu
dấu của mình. Chuyến xe lửa chở chúng tôi - khoảng 2000 tù nhân - đi ngang qua
Vienna. Vào khoảng giữa đêm, chúng tôi đi ngang qua một trong những trạm xe lửa
ở thủ đô. Tàu sẽ đi ngang qua con đường có ngôi nhà đã gắn bó với tôi từ thuở
lọt lòng cho đến lúc tôi bị bắt.
Trong khoang tàu chở 50 người chúng tôi có hai lỗ thông hơi nhỏ.
Chỉ có đủ chỗ cho một nhóm ngồi xổm trên sàn, còn những người khác phải đứng
hàng giờ liền, chen chúc quanh cái lỗ thông hơi. Tôi kiễng chân nhìn qua đầu
những người khác qua chấn song cửa sổ và bắt gặp một cái nhìn kỳ lạ của thị
trấn quê nhà. Chúng tôi cảm thấy mình đang đi đến gần cái chết hơn bao giờ hết
bởi vì chúng tôi nghĩ rằng chuyến xe đang đi đến trại ở Mauthausen và chúng tôi
chỉ còn một hoặc hai tuần để sống. Tôi có cảm giác kỳ lạ rằng mình đang nhìn
những con đường, quảng trường và các ngôi nhà thời thơ ấu qua đôi mắt của một
người đã chết, đang trở về từ một thế giới khác và nhìn xuống thành phố ma.
Sau nhiều giờ trì hoãn, xe lửa rời khỏi trạm. Và rồi xuất hiện
một con đường - con đường của tôi! Những thanh niên đã ở tù nhiều năm xem
chuyến đi là một sự kiện tuyệt vời, họ nhìn chăm chú thông qua cái lỗ thông
hơi. Tôi khẩn khoản xin họ cho tôi đứng trước lỗ thông hơi một lúc thôi. Tôi cố
giải thích việc nhìn thấy hình ảnh đó có ý nghĩa với tôi như thế nào. Nhưng lời
khẩn nài của tôi đã bị từ chối một cách thẳng thừng với giọng điệu đầy chế
nhạo: “Ông đã sống ở đây nhiều năm rồi sao? Vậy thì ông đã ngắm nhìn đủ rồi!”.
Có thể nói rằng trong trại cũng có “sinh hoạt văn hoá”. Trong
đó, hai vấn đề được các tù nhân quan tâm nhất là chính trị và tôn giáo. Tình
hình chính trị được bàn tán khắp nơi trong trại; các cuộc nói chuyện giữa các
tù nhân chủ yếu xoay quanh các tin đồn. Tin đồn về tình hình chiến sự thường
trái ngược nhau. Các tin đồn liên tục được truyền đi nhanh chóng và khiến nhiều
tù nhân lo lắng hơn. Nhiều lần, những tin đồn lạc quan về việc chiến tranh sớm
kết thúc đã thổi bùng lên ngọn lửa hy vọng trong các tù nhân để rồi sau đó họ
lại thất vọng não nề. Một vài người đã mất hết lòng tin vào ngày trở về, nhưng
chính những người lạc quan là những người dễ bị kích thích vì những tin đồn
nhất.
Niềm tin tôn giáo của những người tù - cho đến chừng nào họ còng
giữ được niềm tin ấy - là điều chân thật nhất. Sự mộ đạo và sức mạnh trong niềm
tin tôn giáo từ những tù nhân mới nhập trại khiến những người khác ngạc nhiên
và xúc động. Ấn tượng nhất là hình ảnh những người cầu nguyện trong góc nhà,
hoặc trong bóng tối của chiếc xe chở gia súc dùng để chở chúng tôi về từ chỗ
làm việc xa, khi tất cả chúng tôi đều mệt mỏi rã rời, đói và lạnh cóng trong bộ
quần áo rách nát của mình.
Vào mùa đông và mùa xuân năm 1945, dịch sốt phát ban bùng nổ,
hầu hết mọi tù nhân đều nhiễm bệnh. Đa số những người ốm yếu đều không thể
chống chọi lại căn bệnh, thế nhưng họ vẫn phải tiếp tục công việc nặng nhọc của
mình chừng nào còn có thể. Không có đủ chỗ ở cho người bệnh, thiếu thuốc men và
người chăm sóc. Một vài triệu chứng của căn bệnh cực kỳ khó chịu: bỏ ăn (triệu
chứng này tất yếu càng đe doạ mạng sống của họ) và những cơn mê sảng. Một người
bạn của tôi bị mê sảng nặng, đã nghĩ rằng mình sắp chết và muốn cầu nguyện.
Trong cơn mê, anh ấy không thể tìm được ngôn từ để cầu nguyện. Để không bị mê
sảng, tôi và những người khác cố gắng thức suốt đêm. Trong nhiều giờ, tôi tự
tạo nên một bài diễn văn trong đầu. Cuối cùng, tôi bắt đầu tái cấu trúc bản thảo
mà mình đã làm mất trong phòng tẩy uế ở Auschwitz, và nguệch ngoạc ghi lại
những từ chính lên một mẩu giấy nhàu nát.
Thỉnh thoảng, trong trại có một cuộc thảo luận khoa học. Có lần,
tôi đã chứng kiến một việc mà tôi chưa bao giờ thấy trước đây, mặc dù nó gần
với lĩnh vực chuyên môn của tôi: đó là lễ cầu cơ. Vị bác sĩ trưởng của trại
(cũng là tù nhân) mời tôi tham dự bởi ông biết rằng tôi là một chuyên gia tâm
lý. Sự việc này diễn ra ở căn phòng nhỏ trong bệnh xá. Những người tham gia
quây lại thành một vòng tròn nhỏ xung quanh một viên sĩ quan từ đội vệ sinh.
Một người bắt đầu gọi hồn bằng một loạt thần chú nào đó. Thư ký
của trại ngồi trước tờ giấy trắng, không có ý định viết gì cả. Trong suốt mười
phút tiếp theo (sau khi buổi lễ bị gián đoạn vì không thể gọi hồn) cây viết chì
của ông ấy bắt đầu vẽ những đường thẳng khắp mặt giấy thành chữ “VAE V”. Cần
phải khẳng định rằng người thư ký này chưa bao giờ biết chữ Latin và anh ấy
chưa bao giờ nghe thấy từ “vae victics” - có
nghĩa là “khốn cho kẻ thua trận”. Theo tôi, trước đây anh ấy chắc hẳn đã nghe
thấy những từ này một lần trong đời nhưng anh không để ý đến chúng, và “các
linh hồn” ắt hẳn đã nắm bắt được các từ này (linh hồn ngự trị trong tiềm thức
của anh ấy) vào lúc ấy - chuyện này xảy ra một vài tháng trước khi chúng tôi
được tự do và chiến tranh kết thúc.
Bất kể tình trạng bị quản thúc về thể xác và áp lực căng thẳng
về tinh thần, đời sống nội tâm của các tù nhân trong trại tập trung vẫn rất sâu
sắc. Những người xuất thân là trí thức có thể cảm thấy rất đau đớn về thể xác
(do thể chất ốm yếu), nhưng thế giới nội tâm của họ lại rất kiên cường. Họ
thường có thể tự rút mình ra khỏi hoàn cảnh khủng khiếp xung quanh để đến với
cuộc sống nội tâm phong phú và sự tự do về tinh thần. Chỉ có cách này mới giải
thích được nghịch lý tại sao một số tù nhân trông bề ngoài yếu đuối lại có thể
tồn tại trong trại tốt hơn những người cường tráng khác. Để làm rõ sự việc, tôi
buộc phải nhớ lại trải nghiệm của cá nhân mình. Hãy để tôi kể điều gì đã xảy ra
vào những buổi sáng sớm khi chúng tôi phải đi bộ đến công trường.
Tên lính hét vang hiệu lệnh: “Toàn đội, đi thẳng! Trái 2-3-4!
Trái 2-3-4! Trái 2-3-4! Trái 2-3-4! Người đứng đầu bước sang trái, trái, trái,
trái và trái! Cởi nón ra!”. Những câu hiệu lệnh này vẫn còn ám ảnh tôi đến tận
bây giờ. Ngay khi hiệu lệnh “Cởi nón ra!” được thét lên, chúng tôi bước qua
cổng trại, ánh đèn pha chiếu xuống đầu chúng tôi. Những ai không đi đều hàng sẽ
bị đá. Người nào đội nón trùm tai lại cho đỡ lạnh trước khi được cho phép sẽ
càng thê thảm hơn.
Chúng tôi dò dẫm trong bóng tối, bước qua những tảng đá lớn và
đi qua nhiều vũng nước, dọc theo con đường dẫn từ trại. Bọn lính canh đi cùng
không ngừng la hét với chúng tôi và hướng dẫn bằng báng súng. Bất cứ ai bị đau
chân đều phải nhờ vào cánh tay của người đi bên cạnh giúp đỡ. Hầu như không ai
nói câu nào; những cơn gió rét buốt không có lợi cho việc nói chuyện. Giấu đôi
môi sau chiếc cổ áo dựng lên, người đi bên cạnh tôi bỗng thì thầm: “May mà vợ
chúng ta không thấy chúng ta như thế này! Tôi hy vọng họ sống khá hơn ở trại
của họ và không biết việc đang xảy ra với chúng ta”.
Điều này khiến tôi nhớ đến người vợ thân yêu của mình. Chúng tôi
bị dẫn đi hàng dặm, nhiều lần bị trượt té trên những chỗ đóng băng, mọi người
giúp nhau đứng dậy và lại tiếp tục, tuy không ai nói gì, nhưng cả hai chúng tôi
biết: mỗi người đang nghĩ về người bạn đời của mình. Thỉnh thoảng, tôi ngước
nhìn bầu trời, những ngôi sao đang mờ dần và ánh sáng hồng của bình minh bắt
đầu trải dài đằng sau những đám mây u ám. Những khi ấy, hình ảnh về người vợ
yêu dấu chiếm trọn tâm trí tôi, tôi nhớ hình dáng của nàng, mường tượng đang
trò chuyện cùng nàng, giọng nói của nàng dường như vang vọng đâu đây. Tôi nghe
nàng trả lời, nhìn thấy nụ cười, ánh mắt đầy khích lệ của nàng. Dù thức hay hư
thì ánh mắt ấy nhìn tôi còn sáng hơn cả ánh bình minh đang hé rạng.
Một ý nghĩ loé lên trong tôi: lần đầu tiên trong đời tôi đã nhìn
thấy chân lý mà loài người từ bao đời nay đã ca tụng qua những vần thơ, cũng là
chân lý tối thượng của các bậc học giả, rằng: Tình yêu là mục đích cuối cùng và
là mục đích cao cả nhất của nhân loại. Rồi tôi hiểu được ý nghĩa huyền diệu
nhất trong các vần thơ, tư tưởng và niềm tin của nhân loại truyền lại: Linh hồn
của con người chỉ có thể tìm thấy sự cứu rỗi thông qua tình yêu và trong tình
yêu. Tôi hiểu được làm sao mà một người không còn gì trên thế gian này vẫn biết
thế nào là hạnh phúc dù chỉ thoáng qua, đắm chìm trong suy nghĩ về người mình
yêu thương. Trong lúc cảm thấy cô độc, khi không thể làm gì tích cực, khi điều
duy nhất một người có thể làm là nhẫn nại chịu đựng thì nỗi nhớ về những người
yêu thương là niềm hạnh phúc duy nhất của các tù nhân. Lần đầu tiên trong đời,
tôi có thể hiểu được ý nghĩa của câu nói: “Các thiên thần chìm đắm trong suy tư
bất tận về một chiến thắng xa xôi”.
Phía trước tôi có một người bị trượt chân, khiến cho những người
đi sau té nhào theo. Tên lính gác nhanh chóng chạy tới và quất roi vào họ. Vì
vậy, suy nghĩ của tôi bị gián đoạn một vài phút. Nhưng chẳng mấy chốc tâm hồn
tôi lại tìm thấy lối đi đến một thế giới khác, và tôi tiếp túc nói chuyện với
người vợ thân yêu: tôi hỏi cô ấy vài câu, cô ấy trả lời; cô ấy hỏi lại tôi vài
câu, và tôi đáp trả.
“Dừng lại!”.
Chúng tôi đã đến công trường. Mọi người hối hả vào khu lều tối
với hy vọng tìm thấy dụng cụ tương đối tốt. Mỗi người lấy một cái thuổng hoặc
một cái cuốc.
“Lũ lợn chúng bây không thể nhanh chân lên được à?”.
Chẳng mấy chốc chúng tôi quay lại vị trí làm việc trong hào của
mình. Dưới mỗi nhát cuốc, mặt đất đông cứng bị nứt ra và toé lửa. Mọi người đều
im lặng, dường như mọi suy nghĩ của họ đều bị tê cóng.
Hình ảnh về người vợ thân yêu chưa lúc nào phai mờ trong tâm trí
tôi. Bỗng nhiên tôi chợt nhận ra: Tôi thậm chí không biết nàng có còn sống hay
không. Tôi chỉ biết có một điều mà giờ đây tôi hiểu rất rõ: Tình yêu không chỉ
gắn liền với sự hiện hữu của thể xác. Tình yêu tìm thấy ý nghĩa sâu sắc nhất
trong tâm trí, trong chính nội tâm của con người. Cho dù người ấy có thực sự
tồn tại, có còn sống hay không cũng không quan trọng.
Tôi không biết vợ mình có còn sống hay không, và tôi không có
cách nào để biết được điều đó (trong suốt thời gian ở tù, các tù nhân không
được trao đổi thư từ); nhưng điều đó cũng không quan trọng vào lúc ấy. Tôi
không cần phải biết, bởi không gì có thể vượt qua sức mạnh tình yêu, không gì
có thể chạm vào tình cảm thiêng liêng tôi dành cho nàng. Nếu sau này tôi có
biết rằng vợ mình đã chết đi nữa thì tôi nghĩ điều đó cũng không quấy nhiễu bản
thân tôi cũng như ảnh hưởng đến hình ảnh nàng trong lòng tôi, những cuộc trò
chuyện trong tâm trí giữa chúng tôi vẫn sẽ sống động, viên mãn. “Hãy khắc tên
tôi trong trái tim của em, tình yêu cũng mạnh như cái chết”.
Sức mạnh bên trong giúp cho người tù tìm thấy sự cứu rỗi trong
nỗi cô đơn, trống vắng và buồn chán trước cuộc sống. Những lúc rỗi rãi hiếm
hoi, trí tưởng tượng của người tù thường trở về sống với quá khứ. Những điều họ
nhớ nhiều nhất không phải là những sự kiện quan trọng mà là những sự việc bé
nhỏ, vặt vãnh. Không gian hoài niệm tô điểm thêm cho những sự việc rất đỗi bình
dị ấy một ý nghĩa đặc biệt. Thế giới của những mảnh ký ức chắp nối ấy dường như
rất xa xăm, và tâm trí phải cố hết sức mới có thể tái hiện chúng: Trong đầu tôi
hiện lên hình ảnh tôi đi xe buýt, mở cửa căn hộ, trả lời điện thoại và bật đèn.
Suy nghĩ của tôi thường tập trung vào những chi tiết như thế, và những ký ức
này có thể khiến tôi bật khóc.
Cuộc sống nội tâm của người tù có khuynh hướng sâu sắc hơn nên
giờ đây cái nhìn của họ về nghệ thuật và thiên nhiên cũng khác trước - họ có
một cảm nhận mà trước kia họ chưa từng biết đến. Nhờ đó mà đôi khi họ quên mất
hoàn cảnh tồi tệ của mình. Nếu có ai đó nhìn thấy khuôn mặt của chúng tôi trên
chuyến đi từ Auschwitz đến trại Bavaria, lúc chúng tôi đang nhìn qua những song
chắn cửa sổ chiêm ngưỡng những ngọn núi ở Salzburg in hình trên nền trời lồng
lộng ánh chiều tà, thì người đó sẽ không bao giờ nghĩ rằng đấy là khuôn mặt của
những người đã từ bỏ hy vọng về cuộc sống và tự do. Cho dù điều đó là sự thật
đi chăng nữa thì chúng tôi cũng không thể rời mắt khỏi khung cảnh thiên nhiên
trước mắt, những cảnh vật mà bao lâu nay chúng tôi không còn được nhìn thấy.
Ở trong trại cũng vậy, một người có thể phát hiện và gọi người
bạn tù làm việc bên cạnh cùng ngắm cảnh sắc tuyệt đẹp khi mặt trời xuyên qua
những tàng cây cao trong khu rừng Bavaria (giống như bức vẽ bằng màu nước nổi
tiếng của hoạ sĩ Dürer) - nơi chúng tôi đã xây dựng một kho đạn bí mật khổng
lồ. Một chiều nọ, khi chúng tôi đang ngồi nghỉ trên sàn của khu lều, mệt lử,
trên tay là những chén xúp, một người tù vội vã chạy vào và gọi chúng tôi ra
ngoài để ngắm cảnh hoàng hôn tuyệt đẹp. Đứng bên ngoài lều, chúng tôi nhìn
những đám mây u ám ửng hồng ở phía Tây và cả bầu trời sống động với những đám
mây thay đổi hình dạng và màu sắc, từ màu xanh thép đến màu đỏ thắm như máu. Màu
xám hoang tàn của khu lều trại hoàn toàn tương phản với hình ảnh rực rỡ của bầu
trời phản chiếu trong vũng nước trên mặt đất. Sau vài phút lặng im vì xúc động,
một người tù đã nói với người bên cạnh: “Thế giới này sao có
thể đẹp đến thế!”.
Một lần nọ, chúng tôi đang làm việc trong hào. Bình minh xám xịt
vây quanh chúng tôi; màu xám của bầu trời; màu xám của tuyết trong ánh sáng
nhợt nhạt của bình minh; màu xám trên những bộ đồ của những người tù, và màu
xám u tối trên khuôn mặt họ. Tôi lại nói chuyện trong tâm tưởng với người vợ
của mình, mà có lẽ cũng là đang đấu tranh để tìm thấy lý
do cho sự chịu đựng, cho cái chết từ từ của tôi. Trong nỗ lực
cuối cùng chống lại nỗi tuyệt vọng trước cái chết sắp đến, tôi nhận thấy linh
hồn mình đang xuyên qua bức màn ảm đạm. Tôi có cảm giác rằng linh hồn của tôi
vượt qua cả cái thế giới vô vọng, vô nghĩa lúc ấy và văng vẳng ở đâu đó, tôi
nghe thấy câu trả lời “Có” cho câu hỏi về sự tồn tại của ý nghĩa sâu xa nhất
của cuộc sống. Ngay khoảnh khắc ấy, bỗng một tia sáng loé lên trên một nông
trại ở phía xa, trong làn sương mờ ảo buổi bình minh ở Bavaria. “Ex
lux in tenebris lucet” - ánh sáng rồi cũng xuất hiện từ trong
bóng tối. Trong nhiều giờ, tôi đứng cuốc trên mặt đất đóng băng. Tên lính gác
đi ngang, sỉ nhục tôi, tôi coi như hắn và những lời của hắn không còn tồn tại,
tôi lại tiếp tục nói chuyện với người vợ thân yêu của mình. Càng ngày tôi càng
cảm nhận rõ hơn sự hiện diện của nàng, rằng nàng luôn ở cạnh tôi; tôi có cảm
giác rằng mình có thể chạm vào nàng, có thể đưa tay ra và nắm lấy bàn tay của
nàng. Cảm giác ấy rất mạnh: nàng đã ở đây. Đúng vào lúc ấy,
một con chim nhẹ nhàng bay đến và đậu ngay trước mặt tôi - trên đống đất mà tôi
vừa đào xong - và nhìn tôi chăm chú.
Ở đoạn trước, tôi đã đề cập đến vấn đề nghệ thuật trong trại.
Liệu trong trại tập trung có tồn tại hình thái nghệ thuật nào đó hay không?
Điều này phụ thuộc vào cách nhìn nhận của mỗi người. Thỉnh thoảng, trong trại
cũng tổ chức múa hát. Khu trại tạm thời được thu xếp một khoảng trống, một vài
chiếc ghế gỗ được đặt hoặc cột vào nhau và lịch biểu diễn được phác thảo. Đến
chiều tối, những người có địa vị khá cao trong trại - các Capo và những công
nhân không phải rời trại đi đến công trường - tụ tập tại khu sân khấu tạm bợ
này. Họ đến để được thoả thích cười vui hoặc để cho người ta thấy rằng họ cũng
biết rơi lệ; dù gì đi nữa họ cũng chỉ muốn tạm quên hết sự việc xung quanh. Các
tiết mục biểu diễn bao gồm những bài hát, bài thơ, chuyện cười, một số tác phẩm
ngầm đả kích tội ác trong trại. Tất cả đều nhằm giúp chúng tôi quên đi hoàn
cảnh của mình, và đúng là như vậy thật. Các buổi văn nghệ hiệu quả đến mức một
vài tù nhân thường đến xem biểu diễn, bất kể sự mệt mỏi của bản thân hoặc thậm
chí là phải mất cả khẩu phần ăn hằng ngày của mình.
Trong nửa tiếng nghỉ trưa, khi người ta phát xúp tại công trường
(xúp do những nhà thầu trả công cho tù nhân với số lượng ít ỏi), chúng tôi được
phép ngồi trong một phòng máy chưa xây xong. Khi bước vào, mỗi người đều cầm
trên tay một tô xúp lõng bõng nước. Trong khi chúng tôi xì xụp húp, một tù nhân
trèo lên một cái ống và hát các bài hát của Ý. Chúng tôi rất thích các bài hát,
và anh sẽ được cho gấp đôi phần xúp múc “từ đáy nồi” - có nghĩa là sẽ có thêm
ít đậu.
Phần thưởng không chỉ dành cho các “diễn viên bất đắc dĩ” mà còn
dành cho khán giả - những người đến cổ vũ. Chẳng hạn nhờ tinh thần cổ vũ hăng
hái, tôi nhận được sự che chở (thật may là tôi chưa cần nó bao giờ!) từ một
Capo đáng sợ nhất trong trại - người có biệt hiệu là “Capo sát thủ”. Chuyện
diễn ra như sau: Một chiều nọ, tôi lại được vinh dự mời đến căn phòng diễn ra
buổi cầu cơ một lần nữa. Ở đó đã tụ tập nhiều người bạn của vị bác sĩ trưởng
(việc này trái với luật của trại), và viên sĩ quan đội vệ sinh cũng có mặt. Vị
Capo sát thủ tình cờ bước vào phòng và hỏi mọi người có muốn nghe bài thơ nổi
tiếng (đúng ra là tai tiếng) của hắn hay không. Không cần hỏi tới lần thứ hai,
hắn ta nhanh chóng lấy ra một tập ghi chép và bắt đầu đọc áng thơ “tuyệt tác”
của mình. Tôi mím chặt môi để khỏi bật cười trước những vần thơ yêu thích của
hắn, cũng là để cứu mạng mình. Vì tôi vỗ tay quá nhiệt liệt nên dù tôi có bị
cắt cử sang làm việc ở đội của hắn thì tôi vẫn có cơ hội sống sót, trước đây
tôi đã từng bị chỉ định sang đó làm việc trong một ngày - một ngày là quá đủ
với tôi. Dù sao, việc có được thiện cảm của Capo sát thủ cũng có ích, vì vậy
tôi đã cố hết sức mà vỗ tay thật to.
Dĩ nhiên nhìn chung, bất cứ hình thức nghệ thuật nào ở trong
trại cũng là một điều kỳ quái. Có thể nói rằng bất cứ ấn tượng nào có liên quan
đến nghệ thuật đều nảy sinh từ cảnh trái ngược ma quái giữa hình thức biểu diễn
với hiện trạng hoang tàn của cuộc sống trong trại. Tôi sẽ không bao giờ quên
tôi đã tỉnh dậy như thế nào từ giấc ngủ vùi mệt lử vào đêm thứ hai của mình ở
Auschwitz - bị khuấy động bởi tiếng nhạc. Người lính canh già tổ chức ăn mừng
gì đó trong phòng của mình, gần với lối vào trại. Giọng nói lè nhè trong cơn
say. Bỗng mọi thứ trở nên im bặt và rồi tiếng đàn vĩ cầm ngân lên giai điệu
buồn bã, cô độc xuyên phủ màn đêm. Tiếng vĩ cầm da diết khiến tôi muốn bật
khóc, bởi vì vào ngày hôm đó, có một người vừa bước sang tuổi 24. Người đó hẳn
giờ này đang nằm trong một khu trại nào đó ở Auschwitz, có thể chỉ cách tôi từ
vài trăm tới một ngàn dặm, nhưng chúng tôi chẳng thể nào gặp được nhau. Người
ấy chính là vợ tôi.
Việc khám phá ra rằng bên trong trại tập trung cũng có bóng dáng
của nghệ thuật có lẽ sẽ khiến cho người bên ngoài ngạc nhiên. Và họ sẽ càng
kinh ngạc khi biết người tù lại còn có thể tìm thấy sự hài hước trong hoàn cảnh
khủng khiếp ấy, dĩ nhiên tâm trạng vui vẻ ấy chỉ xuất hiện trong giây lát rồi
tất cả lại chìm trong bóng đêm vô vọng. Sự hài hước là một loại vũ khí tinh
thần trong cuộc đấu tranh duy trì sự sống. Nó có sức mạnh hơn bất cứ phẩm chất
nào khác, có thể đưa con người vượt lên bất kỳ hoàn cảnh nào, cho dù chỉ là
trong phút chốc. Thực tế tôi đã giúp một anh bạn làm cạnh tôi tại công trường
xây dựng cách phát triển óc hài hước. Chúng tôi hứa với nhau rằng mỗi người ít
nhất phải nghĩ ra một câu chuyện cười mỗi ngày về một việc bất ngờ nào đó có
thể xảy ra khi chúng tôi đã được tự do. Anh ấy là một bác sĩ phẫu thuật và đã
từng làm việc trong một bệnh viện lớn. Thế là có lần tôi khiến anh ấy cười bằng
cách diễn tả việc anh ấy không thể quên được thói quen ở trong trại sau khi đã
trở về với công việc cũ của mình như thế nào. Trong công trường xây dựng (nhất
là khi có giám sát viên đi kiểm tra), tay đốc công sẽ thúc chúng tôi làm việc
nhanh hơn bằng cách hét lên “Làm việc đi! Làm việc đi!”. Vì thế, tôi đã nói với
anh ấy: “Anh nghĩ sao nếu một ngày nào đó, lúc anh trở lại phòng mổ và đang
tiến hành một ca phẫu thuật bụng. Bỗng nhiên một nhân viên chạy ào vào phòng và
thông báo sự xuất hiện của bác sĩ phẫu thuật cấp cao bằng cách hét toáng lên:
“Mổ đi! Mổ đi!”
Đôi khi những người khác cũng sáng tác ra những giấc mơ hài hước
về tương lai, chẳng hạn như câu chuyện về buổi tiệc mà họ được mời đến dự sau
khi đã được giải thoát khỏi trại. Khi xúp được mang ra, họ quên mất mình đang ở
hiện tại, và thế là họ năn nỉ người chủ nhà hãy múc xúp “từ đáy nồi” cho họ.
Nỗ lực phát triển khiếu hài hước và nhìn mọi việc theo cách vui
nhộn là một mánh khoé mà tôi đã học được trong lúc làm chủ nghệ thuật sống. Mặc
dù ở đâu cũng có đau khổ, ở đâu cũng cần khiếu hài hước, nhưng trong trại tập
trung thì càng phải rèn luyện nghệ thuật sống khôi hài. Cơ chế vận hành của nỗi
đau khổ trong con người cũng tương tự như cách vận hành của chất khí. Nếu ta
bơm một số lượng khí nhất định vào một căn phòng trống thì lượng khí đó sẽ lấp
đầy hoàn toàn căn phòng, cho dù căn phòng ấy có lớn đến thế nào chăng nữa.
Tương tự, đau khổ sẽ chế ngự tâm hồn và trí não của một người, cho dù nỗi đau
khổ ấy là lớn hay nhỏ. Như vậy, “kích thước” của đau khổ là hoàn toàn tương
đối.