Ngay cả tại Auschwitz, sự tò
mò vẫn âm thầm hiện hữu và ở một góc đọ nào đó, sự tò mò âm thầm đã giúp chúng
tôi có thể tách mình ra khỏi hiện thực xung quanh, tạo cho mình một vỏ bọc sắt
lạnh và xem tất cả những gì đang diễn ra trước mắt như một khách thể. Lúc này
đây, sự tò mò cũng là một phương pháp phòng vệ. Chúng tôi đều băn khoăn không
biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo, hình phạt nào đang chờ đợi chúng tôi phía
trước; chẳng hạn như hậu quả sau việc chúng tôi đứng giữa trời trong cái giá
lạnh của buổi cuối thu, trần như nhộng và ướt nhẹp sẽ là gì. Trong ít ngày tiếp
theo, sự tò mò của chúng tôi chuyển thành ngạc nhiên - ngạc nhiên rằng chúng
tôi không bị nhiễm lạnh.
Những người mới đến sẽ còn phải ngạc nhiên trước nhiều việc
tương tự như thế. Còn bài học đầu tiên dành cho dân ngành y chúng tôi là: “Các
cuốn sách giáo khoa đều nói dối!”. Ở đâu đó trong sách nói rằng con người không
thể sống mà không ngủ trong một số giờ nhất định. Hoàn toàn sai! Tôi đã từng
tin rằng có một số điều mà tôi không thể làm: tôi không thể ngủ mà không có cái
này hoặc tôi không thể sống với cái kia cái nọ. Đêm đầu tiên ở Auschwitz chúng
tôi đã ngủ trên những chiếc giường được làm từ những sợi dây bện. Trên mỗi
giường (dài chừng 2 đến 2,5 mét) có 9 người ngủ, nằm trực tiếp trên những tấm
ván. 9 người chia nhau 2 tấm chăn. Dĩ nhiên chúng tôi chỉ có thể nằm nghiêng,
chen chúc và rúc vào nhau, điều này giúp chúng tôi đỡ lạnh hơn. Mặc dù bị cấm
mang giày lên giường, song một số người vẫn bí mật dùng thay cho gối bất kể
chúng bị dính đầy bùn đất. Nếu không, mỗi người sẽ phải gối đầu lên khuỷu tay.
Và lúc này giấc ngủ kéo dài đem theo sự lãng quên và xoa dịu nỗi đau trong ít
giờ ngắn ngủi.
Điều đáng nói là chúng tôi thực sự ngạc nhiên trước sức chịu đựng
của chính mình: chúng tôi không thể đánh răng, thiếu vitamin trầm trọng, nhưng
răng lợi của chúng tôi khỏe hơn cả trước đây. Chúng tôi chỉ mặc độc một cái áo
sơ mi trong nửa năm cho đến khi nó rách mướp, không thể hình dung rằng trước đó
từng là những chiếc áo. Chúng tôi không thể tắm rửa trong nhiều ngày vì các
đường ống nước bị đóng băng, nhưng những vết thương và những vết trầy xước trên
da tay đầy cáu bẩn lại không hề bị nhiễm trùng. Hoặc một người từng bị chứng
khó ngủ, trước đây thường giật mình tỉnh giấc chỉ vì một tiếng động nhỏ nhất ở
phòng bên cạnh, thì giờ lại có thể ngủ ngon lành bất kể tiếng ngáy to như sấm
của người nằm cạnh bên.
Nếu có người hỏi liệu câu nói của Dostoevski[7] rằng con người
là một sinh vật có thể thích nghi với mọi hoàn cảnh có đúng không, thì chúng
tôi sẽ trả lời: “Đúng, con người có thể thích nghi với mọi hoàn cảnh, nhưng
đừng hỏi chúng tôi bằng cách nào”. Nhưng các nghiên cứu tâm lý của chúng tôi
khi ấy vẫn chưa đưa chúng tôi đi xa đến thế; những tù nhân chúng tôi vẫn chưa
đạt tới mức độ thích nghi này. Chúng tôi vẫn còn ở chặng đầu tiên trong các
phản ứng tâm lý của mình.
Hầu hết tù nhân đều có ý định tự sát, dù chỉ trong khoảnh khắc.
Ý định này xuất phát từ sự tuyệt vọng, từ hiểm họa thường trực trên đầu chúng
tôi từng ngày, từng giờ, và sự kề cận cái chết mà nhiều người phải chịu đựng.
Từ những luận điểm cá nhân mà tôi sẽ đề cập ở phần sau, vào đêm đầu tiên ở
trại, tôi đã tự hứa với mình rằng tôi sẽ không “đâm đầu vào hàng rào kẽm gai”.
Đó là cách tự tử phổ biến nhất ở trại - chỉ cần chạm vào hàng rào dây kẽm gai
có điện. Đối với tôi, để đưa ra quyết định này hoàn toàn không có gì khó. Chẳng
ích lợi gì việc tự tử cả, bởi vì đối với người tù, nếu tính toán và đong đếm
các cơ hội một cách khách quan thì hy vọng sống là rất ít. Không ai có thể chắc
chắn bất kỳ điều gì. Làm sao họ có thể biết được rằng mình có nằm trong số
người ít ỏi thoát khỏi các đợt thanh trừng tù nhân hay không? Cần nhấn mạnh
rằng các tù nhân tại Auschwitz, trong giai đoạn choáng váng ban đầu, không hề sợ
chết. Thậm chí các phòng hơi ngạt cũng mất đi vẻ đáng sợ của chúng sau vài ngày
đầu ở đây bởi rốt cuộc thì chúng đã ngăn cản được ý định tự sát của tù nhân.
Những người bạn mà tôi gặp sau này đã nói với tôi rằng tôi không
phải là một trong những người bị khủng hoảng vì cú sốc nhập trại. Tôi chỉ cười,
khá thành thật, khi những sự việc sau xảy ra vào buổi sáng sau cái đêm đầu tiên
ở Auschwitz: Bất chấp các quy định nghiêm khắc không được rời khỏi các lán
trại, một đồng hương của tôi đã tới Auschwitz vài tuần trước lén trốn đến lều
của chúng tôi. Anh ấy muốn trấn tĩnh và an ủi chúng tôi nên kể cho chúng tôi
nghe vài chuyện. Anh đã trở nên rất gầy đến nỗi thoạt tiên chúng tôi không nhận
ra anh. Với sự hài hước và thái độ bất chấp, anh vội vàng cho chúng tôi một ít
mẹo: “Đừng lo lắng quá! Đừng sợ các cuộc tuyển chọn! Bác sĩ M (bác sĩ trưởng
thuộc đội SS) thường ít nhiều chiếu cố cho những ai là bác sĩ đấy”. (Điều này
sai; những lời tử tế của bạn tôi là không đúng. Một tù nhân độ 60 tuổi - bác sĩ
chịu trách nhiệm quản lý khu trại giam của tù nhân đã kể cho tôi nghe việc ông
đã van xin bác sĩ M cứu con trai mình khỏi bị đưa tới phòng hơi ngạt nhưng bác
sĩ M đã lạnh lùng từ chối).
“Nhưng có một việc mà tôi tha thiết đề nghị các anh”, anh ấy nói
tiếp, “hãy cạo râu hàng ngày, vào mọi lúc có thể, dù cho phải cạo râu bằng mảnh
kính hay dù các anh có phải cho đi mẩu bánh mì cuối cùng vì nó. Các anh sẽ
trông trẻ hơn và việc cạo râu sẽ làm gò má các anh trông hông hào hơn. Nếu các
anh còn muốn sống, cách duy nhất là hãy chứng tỏ cho bọn lính thấy là mình còn
sức làm việc. Để tôi nói cho nghe, nếu như một tay SS thấy các anh đi cà nhắc
vì bị thương ở gót chân thì ngày hôm sau chắc chắn anh sẽ bị đưa đến phòng hơi
ngạt. Các anh có biết chúng nó nói “Moslem” nghĩa là gì không? Moslem là từ để
chỉ một người chán nản và kiệt sức vì đau ốm, không thể làm việc chân tay nặng
được nữa… Chẳng sớm thì muộn, thường là sớm thôi, các “Moslem” sẽ bị đưa tới
phòng hơi ngạt. Bởi vậy, hãy nhớ: cạo râu, đứng thẳng và đi đứng nhanh nhẹn.
Tất cả các anh đang đứng đây, dù là mới chỉ đến đây 24 giờ, các anh cũng không
phải sợ phòng hơi ngạt, có lẽ trừ anh này”. Rồi anh ta chỉ tay vào tôi và nói:
“Đừng trách tôi nói thẳng nhé”. Quay sang những người khác anh ta đáp lại: “So
với tất cả mọi người thì anh ta là người duy nhất phải sợ cuộc tuyển chọn tiếp
theo. Vậy nên đừng lo lắng gì cả!”.
Và tôi đã cười. Tôi tin rằng bất cứ ai ở vị trí của tôi ngày đó
cũng làm điều tương tự.
Tôi nhớ Lessing[8] đã từng nói: “Có những thứ khiến bạn đánh mất
lý trí hoặc bạn chẳng có gì để mất cả”. Một phản ứng khác thường trong một tình
huống khác thường là một hành vi bình thường. Ngay cả những nhà tâm lý học
chúng tôi cũng cho rằng các phản ứng của con người trong một tình huống bất
thường, như việc bị tống vào nhà thương điên cũng phải bất thường tùy theo mức
độ bình thường của người đó. Phản ứng của một người trước việc nhập trại biểu
hiện một trạng thái khác thường của trí óc, nhưng từ góc độ khoa học, hiện
tượng này được đánh giá là bình thường và như bạn sẽ thấy ở phần sau, nó là
phản ứng bình thường của tâm lý con người trước một hoàn cảnh định sẵn. Những
phản ứng này của các tù nhân, như tôi đã mô tả, đã bắt đầu thay đổi trong ít
ngày. Người tù chuyển từ giai đoạn một sang giai đoạn hai; giai đoạn vô cảm
tương đối, khi anh ta tạo thành một kiểu chết về cảm xúc.
Ngoài những phản ứng đã nói trên, người tù mới đến còn trải qua
những đau đớn về cảm xúc khác nữa, tất cả cảm xúc mà anh ta cố làm dịu đi.
Trước tiên, đó là nỗi nhớ nhung vô tận về tổ ấm gia đình của mình. Cảm xúc này
thường mạnh mẽ đến mức người tù cảm thấy như bị nuốt chửng bởi nỗi day dứt.
Tiếp đến là cảm giác ghê tởm; ghê tởm tất cả những điều xấu xa xung quanh mình,
từ cách con người cư xử với nhau cho đến hình thù gớm ghiếc của tất cả mọi vật
trọng tù.
Hầu hết tù nhân đều được phát một bộ đồng phục rách rưới hơn cả
bộ đồ của con bù nhìn. Giữa các lều trại toàn là rác, càng cố dọn sạch thì càng
thấy nhiều thêm. Theo thông lệ, người mới đến trại thường được cho vào nhóm dọn
dẹp hầm xí và thông cống. Và trong lúc vận chuyển, nếu phân bắn lên mặt người
tù và họ có biểu hiện kinh tởm hoặc cố quệt đi thì cũng sẽ bị Capo cho ăn đấm.
Cho nên họ càng cố nén nhịn ngay cả những phản ứng bình thường.
Giai đoạn đầu, không chịu được cảnh nhìn những người bạn tù ở
các nhóm khác bị trừng phạt, người tù quay mặt đi; anh ta cũng không thể chịu
được việc chứng kiến các bạn tù chạy lên chạy xuống hàng giờ liền trong bùn
theo sự hướng dẫn của các cú đấm. Nhiều ngày, nhiều tuần sau thì mọi việc thay
đổi. Từ tờ mờ sáng, khi trời vẫn còn tối, người tù đã lặng lẽ đứng trước lán
trại, sẵn sàng đi làm. Anh có thể nghe thấy tiếng thét và nhìn thấy một bạn tù
bị đánh ngã, bị dựng dậy và bị đánh quỵ một lần nữa chỉ vì người tù đó bị sốt
nhưng đã báo cáo tại bệnh xá vào lúc không thích hợp. Anh ta bị trừng phạt vì
bị cho rằng trốn việc.
Song người tù nào đã đạt tới giai đoạn hai trong chuỗi phản ứng
tâm lý của mình sẽ không có phản ứng gì cả, dù chỉ là một cái chớp mắt. Vào lúc
ấy, cảm giác của anh đã bị chai sạn và anh thản nhiên chứng kiến cảnh tượng
diễn ra trước mắt. Một ví dụ khác: người tù đang chờ trong trạm xá, hy vọng
được cấp cho hai ngày làm việc nhẹ trong trại vì bị thương, có lẽ anh bị phù nề
và sốt. Anh ta đứng yên trong khi một cậu bé 12 tuổi được khiêng vào. Cậu bé bị
bắt đứng phạt nhiều giờ trong tuyết hoặc phải làm việc bên ngoài với đôi chân
trần bởi vì không có giày cho cậu. Chân cậu bé bị hoại tử vì tê cóng và bác sĩ
gắp từng mẩu hoại tử đen ra khỏi chân cậu, từng miếng từng miếng một. Sợ hãi,
gớm ghiếc và thương cảm là những cảm xúc mà người tù ấy không còn cảm nhận được
nữa. Cảnh những người đau đớn, hấp hối và chết đã trở nên quá quen thuộc với
anh trong suốt nhiều tuần ở trại; chúng không còn có thể khiến anh xúc động
được nữa.
Có một thời gian, tôi ở trong trại dành cho các bệnh nhân bị
sốt. Những bệnh nhân này bị sốt cao và thường trong tình trạng mê sảng, nhiều
người gần như hấp hối. Sau khi một người chết, tôi nhìn những cảnh tượng tiếp
theo mà không hề có chút cảm giác xót xa nào. Từng tù nhân sẽ đến bên cạnh cái
xác vẫn còn ấm đó. Người thì nhặt nhạnh phần khoai tây thừa còn sót lại; người
thì đổi giày của mình lấy đôi giày gỗ của người đã chết, người thì lấy áo,
người thì vui mừng vì có thể lấy được một thứ gì đó - dù chỉ là một sợi dây còn
tốt.
Tôi đã nhìn những cảnh tượng này mà chẳng chút động lòng. Cuối
cùng, tôi gọi “y tá” khiêng cái xác đi. Để khiêng xác, anh ta nắm hai chân của
người đã chết, kéo nó từ tấm ván - vốn là giường của 50 bệnh nhân - rớt xuống
đất, rồi lôi xềnh xệch cái xác trên mặt sàn lồi lõm hướng về phía cửa. Việc
vượt qua hai bậc thềm để bước ra ngoài luôn là điều khó nhọc đối với chúng tôi
bởi hầu như ai cũng đã kiệt sức vì thiếu ăn. Sau vài tháng sống trong trại,
chúng tôi không thể bước lên nổi những bậc thang cao 15 cm này mà không vịn vào
tay vịn để kéo mình lên.
Người bạn tù kéo cái xác lên những bậc thang. Anh ấy khó nhọc lê
thân mình lên trước. Tiếp đến, anh kéo cái xác lên theo: đầu tiên là chân, rồi
đến thân, và cuối cùng - với một tiếng bộp rõ to - cái đầu được kéo giật lên
hai bậc.
Chỗ ở của tôi đối diện với bệnh xá, cạnh bên là một chiếc cửa sổ
nhỏ duy nhất nằm thấp ở gần sàn. Lúc này tôi đang xì xụp húp chén xúp nóng được
giữ chặt trong hai bàn tay tê cóng. Tôi vô tình nhìn ra cửa. Cái xác vừa mới bị
vứt ra ngoài đang nhìn chằm chằm về phía tôi với đôi mắt trắng dã. Hai tiếng
đồng hồ trước tôi còn nói chuyện với ông ấy, vậy mà… Tôi tiếp tục húp chén xúp
của mình.
Nếu sự vô cảm của tôi không khiến tôi bất ngờ - xét về mặt
chuyên môn, thì giờ đây tôi cũng chẳng còn nhớ nổi sự việc này bởi vì có quá ít
cảm xúc liên quan.
Sự thờ ơ, chai sạn cảm xúc là các triệu chứng gia tăng ở giai
đoạn hai trong phản ứng tâm lý của người tù, và cuối cùng anh ta trở nên chai
lỳ trước những màn đánh đập như trút hàng ngày, hàng giờ. Sự chai lỳ giúp người
tù tự tạo cho mình một chiếc vỏ bảo vệ cần thiết.
Chỉ cần phạm phải những lỗi nhỏ nhặt nhất là lập tức chúng tôi
phải hứng chịu những cú đánh trời giáng, đôi khi chẳng có lý do gì cả. Ví dụ,
chúng tôi phải xếp hàng ở công trường để chờ đến lượt nhận bánh mì và có lần,
một người ở sau tôi đứng lệch ra khỏi hàng một chút, và việc không thẳng hàng
đã khiến một lính SS khó chịu. Tôi không biết chuyện gì đang diễn ra ở phía sau
mình cũng như chẳng hiểu nổi người lính SS đó nghĩ gì, thế mà tự nhiên tôi lại
nhận ngay hai cú quất vào đầu. Chỉ đến lúc ấy tôi mới nhìn thấy người lính canh
đang đứng cạnh mình với vây gậy đã đánh vào đầu tôi. Vào lúc ấy, không phải cơn
đau về thể xác khiến tôi cảm thấy bị tổn thương (điều này cũng đúng với một số
người lớn và bọn trẻ con khi bị phạt) mà chính cảm giác đau về tinh thần do bất
công, vô lý mới khiến tôi cảm thấy bị xúc phạm nhất.
Lạ là ở chỗ, có khi một vết hằn trong tâm trí còn khiến người ta
đau đớn hơn cả vết roi trên thân xác. Một lần nọ, tôi phải đứng ngay trên đường
ray xe lửa trong cơn bão tuyết. Bất kể thời tiết thế nào, nhóm của tôi vẫn phải
làm việc không ngừng. Tôi đã làm việc cật lực để sửa đoạn đường ray bởi vì đó
là cách duy nhất giúp tôi giữ ấm. Chỉ có một lần tôi dừng lại để lấy hơi và
đứng tựa vào cái xẻng. Thật không may, đúng lúc ấy tên lính canh quay lại và
nghĩ rằng tôi đã lười biếng. Vết thương mà hắn gây cho tôi không phải từ những
lời nhục mạ hoặc những cú đánh. Có lẽ hắn nghĩ hắn không đáng phải phí lời chửi
một tên tù rách rưới, hốc hác, không ra hình dáng con người đang đứng trước mặt
hắn. Thay vào đó, hắn nhặt một viên đá và chọi tôi. Đối với tôi, hành động này
giống như cách bạn muốn thu hút sự chú ý của một con vật, gọi con vật đó quay
lại làm việc, một sinh vật hầu như chẳng có điểm gì giống với bạn đến nỗi bạn
chẳng cẩn phải trừng phạt nó.
Những cú đánh không làm chúng tôi đau bằng sự nhục mạ. Có lần
chúng tôi phải mang những thanh xà dài và nặng trên đoạn đường đóng băng. Nếu
một người bị trượt chân thì người đó không chỉ gây nguy hiểm cho chính mình mà
còn cho cả những người đang cùng khiêng cây xà với anh ấy. Một người bạn cũ của
tôi bị trật khớp hông bẩm sinh. Nhưng dù vậy, anh ấy vẫn vui vì được làm việc,
bởi vì tàn tật có nghĩa là sẽ phải chết khi cuộc tuyển chọn diễn ra. Anh ấy đi
khập khiễng trên con đường đóng băng với thanh xà nặng, gần như muốn ngã và kéo
theo những người khác với mình. Lúc ấy, tôi đang không phải khiêng cây xà nào
nên đã chạy sang giúp anh ấy mà không nghĩ ngợi gì. Ngay lập tức tôi bị quất
vào lưng, bị quở trách và bị ra lệnh quay về vị trí cũ. Một vài phút trước,
cũng tên lính ấy đã đánh tôi và nói với vẻ trách móc rằng “lũ lợn các người”
không biết tinh thần đồng đội là gì.
Một lần nọ, ở trong rừng, nhiệt độ lúc ấy khoảng âm 16°C, chúng
tôi đang đào phần đất đã bị đóng băng ở phía trên để đặt đường ống nước. Lúc
ấy, sức khỏe của tôi không được tốt. Một quản đốc với đôi má căng tròn hồng hào
đến bên cạnh. Khuôn mặt của hắn khiến tôi liên tưởng đến cái đầu heo. Tôi nhìn
thấy tay hắn được ủ ấm trong đôi găng tay ấm áp. Hắn quan sát tôi một lúc. Tôi
biết rằng thế nào mình cũng gặp rắc rối bởi vì đống đất mà tôi đào cho biết
tiến độ công việc của tôi không tốt.
Rồi hắn cũng lên tiếng:
- Đồ con lợn, tao đã quan sát mày cả buổi! Giờ tao sẽ dạy cho
mày cách làm việc! Cứ đợi cho đến khi mày dùng răng đào thứ đất bẩn thỉu này -
mày rồi cũng sẽ chết như một con vật! Tao sẽ kết thúc cuộc sống của mày chỉ
trong hai ngày thôi! Mày chẳng làm được cái thá gì ở đời cả. Trước đây mày làm
gì hả đồ con lợn? Kinh doanh à?
Tôi định không nói gì. Nhưng tôi phải cẩn trọng với lời đe doạ
sẽ giết tôi, vì vậy tôi đứng thẳng người và nhìn thẳng vào mắt hắn.
- Tôi là bác sĩ chuyên khoa.
- Cái gì? Bác sĩ cơ à? Chắc mày moi được rất nhiều tiền từ mọi
người hả?
- Sự thật thì tôi gần như làm không công trong các bệnh viện
dành cho người nghèo.
Nhưng lúc này thì tôi đã nói quá nhiều. Hắn lao đến và đánh tôi,
la hét như một kẻ điên. Tôi không nhớ rõ hắn đã la hét những gì.
Từ câu chuyện nhỏ nhặt này, tôi muốn cho mọi người biết rằng có
những khoảnh khắc, sự phẫn uất cũng vỡ oà ngay cả với người tù chai sạn nhất -
tôi uất ức không phải vì sự độc ác và những cú đánh của hắn, mà vì hắn đã nhục
mạ tôi. Lúc ấy, tôi tức giận bởi vì tôi phải lắng nghe một gã chẳng biết gì về
cuộc sống của tôi, một gã (tôi phải thú nhận: câu nói mà tôi đã nói với các bạn
tù của mình sau sự việc ấy, đã đem lại cho tôi cảm giác khoái chí của trẻ con)
“thô tục và hung bạo đến nỗi cả y tá ở khu vực bên ngoài ở bệnh viện của tôi
còn không cho phép hắn vào khu vực chờ”.
May thay, nhóm của tôi được một Capo có thiện cảm với tôi quản
lý; hắn ta thích tôi bởi vì trong những lần đi bộ đến công trường, tôi chịu
lắng nghe nhưng câu chuyện yêu đương và các rắc rối trong đời sống hôn nhân của
hắn. Tôi đã tạo ấn tượng với hắn về khả năng phân tích tính cách cũng như việc
đưa ra những lời khuyên tâm lý. Hắn dành cho tôi một sự cảm kích đặc biệt và
điều này có lợi cho tôi rất nhiều. Trong nhiều dịp, hắn đã cho tôi đi cạnh
trong năm hàng đầu của chi đội, mỗi chi đội gồm khoảng 280 người. Sự ưu ái này
rất quan trọng. Chúng tôi phải xếp hàng từ sáng sớm trong khi trời vẫn còn mờ
tối. Ai cũng sợ bị trễ và phải đứng ở những hàng sau. Nếu phải chọn người cho
những công việc vất vả, nhân viên Capo cấp cao sẽ đến và thường chọn những
người mình cần từ hàng phía sau. Những người này phải đi ngay đến một nơi làm
việc khác, nhất là làm những loại việc đáng sợ dưới sự điều khiển của các lính
canh lạ. Thỉnh thoảng, nhân viên Capo cấp cai sẽ chọn những người ở năm hàng
đầu, nhiệm vụ của những người được chọn là bắt những người đang cố tỏ vẻ nhanh
nhẹn. Tất cả sự phản đối và van xin đều bị dập tắt bởi những cú đá, và các nạn
nhân được chọn sẽ bị lùa vào chỗ họp trong tiếng la hét và và những cú đánh.
Tuy nhiên, chỉ cần người lính Capo quản lý nhóm của tôi vẫn còn
muốn trút bầu tâm sự thì sự việc này sẽ không xảy ra với tôi. Tôi đã có một chỗ
an toàn bên cạnh hắn. Ngoài ra còn có một thuận lợi nữa. Giống như các bạn
trọng trại, tôi cũng bị chứng phù nề. Chân của tôi sưng phù và lớp da căng đến
nỗi tôi khó mà gập gối lại được. Tôi buộc phải không cột dây giày, chỉ có như
vậy bàn chân sưng to của tôi mới xỏ vừa vào giày. Không còn đủ chỗ để mang vớ
cho dù tôi có vớ đi nữa. Vì vậy, một phần chân trần của tôi lúc nào cũng ướt và
giày lúc nào cũng đầy tuyết. Dĩ nhiên điều này khiến chân tôi bị tê cóng và nứt
nẻ. Mỗi bước đi là một sự tra tấn. Tuyết đông lạnh quanh giày của chúng tôi
trong suốt chuyến đi băng qua cánh đồng tuyết. Hết người này tới người khác bị
trượt ngã và những người phía sau sẽ ngã đè lên những người phía trước. Thế là
hàng người buộc phải dừng lại một lúc. Một trong những lính canh sẽ chạy tới
giải quyết ngay sự cố, hắn đập báng súng lên những người bị trượt ngã, quát
tháo ra lệnh cho họ mau chóng đứng dậy. Những người đứng ở đầu hàng sẽ ít phải
dừng lại còn những người đi sau sẽ phải vội vã chạy trên đôi chân trần để bắt
kịp mọi người. Tôi rất vui sướng khi được chỉ định là chuyên gia tâm lý riêng
cho ngày Capo và được phép đi ở đầu hàng.
Để đáp trả cho sự tận tuỵ của tôi, mỗi lần chia xúp để ăn trưa
tại công trường, khi tới lượt của tôi, bao giờ hắn cũng múc sâu cái môi đến tận
đáy nồi để vớt cho tôi một ít đậu. Tay Capo này - một cựu quân nhân - thậm chí
còn dám nói với những người quản đốc mà tôi đã gây chuyện rằng hắn biết tôi là
một lao công chăm chỉ. Điều này dĩ nhiên chẳng thể thay đổi ác cảm của tên quản
đốc đối với tôi (một trong nhiều lần tôi thoát chết). Sau chuyện xảy ra với
người quản đốc, ngày hôm sau hắn chuyển tôi qua nhóm làm việc khác.
Có một số quản đốc rất thông cảm với các tù nhân và đã làm hết
sức để giúp cho chúng tôi có điều kiện làm việc, ăn uống dễ chịu hơn, nhất là
ngay tại công trường xây dựng. Nhưng họ vẫn không ngừng nhắc chúng tôi rằng một
lao động bình thường có thể làm gấp mấy lần chúng tôi trong một thời gian ngắn
hơn. Nhưng họ cũng hiểu rằng một công nhân bình thường sẽ không thể sống nổi
chỉ với 325g bánh mì (đó là về mặt lý thuyết - còn về thực tế chúng tôi thường
nhận ít hơn) và chưa tới một lít xúp mỗi ngày; rằng một công nhân bình thường
sẽ không sống trong sự căng thẳng thần kinh mà chúng tôi đang phải chịu, không
có tin tức từ gia đình - những người đã bị gửi sang các trại tập trung khác
hoặc bị cho chết ngạt ngay lập tức; rằng một công nhân bình thường sẽ không bị
cái chết đe doạ liên tục từng ngày, từng giờ. Tôi thậm chí còn cho phép bản
thân nói với một quản đốc tử tế rằng “nếu ông có thể học từ tôi cách vận dụng
trí não trong khoảng thời gian ngắn như việc tôi đang học làm đường này từ ông
thì tôi thật sự nể phục ông”. Nghe vậy, ông ấy chỉ mỉm cười.
Sự vô cảm, biểu hiện chính của giai đoạn hai này là một cơ chế
tự bảo vệ cần thiết. Tất cả mọi nỗ lực đều được tập trung vào một nhiệm vụ duy
nhất: duy trì cuộc sống của mình và bạn tù. Vào buổi tối, trong lúc bị dồn trở
về trại từ nơi làm việc, các tù nhân thường thở dài tự an ủi: “Tốt rồi, lại qua
được một ngày nữa”.
Chúng ta có thể hiểu được rằng tình trạng căng thẳng cùng với sự
tập trung không ngừng vào việc duy trì sự sinh tồn không chỉ vắt kiệt sức lực
mà còn khiến cho đời sống tâm hồn của người tù cũng bị đẩy xuống mức cùng cực.
Nhiều đồng nghiệp của tôi ở trong trại, những người đã được đào tạo về tâm lý
thường nói về “sự thoái bộ” ở người tù - sự lui về hình dạng nguyên sơ hơn của
đời sống tinh thần. Những mong ước và khát khao sẽ trở nên rõ ràng hơn trong
những giấc mơ của người ấy.
Người tù thường mơ thấy gì nhiều nhất? Đó là bánh mì, bánh ngọt,
thuốc lá và những buổi tắm nước nóng. Sự thiếu thốn những nhu cầu đơn giản này
đã khiến tù nhân tìm kiếm sự thoả mãn trong những giấc mơ. Những giấc mơ này có
làm được gì tốt đẹp hay không lại là một chuyện đáng sợ khác; kẻ mơ mộng rồi
cũng phải thức dậy với cuộc sống thực tế trong trại, cùng với sự trái ngược
khủng khiếp giữa đời thực và mộng ảo.
Tôi đã không bao giờ quên được việc mình đã bị đánh thức giữa đêm
bởi tiếng ú ớ của người bạn tù nằm bên, rõ ràng anh ấy đang trong cơn ác mộng.
Bởi luôn thấy thương cảm cho những người đang phải chịu đựng những cơn ác mộng
hay mê sảng nên tôi đã muốn đánh thức người đàn ông tội nghiệp đó dậy. Tôi đưa
tay định lay anh ấy dậy nhưng bỗng nhiên tôi rụt tay lại, lo sợ điều mình sắp
làm. Vào lúc đó, tôi nhận thức rõ một sự thật rằng không có giấc mơ nào, cho dù
có ghê sợ đến mấy, lại đáng sợ bằng thực tế ở trại, vốn đang vây bủa chúng tôi;
vậy mà tôi lại định đưa anh ấy trở lại với thực tế còn khủng khiếp hơn cả ác
mộng kia.
Bởi vì thiếu ăn trầm trọng nên không có gì khó hiểu khi sự thèm
ăn luôn là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong tâm trí của những người tù. Hãy quan
sát các tù nhân khi họ được làm việc gần nhau và không bị giám sát chặt chẽ.
Ngay lập tức họ sẽ bàn về thức ăn. Một người sẽ hỏi người đang làm việc bên
cạnh mình về món ăn yêu thích của người đó. Và rồi họ sẽ trao đổi công thức và
lên thực đơn trong ngày khi được trả tự do và trở về nhà. Họ cứ tiếp tục tưởng
tưởng mọi việc thật chi tiết và câu chuyện chỉ kết thúc khi nhận được lời cảnh
báo được truyền từ trên xuống, thông thường lời cảnh bảo này được truyền dưới
dạng mật khẩu đặc biệt hoặc một con số với hàm ý: “Lính canh đang đến”.
Tôi luôn xem những cuộc bàn tán về thức ăn giữa các bạn tù là
nguy hiểm. Dù rằng việc kích thích cơ thể bằng hình ảnh các món ăn ngon thật
chi tiết và hấp dẫn đã phần nào đó giúp các tù nhân giải toả tâm lý tạm thời,
nhưng nó là một ảo giác, mà nếu xét về mặt tâm lý thì ảo giác chắc chắn là có
hại.
Trong suốt thời gian ở tù sau này, khẩu phần ăn mỗi ngày của
chúng tôi chỉ còn là nước xúp - được phân phát một lần trong ngày kèm với một
mẩu bánh mì. Ngoài bữa ăn đó, chúng tôi còn có một “bữa ăn bổ sung” trong ngày:
hôm thì một mẩu bơ vụn hoặc một lát xúc xích, hôm là một miếng phô-mát, có khi
lại là một chút mật ong hoặc là một thìa mứt. Về dinh dưỡng, chế độ ăn này chắc
chắn không đáp ứng được yêu cầu tối thiểu của cơ thể, nhất là khi các tù nhân
phải lao động chân tay nặng nhọc không nghỉ ngơi, phơi mình trong tiết trời
lạnh buốt không đủ quần áo che người. Những người bị bệnh được “chăm sóc đặc
biệt” - tức là những người được phép nằm ở trong lều trại mà không cần phải rời
trại để đi làm việc - thậm chí còn bị đối xử tệ hơn.