Quyển sách này không hướng
đến việc thuật lại những sự việc, sự kiện lịch sử mà đây là tập sách viết về
những trải nghiệm của cá nhân tôi, cũng là những trải nghiệm mà hàng triệu tù
nhân trong trại tập trung của Phát xít Đức đã phải chịu đựng trong suốt một
khoảng thời gian dài. Đây là câu chuyện trong một trại tập trung, được một
trong số những người sống sót kể lại. Tập sách này không chú trọng những điều
ghê rợn kinh hoàng, vốn được mô tả khá nhiều (tuy rất ít người tin), mà nó viết
về những nỗi dày vò nho nhỏ. Nói cách khác, cuốn sách sẽ tìm cách trả lời câu
hỏi: Các
tù nhân nghĩ về cuộc sống hàng ngày trong trại tập trung như thế nào?
Hầu hết các sự kiện được mô tả ở đây không xảy ra tại các trại
tập trung lớn và nổi tiếng mà ở trong những trại tập trung nhỏ, nơi hầu hết các
sự cách ly thực sự diễn ra. Câu chuyện này không phải nói về nỗi đau và cái
chết của những anh hùng và liệt sĩ, cũng không nói về các Capo nhiều đặc ân -
hay về những tù nhân nổi tiếng. Vì vậy, nó không tập trung nhiều vào nỗi đau
của những con người mạnh mẽ, mà nó tập trung vào những hy sinh, sự giày vò và
cái chết của số đông những nạn nhân vô danh mà không một tài liệu nào ghi nhận.
Họ chính là những người tù thông thường, những người không có dấu hiệu đặc biệt
trên tay áo, và bị các Capo coi thường. Trong khi những tù nhân bình thường này
không đủ ăn hoặc không có gì để ăn thì các Capo không bao giờ biết đói; thực ra
cuộc sống của nhiều Capo trong trại còn tốt hơn cuộc sống bên ngoài của họ.
Chính họ thường gây khó dễ với tù nhân hơn là các lính canh, và cũng chính họ
đánh đập các tù nhân tàn bạo hơn lính SS (Đội bảo vệ của quan Phát xít). Dĩ
nhiên những Capo này chỉ được chọn từ những người tù có tính cách phù hợp với
yêu cầu công việc. Nếu họ không đáp ứng những gì đội ngũ lãnh đạo trông chờ thì
ngay lập tức họ sẽ bị đào thải. Vì vậy, khi được chọn, họ sẽ nhanh chóng trở
nên tàn nhẫn giống những tên lính SS và các trại trưởng. Càng độc ác và tàn
bạo, các Capo càng được cấp trên đánh giá cao.
Những người bên ngoài thường có cái nhìn chưa đúng về cuộc sống
trong trại - họ thường nhìn nhận về cuộc sống của các tù nhân bằng con mắt xót
xa, thương cảm. Họ hoàn toàn không biết rõ về cuộc đấu tranh sinh tồn vô cùng
khắc nghiệt giữa các tù nhân. Đây là một cuộc đấu tranh không ngơi nghỉ vì
miếng ăn hàng ngày, vì sự sống còn, vì lợi ích của bản thân hay vì một người
bạn tù.
Hãy lấy trường hợp vận chuyển tù nhân làm một ví dụ. Việc vận
chuyển thường được thông báo chính thức để đưa một số tù nhân đến một trại
khác; nhưng không khó để dự đoán rằng đích đến của những chuyến đi này có thể
là phòng hơi ngạt. Một nhóm những tù nhân bị bệnh hoặc không còn khả nằng làm
việc sẽ được chọn ra để đưa đến một trại tập trung lớn hơn, nơi có trang bị
phòng hơi ngạt và lò thiêu. Thông cáo tuyển chọn là dấu hiệu báo trước sẽ có
một cuộc ẩu đả hỗn loạn giữa các tù nhân hoặc giữa các nhóm với nhau. Điều quan
trọng là sau những trận quyết chiến sống còn này, tên của một vài tù nhân sẽ
được loại ra khỏi danh sách các nạn nhân, mặc dù mọi người đều biết rõ rằng với
mỗi một người được cứu thoát thì sẽ có một nạn nhân khác bị thế vào.
Có một lượng tù nhân nhất định trên mỗi lượt vận chuyển, nhưng ở
đây số lượng không phải là vấn đề bởi vì mỗi tù nhân chẳng còn lại gì ngoài một
con số. Lúc nhập trại, tất cả giấy giấy tờ cũng như những vật sở hữu của họ đều
đã bị tịch thu (ít ra đây là cách thức ở Auschwitz). Vì vậy, mỗi tù nhân có cơ
hội để nói đại một cái tên hoặc một nghề nghiệp nào đó; và vì nhiều lý do nhiều
người đã làm thế. Những người phụ trách trại chỉ quan tâm đến các số tù. Những
con số này thường được xăm lên da của tù nhân, khâu lên một nơi nào đó trên
quần hoặc áo khoác của họ. Bất cứ lính canh nào muốn hoạnh họe tù nhân thì chỉ
cần liếc nhìn con số ấy (ánh nhìn đó thật đáng sợ); hắn chẳng bao giờ cần hỏi
tên của người tù ấy làm gì.
Trở về với cuộc vận chuyển, ở đây không có thời gian lẫn nhu cầu
xem xét các vấn đề về đạo lý. Mỗi người chỉ có một suy nghĩ trong đầu: cố gắng
sống sót vì gia đình đang chờ mình ở nhà, và cứu các bạn mình. Vì vậy, người đó
sẽ không do dự khi tìm cách dàn xếp cho một tù nhân khác - một “con số” khác -
thế chỗ cho mình trên chuyến vận chuyển đó.
Như tôi đã đề cập trước đó, quy trình chọn ra các Capo là một
quy trình tiêu cực; chỉ những tù nhân hung bạo nhất mới được chọn để làm những
công việc này (mặc dù cũng có những ngoại lệ thú vị). Nhưng ngoài việc tuyển
chọn các Capo được lực lượng SS tiến hành, còn có một loại quá trình tự tuyển
chọn luôn diễn ra giữa các tù nhân. Nhìn chung, chỉ còn những tù nhân như thế
mới có thể sống sót, những người sau nhiều năm lê lết từ trại này sang trại
khác, đã đánh mất mọi cảm thức lương tâm trong cuộc chiến sống còn. Họ sẵn sàng
sử dụng bất cứ cách thức nào, trung thực hay không, thậm chí tàn bạo, trộm cướp
và phản bội bạn bè của họ để giữ lại mạng sống cho mình. Những người được trở
về nhờ vào sự may mắn hoặc một phép màu nào đó hay vì lý do gì đi nữa như chúng
tôi đều biết rằng: những điều tốt đẹp nhất trong chúng tôi đã không bao giờ trở
lại. Đã có nhiều trình thuật về những dữ kiện xảy ra trong các trại tập trung.
Ở đây, các sự việc chỉ có ý nghĩa nếu chúng là một phần trải nghiệm của con
người. Khảo luận sau đây sẽ cố gắng miêu tả bản chất đích thực của các trải
nghiệm ấy. Đối với những bạn tù của tôi, tôi sẽ cố gắng khắc họa những trải
nghiệm của họ theo cách hiểu hiện nay. Và với những người chưa từng ở trại,
những miêu tả của tôi có thể giúp họ hiểu và hiểu rõ hơn những trải nghiệm của
rất ít tù nhân sống sót và đang gặp khó khăn với cuộc sống hiện tại. Thông
thường, họ không muốn nói về những trải nghiệm ấy. Họ không cần một lời giải
thích nào, cũng như những người khác sẽ không thể hiểu được cảm nhận của họ khi
ấy cũng như bây giờ.
Tôi đã nỗ lực trình bày một cách hệ thống về chủ đề này, nhưng
thật sự đây là một việc rất khó, bởi vì tâm lý học cần sự nhận xét khách quan,
khoa học. Liệu những quan sát, nghiên cứu từ một tù nhân có đủ sự khách quan
cần thiết hay không? Những người ở ngoài trại tất nhiên sẽ có cái nhìn khách
quan hơn, nhưng họ lại không có đủ trải nghiệm thực tế để có thể đưa ra nhận
định về chân giá trị từ cuộc sống của những con người từng phải chịu đựng bao
đau đớn cùng cực. Chỉ có người trong trại mới hiểu được. Trong tác phẩm của
mình, tôi cố gắng không áp đặt bất kỳ ý niệm chủ quan nào, và đó là điều thực
sự khó khăn đối với một cuốn sách như thế này. Để nói lên những trải nghiệm rất
riêng của bản thân đôi khi cần phải có dũng khí. Tôi đã định viết cuốn sách này
mà không công bố tên tác giả, chỉ sử dụng số hiệu trong tù của mình. Nhưng khi
bản thảo hoàn thành, tôi nhận thấy rằng, khi công bố sách mà giấu tên người
viết thì cuốn sách sẽ bị giảm phân nửa giá trị. Tôi cần phải chịu trách nhiệm
với đứa con tinh thần của mình, và trước hiện thực lịch sử. Tôi có thể khẳng
định tôi là người không hề thích phô bày sự việc, song trong quá trình thực
hiện tập sách này, tôi giữ quan điểm trung thành với hiện thực lịch sử, không
cắt xén cũng không thêu dệt.
Tôi sẽ nhường phần phán xét cho các bạn - những độc giả đáng
mến. Các bạn có thể tự rút ra những luận điểm lý thuyết khô khan sau khi tìm
hiểu nội dung của cuốn sách. Những luận điểm này có thể góp phần vào việc
nghiên cứu tâm lý của người tù, được tiến hành từ sau Thế chiến thứ nhất; những
luận điểm này cũng không xa lạ với chúng tôi qua “hội chứng dây kẽm gai”. Nhìn
từ góc độ tích cực, Thế chiến thứ hai đã giúp giới nghiên cứu chúng tôi bổ sung
thêm kiến thức về “tâm lý học đại chúng” (xin phép được trích dẫn thuật ngữ khá
nổi tiếng và cũng là tựa đề một cuốn sách của LeBon). Cuộc chiến ngoài đời cũng
đã đem lại cho chúng tôi cả trại tập trung lẫn cuộc chiến của các sợi thần
kinh.
Mục đích tôi viết tập sách này là muốn nói lên những trải nghiệm
của tôi với tư cách là một tù nhân bình thường. Tôi có thể tự hào khi tuyên bố
rằng tôi không được tuyển vào trại với tư cách của một chuyên gia tâm thần hay
như một bác sĩ, ngoại trừ những tuần cuối trong trại. Một số đồng nghiệp của
tôi khá may mắn khi được chọn vào làm việc trong các trạm sơ cứu nóng bức,
thiếu thốn, sử dụng các miếng băng gạc đượng làm từ đống giấy thải. 119.104 là
số hiệu của tôi trong trại, công việc của tôi gắn liền với chiếc xẻng đào đất
và dụng cụ lắp ráp các thanh sắt trên đường ray xe lửa. Có lần, tôi được phân
công đào hầm một mình để tạo đường nước ngầm bên dưới con đường và tôi đã hoàn
thành nhiệm vụ. Với thành tích này, chỉ ngay trước lễ Giáng sinh năm 1944, tôi
đã được tưởng thưởng một món quà mà mọi người thường gọi là “phiếu ưu đãi”.
Những phiếu này do một công ty xây dựng phát hành, chúng tôi buộc phải làm việc
cho công ty này như những nô lệ. Tiền công mỗi ngày của mỗi tù nhân sẽ được trả
cho các trại trưởng, có khi được thanh toán dưới dạng những tấm phiếu ưu đãi.
Mỗi tấm phiếu này có giá trị tương đương với 50 xu Đức thời đó và có thể dùng
để đổi lấy sáu điều thuốc, nhưng thường là sau nhiều tuần lao động cực nhọc
những tấm phiếu này mới đến tay chúng tôi, và đôi khi chúng không còn hiệu lực
nữa. Tôi tự hào trở thành người sở hữu những tấm phiếu có giá trị tương đương
12 điếu thuốc. Nhưng quan trọng hơn là những điếu thuốc có thể đổi được 12 phần
xúp, và 12 phần xúp thực sự giúp tôi chống chọi với cơn đói.
Thực ra, đặc quyền hút thuốc được dành cho các Capo - những
người có được mức phiếu tiêu chuẩn mỗi tuần; hoặc có thể dành cho một tù nhân
làm quản đốc trong nhà kho hoặc phân xưởng, được nhận một số điếu thuốc để làm
những công việc nguy hiểm. Trường hợp ngoại lệ duy nhất là dành cho những người
đã mất đi ý chí sinh tồn và muốn “tận hưởng” những ngày cuối cùng. Vì vậy, khi
chúng tôi nhìn thấy một người đang được bao quanh bởi làn khói thuốc mờ đục như
chìm trong cõi vô thức thì chúng tôi biết rằng anh ấy đã từ bỏ niềm tin, và một
khi niềm tin ấy đã mất đi thì lòng ham sống cũng không còn nữa.
Khi kiểm tra vô số tài liệu được tích lũy từ nhiều quan sát và
trải nghiệm của các tù nhân, ta sẽ thấy rõ ba giai đoạn phản ứng tinh thần của
người tù đối với cuộc sống trong trại: giai đoạn đầu sau khi nhập trại; giai
đoạn khi đã quen với cuộc sống trong trại; và giai đoạn sau khi được thả tự do.
Triệu chứng đặc trưng cho giai đoạn đầu là việc bị sốc. Trong
một số hoàn cảnh nhất định, cú sốc diễn ra trước cả khi các tù nhân nhập trại.
Tôi sẽ đưa ra ví dụ về việc nhập trại của tôi:
Một nghìn năm trăm người được vận chuyển bằng xe lửa trong nhiều
ngày đêm: có tám mươi người ở mỗi toa xe. Tất cả đều phải ngồi lên hành lý của
mình - đây là số tài sản cá nhân ít ỏi còn sót lại. Các toa xe chật đến nỗi ánh
bình minh xám xịt chỉ có thể xuyên vào khe hở ở phía trên cửa sổ. Mọi người đều
mong muốn chuyến xe sẽ đưa họ đến một nhà máy sản xuất vũ khí - nơi họ sẽ được
làm việc như những lao động bắt buộc. Chúng tôi không biết mình còn đang ở
Silessia hay đã đến Ba Lan rồi. Tiếng rít của động cơ thật quái đản, giống như
một tiếng cầu cứu được gửi ra từ chuyến đi bất hạnh đang hướng đến đại ngục.
Chiếc xe đột nhiên chuyển hướng, rõ ràng nó đang tới gần trạm. Thình lình, một
tiếng khóc bật lên từ giữa những con người đang lo lắng: “Có bảng hiệu kìa,
Auschwitz!”. Tim tất cả mọi người như ngừng đập vào lúc ấy. Auschwitz - một cái
tên gợi lên tất cả những gì khủng khiếp nhất: phòng hơi ngạt, lò thiêu, sự chết
chóc. Chiếc xe ì ạch trên đường như thể nó muốn cho hành khách của mình tránh
được càng lâu càng tốt cái thực tại đáng sợ đang ùa đến: Auschwitz!
Bóng đêm dần khuất dạng, những đường nét của một trại giam khổng
lồ dần hiện ra: hàng rào kẽm gai lưới điện; những tháp canh; những chiếc đèn
pha; và hàng dãy những người ăn mặc rách rưới lờ mờ hiện lên trong buổi hừng
đông u ám, lê bước trên những con đường hoang phế đến một nơi mà chúng tôi
không hề biết. Có những tiếng la hét và tiếng còi ra lệnh. Chúng tôi không hiểu
gì cả. Trí tưởng tượng của tôi hình dung ra chiếc giá treo cổ với những xác
người đang giãy giụa. Tôi khiếp sợ, nhưng cũng chẳng sao, bởi vì từ từ rồi
chúng tôi cũng phải quen với cảnh khiếp sợ và ghê rợn ấy thôi.
Cuối cùng, chúng tôi tiến vào trạm. Không gian yên ắng trước đó
đã bị phá vỡ bởi nhiều tiếng quát tháo ra lệnh. Kể từ đây, chúng tôi sẽ phải
nghe những âm thanh khản đục, gào thét không ngừng vọng ra từ tất cả các trại.
Những âm thanh này nghe như tiếng thét cuối cùng của nạn nhân, nhưng có phần
còn thảm thiết hơn thế nữa. Nó là âm thanh gay gắt, khản đục, như thể được phát
ra từ cổ họng của một người cứ phải rên thét mãi, một người đã bị tra tấn, hành
hạ đến mức chết đi sống lại không biết đã bao nhiêu lần. Cửa mở, một số tù nhân
bên trong trại ùa đến. Họ mặc những bộ đồng phục có sọc vằn, đầu cạo trọc,
nhưng trông họ khá khỏe mạnh. Các tù nhân ở đây đến từ các quốc gia châu Âu
khác nhau, có người chỉ biết tiếng mẹ để của mình, vì thế họ cố gắng trao đổi
với nhau bằng ngôn ngữ riêng của mình. Trong hoàn cảnh cận kề cái chết này,
những giọng nói đa quốc gia ấy khiến tôi cảm thấy tức cười, thậm chí kỳ quái.
Giống như người chết đuối nắm được một khúc cây, tính lạc quan bẩm sinh của tôi
(thật may mắn là trong những tình huống tuyệt vọng nhất, phẩm chất này trong
tôi thường xuất hiện) đưa tôi đến suy nghĩ: Những tù nhân này trông hoàn toàn
khỏe mạnh, họ có vẻ khá thoải mái và thậm chí còn cười đùa được. Biết đâu mình
cũng sẽ được như họ.
Trong tâm lý học, đây là một trạng thái được gọi là chứng “ảo
tưởng miễn tội”. Người bị kết án, trước khi bị hành quyết, có ảo tưởng rằng
mình sẽ được ân xá vào phút cuối. Chúng tôi cũng cố bám víu vào tia hy vọng ấy
và tin rằng sự việc cũng sẽ không đến nỗi quá tệ. Việc nhìn thấy đôi má hồng
hào, khuôn mặt đầy đặn của những tù nhân này là khích lệ đáng kể đối với chúng
tôi. Sau này chúng tôi mới biết chút ít rằng họ là những người được chọn để
thành lập một đội đặc biệt, trong nhiều năm chuyên tiếp nhận các tù nhân mới
được chuyển vào trại mỗi ngày với số lượng và tần suất càng tăng. Những người
thuộc đội kiểm tra này chịu trách nhiệm lục soát những người mới đến bao gồm cả
hành lý, vật dụng quý giá và nữ trang mà những người bị bắt đã lén mang theo.
Như vậy, những đồ vật độc đáo bằng vàng, bạc, bạch kim và kim cương không chỉ
nằm trong những kho lưu trữ chiến lợi phẩm của Đức quốc xã mà còn ở trong tay
của lính SS.
Một ngàn rưỡi người bị giam trong một khu được xây dựng có sức
chứa tối đa khoảng hai trăm người. Chúng tôi lạnh và đói. Không đủ chỗ cho mỗi
người ngồi trên nền đất trống, nói chi chỗ đề ngả lưng. Khẩu phần ăn của chúng
tôi trong suốt bốn ngày chỉ là một mẩu bánh mì ít ỏi. Rồi tôi nghe các tù nhân
lâu năm đảm trách việc trông coi trại mặc cả với một người trong nhóm tiếp nhận
về một cái kẹp cà vạt bằng bạch kim đính kim cương. Đến cả những chiến lợi phẩm
cuối cùng họ chia nhau cũng được dùng để đổi lấy rượu - rượu sơ-náp[6]. Tôi
không nhớ rõ cần bao nhiêu ngàn mác Đức để đổi lấy lượng rượu sơ-náp đủ cho một
“tối vui vẻ” nữa, nhưng tôi biết rõ rằng các tù nhân lâu năm đó cần rượu
sơ-nap. Trong những hoàn cảnh như thế này, ai có thể trách họ về việc say sưa
chứ? Có một nhóm tù nhân khác được lính SS cung cấp rượu không hạn chế: họ là
những người được tuyển dụng làm việc trong các phòng hơi ngạt và lò thiêu. Họ
biết rõ một ngày nào đó họ sẽ bị thay thế bởi một nhóm khác và phải rời bỏ vai
trò kẻ hành quyết miễn cưỡng để chính họ trở thành nạn nhân.
Hầu như mọi người đi cùng tôi trong chuyến xe tử thần ấy đều
sống trong ảo tưởng rằng họ sẽ được ân xá, rằng mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.
Chúng tôi đã không nhận thấy sự thật trần trụi đằng sau những cảnh tượng nối
tiếp ngay sau đó. Chúng tôi bị yêu cầu để lại hành lý trong xe và bước xuống
xếp thành hai hàng - phụ nữ một bên, đàn ông một bên - để một tên lính SS cấp
cao kiểm tra chúng tôi. Giờ đây nghĩ lại, tôi vẫn ngạc nhiên vì khi đó tôi đã
có đủ can đảm để giấu chiếc ba lô vào bên trong chiếc áo khoác. Từng người một
trong hàng bị lục soát. Thật nguy hiểm nếu một lính SS nào đó phát hiện chiếc
ba lô của tôi. Kinh nghiệm cho tôi biết, nếu bị lộ, ít nhất tôi sẽ bị đánh tơi
tả. Theo bản năng, tôi thẳng người tiến đến chỗ tên lính chịu trách nhiệm kiểm
soát tù nhân để hắn không chú ý đến dáng vẻ nặng nhọc do chiếc ba lô của tôi
gây ra. Rồi tôi cũng đối mặt với hắn. Hắn có dáng người cao ốm, vừa vặn trong
bộ đồng phục mới nguyên. Bộ dạng của hắn hoàn toàn trái ngược với chúng tôi -
những kẻ ăn mặc xốc xếch và dơ dáy sau chuyến đi dài! Với vẻ mặt hoàn toàn lãnh
đạm, tay trái đỡ lấy khuỷu tay phải, hắn thờ ơ chỉ ngón trỏ vào phía bên trái
hoặc bên phải, nhưng đa phần hắn thường chỉ về bên trái. Không một ai trong
chúng tôi khi ấy hiểu được ý nghĩa tai họa đằng sau cái chỉ tay của tên lính.
Rồi cũng đến lượt tôi. Có người nói thầm với tôi rằng phía bên
phải là cho những người sẽ được làm việc, còn phía bên trái là cho những người
bệnh và những người không có khả năng lao động - những người này sẽ được đưa
đến những khu trại đặc biệt. Tôi chỉ biết để mọi việc tự diễn ra, và rồi sự
việc đầu tiên cũng đến. Chiếc ba lô nặng làm tôi hơi nghiêng về bên trái, nhưng
tôi cố gắng đứng thẳng người. Tên lính SS nhìn tôi một lượt, có vẻ như hắn hơi
ngập ngừng trước khi đặt hai tay lên vai tôi. Tôi gồng hết sức để tỏ ra nhanh
nhẹn, hắn chầm chậm xoay người tôi cho đến khi mặt tôi hướng về phía bên phải,
và rồi tôi thẳng bước về phía đó.
Cuối cùng, đến buổi chiều, chúng tôi cũng được biết ý nghĩa của
“trò chơi chỉ chỏ” ban sáng. Đó là sự phán xét đầu tiên quyết định sự sống còn
của chúng tôi, nó có nghĩa là cái chết. Bản án được thực thi trong vòng vài giờ
sau đó. Những người bị đưa qua phía bên trái được dẫn thẳng từ trại tới lò
thiêu. Theo một người làm việc ở đó kể lại, tôi được biết rằng những khu nhà
được dùng làm lò thiêu có viết chữ “phòng tắm” ở ngay trước cửa bằng nhiều thứ
tiếng châu Âu. Ở lối vào, mỗi tù nhân được đưa cho một cục xà phòng, và những
sự việc diễn ra tiếp sau đó có lẽ tôi không cần thiết phải nói tới nữa. Nhiều
tài liệu đã viết về cảnh tượng khủng khiếp này rồi.
Chúng tôi - số người ít ỏi đã thoát chết trong chuyến đi - đã
biết được sự thật vào chiều hôm ấy. Tôi hỏi một tù nhân vốn đã ở đó lâu năm về
nơi mà P. - người đồng nghiệp và là bạn của tôi được đưa đi.
- Anh ấy bị chuyển qua phía bên trái đúng không?
- Vâng! Tôi trả lời.
- Vậy thì anh có thể thấy anh ấy ở đằng kia.
- Ở đâu? - Một bàn tay chỉ về ống khói cách đó vài trăm mét, một
cột lửa bùng lên trên bầu trời xám xịt của Ba Lan và nhanh chóng bốc lên những
đám khói đầy sát khí.
- Đó là nơi bạn của anh ở, anh ấy đang bay đến Thiên đường. -
Nhưng tôi vẫn không thể hiểu cho đến khi người đó nói thẳng sự việc cho tôi
nghe.
Nhưng tôi không nói về những con người đã không bao giờ trở về
nữa, tôi đang nói về những người ở lại. Là nhà tâm lý học, tôi biết rằng chúng
tôi đã trải qua một chặng đường dài kể từ lúc bước xuống nhà ga vào lúc sáng
sớm cho đến đêm đầu tiên ở trại.
Một nhóm lính SS có trang bị súng áp giải chúng tôi đi từ trạm
xe lửa, qua hàng rào điện, bước vào trại để đến phòng vệ sinh; đối với những
người đã vượt qua kỳ tuyển chọn đầu tiên, đó thực sự là một trận gột rửa. Một
lần nữa, ảo tưởng về sự ân xá càng được củng cố. Ấn tượng ban đầu của chúng tôi
về lính SS ở đây là dường như họ không có vẻ đáng sợ, mà thậm chí là còn dễ gần
nữa. Chẳng mấy chốc chúng tôi tìm ra lý do đằng sau sự “dễ mến” đáng ngờ đó. Đó
là vì những chiếc đồng hồ trên cổ tay của chúng tôi. Họ muốn thuyết phục chúng
tôi đưa cho họ. Liệu chúng tôi có thể không giao nộp tài sản của mình được sao;
và tại sao những người tốt bụng ấy lại không được có chiếc đồng hồ cơ chứ? Có
thể một ngày nào đó anh ấy sẽ giúp lại chúng tôi.
Chúng tôi chờ trong một nhà kho nom có vẻ giống như phòng chờ để
vào khu vực tẩy uế. Nhóm lính SS xuất hiện, bọn họ trải ra một tấm khăn và ra
lệnh cho chúng tôi phải bỏ tất cả tài sản, đồng hồ và của cải vào đó. Vẫn còn
một số tù nhân ngây thơ trong chúng tôi hỏi rằng họ có thể giữ lại chiếc nhẫn
cưới, miếng mề đay hoặc một vật may mắn không. Lúc này chưa ai hiểu được rằng
mọi thứ đều sẽ bị tước đoạt.
Tôi cố gắng kết bạn với một trong số các tù nhân cũ. Lén đến gần
ông ta, tôi chỉ vào cuộn giấy ở trong túi áo khoác của mình và nói: “Này anh,
đây là bản thảo của một cuốn sách khoa học. Tôi biết anh sẽ nói rằng tôi nên
cám ơn Chúa vì còn sống, rằng được thế này là may mắn lắm rồi. Nhưng tôi không
cầm lòng được, tôi phải giữ bản thảo này bằng bất cứ giá nào, nó chứa đựng công
trình nghiên cứu cả đời tôi. Anh có hiểu không?”.
Đúng vậy, anh ta bắt đầu hiểu ra. Một nụ cười từ từ nhếch lên
trên khuôn mặt anh ta, lúc đầu có vẻ thương hại, rồi dần dần chuyển thành chế
nhạo, lăng mạ. Cuối cùng hắn ném vào mặt tôi một từ để trả lời - một từ nằm
trong từ điển của các tù nhân trong trại: “Cứt!”. Vào lúc đó, tôi đã nhìn ra sự
thật trần trụi, và đã đi đến một quyết định đánh giấu giai đoạn đầu trong phản
ứng tâm lý của tôi: từ bỏ toàn bộ cuộc đời trước kia của mình.
Bỗng nhiên, những tiếng thét ra lệnh một lần nữa vang lên khiến
cho nhóm tù nhân chúng tôi vốn đã tái nhợt vì kinh hoàng càng trở nên khiếp đảm
tột độ. Chúng tôi bị lùa tới căn phòng chờ trước khi tắm, tập hợp quanh một tên
lính SS đã đợi sẵn ở đó. Hắn nói: “Cho chúng mày hai phút, và sẽ tính giờ bằng
đồng hồ của tao. Trong hai phút, chúng mày phải cởi hết quần áo ra và ném xuống
chân. Không được mang thứ gì theo người ngoại trừ giày, thắt lưng, dây đeo
quần, và có thể là một cái dây buộc. Bắt đầu đếm đây - bắt đầu”.
Không một chút ngập ngừng, mọi người vội vã lột sạch quần áo.
Khi thời gian gần hết, họ càng căng thẳng hơn và vụng về kéo đồ lót, thắt lưng
và dây giày. Rồi chúng tôi nghe thấy những âm thanh đầu tiên của trận roi;
tiếng roi da đang quất xuống những thân thể trần truồng.
Tiếp theo, chúng tôi bị dồn qua một phòng khác để cạo sạch lông
- không chỉ là râu tóc mà ở tất cả mọi khu vực trên cơ thể. Sau đó chúng tôi
xếp hàng trở lại dưới những vòi nước. Chúng tôi hầu như không thể nhận ra nhau;
nhưng một số người thấy nhẹ nhõm hẳn khi để ý thấy nước thực sự nhỏ giọt từ các
vòi phun.
Trong khi chúng tôi đợi tắm, sự trần truồng đã thức tỉnh chúng
tôi: chúng tôi giờ thực sự chẳng còn gì ngoài thân thể trời sinh này - ngay cả
một sợi lông cũng không; tất cả những gì mà chúng tôi sở hữu, theo đúng nghĩa
đen, chỉ là thân thể trần trụi này. Còn gì khác sót lại cho chúng tôi như một
mối liên hệ vật chất với cuộc đời trước đây của mình? Tôi còn cặp kính và cái
thắt lưng; mà thắt lưng thì sau đó tôi đã phải dùng để đổi lấy một mẩu bánh mì.
Những ai còn giữ được giây buộc cảm thấy được an ủi chút ít. Vào
buổi tối nọ, người tù lâu năm phụ trách trại của chúng tôi đã đón tiếp chúng
tôi bằng một bài diễn văn mà trong đó anh tuyên bố rằng (trong khi nói anh ta
chỉ vào xà) sẽ đích thân treo cổ bất cứ người nào khâu tiền hay đá quý vào dây
buộc của mình “dưới cái xà đó”. Anh ta tự hào giải thích rằng luật của trại cho
phép một người đã bám trụ ở đây lâu năm như anh ta cái quyền đó.
Còn những câu chuyện xoay quanh đôi giày của chúng tôi cũng
không hề đơn giản. Mặc dù chúng tôi được phép giữ chúng, nhưng những người có
giày còn khá tốt cuối cùng cũng phải đổi lấy loại giày không vừa khác. Rắc rối
thực sự dành cho những tù nhân nào đã nghe theo lời khuyên có vẻ thiện chí (khi
ở trong phòng chờ) của các tù nhân lâu năm, cắt ngắn ủng bằng cách bỏ đi phần
ống trên rồi dùng xà phòng làm trơn vết cắt để che giấu. Bọn lính SS dường như
chỉ chờ có thế. Tất cả những người bị nghi làm việc này được đưa vào trong một
phòng nhỏ kế bên. Một lúc sau chúng tôi nghe thấy tiếng roi da, và tiếng thét
của những người bị đánh. Và lần này thì nó kéo dài khá lâu.
Thế là những ảo tưởng mà chúng tôi mường tượng trên xe đã bị
triệt tiêu từng cái một. Điều bất ngờ là tới lúc đó, hầu hết chúng tôi đều bị
xâm chiếm bởi một cảm giác hài hước. Chúng tôi biết rằng mình chẳng có gì để
mất trừ cái sinh mạng trần truồng lố bịch này. Khi các vói nước bắt đầu phun,
tất cả chúng tôi đã cố gắng vui đùa, về chính mình và về những người khác. Rốt
cuộc thì nước thật sự đã chảy xuống từ các đường ống!
Không hiểu sao chúng tôi lại cảm thấy nực cười trước cảnh huống
ấy, mặt khác trong tâm trí chúng tôi vẫn ngầm dấy lên sự tò mò. Tôi đã từng
trải qua cảm giác này trước đây, đây là phản ứng của bản năng của cơ thể trước
những tình huống lạ lùng nào đó. Khi tính mạng của tôi có lần bị nguy hiểm bởi
một tai nạn leo trèo, tôi chỉ có một cảm giác duy nhất trong thời khắc quan
trọng ấy: sự tò mò, tò mò xem tôi sẽ thoát được an toàn hay là bị nứt sọ hoặc
bị vài chấn thương khác.