NHẤT MỘNG VƯƠNG

Chương 3. Trấn Yên Tử, Một Đôi Huynh Đệ


1 năm

trướctiếp

Trấn Yên Tử vốn là nơi phồn hoa bao đời, đáng tiếc thay ngày nay nhà Mạc dừng vó ngựa nơi đây, than ôi! chỉ tiếc một nơi vốn là phong cảnh tú lệ biến thành nơi hoang tàn ít người qua lại, dân chúng khắp trấn, nghèo nàn không đủ ăn, không đủ mặc. Dù là thế phong cảnh vẫn còn sót lại dấu vết của năm xưa. Cánh rừng hoa mai khoe sắc vàng chói trang, phủ cả một mảnh trời trong trấn, xuân ý bất tận liên miên, chim ca líu lo, yến bay thành đàn, kèm theo tiếng đàn cò không biết từ phương nào, có lẻ là do các nho sĩ lánh đời ẩn cư trên các ngọn núi vắng thương thay thế sông nước thay đổi mà cất lên tiếng đàn này chăng? 

Tiếng đàn u buồn và ão não giống như tiếng khóc thương, vô tình lại kìm hãm cảnh săc thơ mộng này, Trấn Yên Tử vào thời nhà Tiền Nguyên nổi tiếng khắp trong ngoài thành, không người nào không biết không người nào không hay, nổi tiếng là một nơi Thanh kỳ khả ái, ngọn núi Yên Tử Nam Phong, gắn liền với sự tích vua Lý Chiêu Dương dũ bỏ bụi trần quy y tại một gốc cây mai cổ thụ trên đỉnh núi.

Cũng từ chính sự tích này người trong trấn dùng chính cái tên của ngọn núi đặt làm danh xưng cho trấn Yên Tử. 

Ai từng nghe sự tích cây mai nuôi người thì chắc sẽ rõ hàm ý người dân trấn Yên Tử, sống bằng con đường trồng mai, kỳ lạ thay núi yên tử linh thiêng lạ thường các giống mai từ bất kỳ nơi đâu đều dễ dàng mà trồng tại nơi đây. 

Hôm nay là ngày đông chí ngày lạnh nhất của một năm, Yên Tử trấn vốn khí hậu ấm áp, không hiểu năm nay thời thế thay đổi ra sao, lại xuất hiện tuyết rơi, những bông hoa tuyết rơi nhè nhẹ trên các con đường trong trấn.

Xa xa một nhóm hài tử nam có nữ có áo quần hơi xiển màu nhưng đều là loại áo bông tốt, bọn nhỏ quây quần bên đống lửa vừa mới đốt, hồn nhiên hát bài vè:

Chữ trung, chữ hiếu, chữ hoà

Hỏi trong ba chữ, thờ cha chữ nào

Chữ trung thì để thờ cha

Chữ hiếu thờ mẹ, chữ hoà thờ anh.

Đứa bé lớn nhất trong đám chừng 15 tuổi được xưng là đại ca, cậu chính là đầu lĩnh của đám nhóc này, cậu vốn là con của một gã buôn, gia cảnh tốt nhất, áo quần của nó cũng đẹp hơn những hài tử khác, đứa bé đó trống nạnh nhìn mấy người bạn nói: Ta vừa học được một bài vè mới, các ngươi có muốn nghe hay không.

Mấy hài tử khác nghe cậu nói vậy thì thích thú lắm vội nói: ta nghe, ta cũng muốn nghe.

Đứa bé đầu lĩnh nhìn bọn nó cười vui vẻ đọc: bài vè của cậu chỉ vỏn vẹn mười hai câu, đại ý chê trách quan tham, bắt nạt dân lành.

Đứa bên cạnh nó nghe xong thuận miệng hỏi: Đại ca huynh từ đâu biết được bài vè này, chẳng lẻ do vị thúc phụ kia của huynh hay sao.

Đứa bé đầu lĩnh cao ngạo đáp: đương nhiên thúc phụ ta vốn làm quan trong triều, ông còn mua cho ta rất nhiều sách bút khi nào rảnh ta sẽ dẫn các ngươi tới nhà ta chơi.

Ở cách đó không xa, một đứa bé khoảng chừng 12, 13 tuổi khuân mặt lấm lem bẩn thiểu, ngược lại với 

vẻ bẩn thiểu đó, đôi mắt nó sáng trong, vừa nhìn là biết là đứa trẻ vô cùng lanh lợi, dáng người cậu bé gầy yếu, y phục trên người đã rách nhiều chỗ, giữa mùa động tuyết rơi, nhìn thấy mà vô cùng thương sót.

Đến khi nhìn kỹ lại diện mạo đứa trẻ, kỳ lạ thay tóc của cậu không biết có phải do bông tuyết phủ lên không mà hiện lên một màu trắng tinh khác thường, cậu nhìn về lũ nhóc kia, nhìn tới y phục của bọn nhóc, đôi mắt cậu đượm phần ao ước, dù lạnh nhưng cậu không hề run mình lấy một cái, bên cạnh cậu là một hán tử to lớn, tướng người vạm vỡ, diện mạo y uy nghiêm đường đường không làm quan thì cũng là tướng, vậy mà  cử chỉ của y lại ngây ngốc như đứa trẻ mới lớn, cậu bé nghèo vừa nghe đứa bé đầu lĩnh khoe khoang thì không nhịn được nói ngay: có gì hay ho cơ chứ, thúc phụ ngươi làm quan vậy mà ngươi lại lấy bài vè chê trách người làm quan ra đọc không phải ý muốn chửi thúc phụ ngươi hay sao.

Đứa bé đầu lỉnh vốn chỉ muốn khoe khoang, nó làm gì hiểu được hàm ý ẩn trong bài vè, nghe cậu bé bẩn thỉu nhà nghèo kia chế nhạo thì giận lắm.

Đứa bé bên cạnh nó  không kiềm được buột miệng cười, lập tức bị cậu bé đầu lĩnh nhấc ngược đấm cho mấy cái, rụng mất vài cái răng, nhìn tình hình này cũng đoán được đứa bé kia cũng có bản lĩnh trân thực, lại có cái gan không sợ trời không sợ đất.

Ném đứa bé kia đi rồi nó mới lườm cậu bé nhà nghèo, nó liếc qua thấy đại hán sau lưng cậu tướng người uy mãnh nhất thời không dám động thủ, nhưng chẳng lẻ không làm gì, nó nói: Yên Tử Trấn ta đẹp là vậy, sao lại sinh ra thằng nhóc quái thai bẩn thiểu quê mùa như nhà ngươi chứ. 

Cậu  bé nhà nghèo nghe vậy tức giận quát: ai là quái thai chính ngươi mới là kẻ quái thai.

Đứa bé đầu lĩnh cười nói: quái thai chính là ngươi không phải tóc ngươi sinh ra đã trắng khác nào bạch cốt tinh hay sao, phụ mẫu của ngươi sinh ngươi ra đã sợ quá, bỏ ngươi mà đi sao, chỉ có tên hán tử ngu ngốc kia mới chịu làm bạn với ngươi hay sao.

Nó quay qua đám bạn nói tiếp: các ngươi có kẻ nào muốn chơi với nó hay không.

Cả bọn phần là sợ đứa bé đầu lĩnh, phần là chê nó khác lạ, bẩn thiểu, nên trước giờ không có ai muốn chơi với cậu bé nhà nghèo này. 

Cậu bé thà nghe bị chửi là quái thai vẫn nhẫn nhịn nhưng cha mẹ nó là ai nó cũng không hay biết, chỉ có vị ca ca ngốc nuôi nó lớn lên, tình cảm sâu đậm nhường nào, cậu cố nuốt ngược nước mắt, cắn chặt bờ môi nứt nẻ, đến khi sắp bật máu mới nhả ra, cậu chỉ vào đám nhóc kia quát lớn: ca ca ta không hề ngốc, các ngươi mới là kẻ ngốc, ngu ngốc, đại ngốc. 

Tiếng quát của cậu cực lớn, khiến cả bọn giật mình, bọn nó ngơ ngác hỏi lại: bọn ta ngốc.

Cậu bé nghèo đáp: Đúng vậy, các ngươi mới là ngốc! ca ca ta, ngốc làm sao kiếm tiền nuôi được ta, bọn ngươi mới ngốc không làm nên tích sự gì, còn đào hết tiền của phụ mẫu!

Ta cũng không phải yêu quái mà là do ta quá xuất xắc, đặc biệt hơn các ngươi mà thôi! Các ngươi nhìn các ngươi xem người nào cũng giống nhau, thật là không có một chút gì đặc biệt, các ngươi là một  lũ vừa phiền vừa chán.

Lời lẻ của cậu nhóc nghèo mạch lạc, lối suy nghĩ cũng trưởng thành hơn đám bé kia rất nhiều.

Cả đám nghe chửi mà chẳng biết phản bác như nào, đứa nào đứa nấy đều hướng mắt về đứa bé đầu lĩnh

Đứa bé đầu lĩnh cũng giống như bọn chúng tìm mãi không thấy lời hay đổi thành tức giận, quát:

Ngươi dám nói chúng ta như vậy sao, thật là muốn ăn đòn mà, hôm nay các lão tử đang vui không muốn chấp nhặt một thằng yêu quái và cả tên ca ca ngu ngốc của ngươi nữa!

Nghe tới đây cậu bé nhà nghèo kia tài nào có thể nhịn được nữa, cậu lao người lên, quát lớn:

Lũ chết tiệt nhà các ngươi dám nói ca ca ta như vậy, ta giết các ngươi.

Bản tính của cậu chính là vậy, có thể súc phạm cậu, nhưng đụng đến ca ca người mà cậu thương yêu nhất đó là điều tuyệt đối cậu không thể bỏ qua.

Cậu xông lên tính ăn thua với bọn nhỏ này một trận, cậu luôn miệng: ca ca ta không hề ngốc, ta cũng không phải yêu quái.

Cậu bé gầy ốm như vậy làm sao phải là đối thủ của lũ nhóc kia, đương nhiên là bị bọn nhỏ đánh cho một trận, đứa bé đầu lĩnh còn tàn nhẫm bóp lấy cổ cậu mà nhấc lên, cậu chỉ cảm thấy cổ học đau nhói, hơi thở đứt quảng mơ hồ muốn ngất đi. Trước tình thế nguy cấp ca ca cậu điên cuồng lao tới, gã tức giận quát lớn: mau buông đệ đệ, mau buông đệ đệ. 

Ca ca cậu tức giận lập tức giang cho đứa bé đầu lĩnh một đấm ngay chính giữa sống mũi, đứa bé đầu lĩnh đầu óc chóng váng, mũi không ngừng chảy máu, tay nó buông lỏng, bị một đấm đó đánh bay, cậu bé nhà nghèo thuận thế rớt bịch xuống đất, ca ca cậu đưa tay một cái là một đứa bé bị nắm tới, nhấc bổng lên rồi bị gã ném ra xa mấy tượng, đau đớnđến nổi kêu cha gọi mẹ, một vài đứa bé khác nhanh chân chạy thoát, không ngừng hô hào: ỷ lớn hiếp nhỏ, có đứa lại kêu: điên rồi, kẻ điên bị điên rồi.


Những đứa bé thấy đại hán như con mãnh thú vừa thoát ra truồng thì dù đau đến mấy cũng lồm cồm bò dậy, riêng đứa bé đầu lĩnh vẫn nằm đó không dậy nổi.


Cậu bé nghèo khi này mới tỉnh lại, thấy trước mặt là khuân mặt ca ca, đang hốt hoảng, đôi mắt cậu nhoè đi vì đẫm lệ, cậu đẩy hán tử ra quát:

A Giang ca ngốc, để bọn họ đánh chết ta đi, ta là yêu quái, ta không phải đặc biệt mà ta thật sự là yêu quái, cả dân làng đều ghét ta, đến khi ta bình thường lại rồi họ vẫn ghét ta.

Ca hắn ngây ngốc cười cười nói: đệ còn ta, ta mãi bên đệ, ta chơi với đệ, ta chơi với đệ, kệ lũ người vô ơn bọn họ đi. Câu nói này làm gì phải của một người ngốc nói ra, rõ ràng là một người huynh trưởng rất minh mẫn an ủi tiểu đệ.

Cậu nhóc nhào vào lòng ca ca ôm gã mà khóc cậu nói: a giang ca, cả đời này ta cũng sẽ chăm sóc ca ca, làm bạn với ca ca.

Trong mắt người ca ca bừng lên tia sáng rồi nhanh chóng bị thu hồi lại che đậy bởi 2 hàng nước mắt.

Đại hán ôm đệ đệ mình lên, tiến vào căn nhà đổ nát của 2 huynh đệ, cậu bé dường như đã mệt lắm, vừa được ca ca lau chùi vết thương thì đã lăn ra ngủ.

Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, cậu mới phát hiện trên người mình đau đớn lạ thường, ca ca cậu ngồi một bên, tay cầm một bát cháo nóng, nhìn kỹ lại thì thấy đây nào phải cháo, chỉ có đôi ba hạt gạo, còn lại đều là nước lã.

Cậu bé húp xong bát cháo thấy tinh thần sảng khoái mấy phần liền vui vẻ nói:

A giang ca đệ phải qua nhà thầy tư đồ xin chữ, lần này huynh lên rừng một mình nha, buổi chiều chúng ta sẽ cùng đi

Ca ca ngốc nghe cậu căn dặn thì liên tục gật đầu.

Cậu âu yếm nhìn khuân mặt của vị ca ca ngốc cười nói: ca ca nhớ mang về nhiều hoa mai nha, đệ giúp huynh đan một chiếc vòng. 

Vị ca ca nghe thấy vậy thì sắc mặt hớn hở liên tục vỗ tay.

Cậu bé cố nhấc người dậy vết thương hôm trước vẫn còn đau nhói, cậu cố gắng cất bước ra ngoài tiễn ca ca.

Đợi ca ca cậu khuất bóng lúc này cậu mới yên tâm quay đầu bước đi, trên miệng còn treo nụ cười hạnh phúc, cậu vui vẻ nhảy lên nào ngờ toàn thân đau nhói, ngã nhoài trên mặt tuyết. Cũng may là có lớp tuyết nên cậu mới không bị thương nếu là ngày thường thì cú ngã đó cũng đau đớn lắm. Cậu không còn dám nhảy nữa, chỉ nhè nhẹ hát lên từng khúc.

Đó là điều thường ngày 2 huynh đệ họ thường làm, Trong tiểu trấn thường có các tư đồ mở lớp dạy chữ, cậu không có tiền thường phải đứng ngoài khung cửa sổ ngóng vào học trộm, có khi còn bị tư đồ bắt gặp đánh cho mấy trận. 

Câu vốn là đứa bé thông minh học một biết mười, nhiều ông đồ gàn còn thua cả cậu. Một đứa bé mà giỏi hơn thầy nghĩ cũng hiếm có cỡ nào.

Còn về ca ca cậu mỗi sáng sẽ lên rừng đốn củi đem đi bán, khi lại giúp địa chủ chăm cây, mỗi ngày gánh nước từ các khe suối đem về tưới cây, từ đó nhận được vài đồng bạc ít ỏi của địa chủ, có khi nguy hiểm gặp phải lũ sói đói, may mắn là gã khẻ mạnh lạ thường không hề sợ lũ sói đói, hôm nào may mắn còn giết được vài con đem đi bán, hai huynh đệ những ngày đó lại được ăn no hơn đôi chút.

Cánh rừng mai mà a giang mỗi ngày làm nằm ngay dưới chân núi Yên Tử, cả cánh rừng đều là loại mai Tứ Quý, loại mai này cũng chỗ hoa vàng nhưng sau khi cánh hoa rụng, đài hoa còn lại năm cánh hoa màu đỏ, với nhụy hoa và ba hạt màu đen nhỏ như hạt đậu. Đi sâu vào rừng may mắn còn có thể nhìn thấy loại mai Yên Tử, hay còn gọi là mai hoàng đế, tên của nó gắn liền với sự tích vua Chiêu Dương đắc đạo tu thành chính quả, trước khi trở thành phật ông gieo xuống một giống mai vàng có chín cánh, chín cánh mai đều nhau có màu vàng óng mỡ gà vô cùng lộng lẫy. A giang đã rời nhà hơn 2 canh giờ, chàng ngồi xổm trên một tảng đá cạnh khe suối, trên chán mồ hôi từng hột từng hột to như hạt đậu, gã nghỉ ngơi một chập, chợt nhớ tới lời ái minh nói: ca ca nhớ mang về nhiều hoa mai nha, đệ giúp huynh đan một chiếc vòng. Gã vội đức dậy tiến sâu vào rừng nơi đây trồng rất nhiều mai Yên Tử, Gã mới đi được mấy mươi trượng

bỗng nghe từ khe suối truyền đến tiếng người nói chuyện, ở nới rừng sâu này nghe được có người ở đây nói chuyện thì có chín thành là chuyện bất hảo, ban đầu a giang toan mặc kệ nhưng lại nghe loáng thoáng có người nói nhắc tới Bạch gia trang. Sự hiếu kỳ của gã nổi lên bèn rón rén tiến tới gần quan sát, gã nấp sau một thân cây mai to, ngó về phía đám người đang nói chuyện, phía trước không xa là sáu bóng người, năm người thân phận bí ẩn tất cả đều che khăn bịt mặt, năm người bọn họ đang vây lấy một trung niên đại hán vào giữa, dưới đất còn có mấy cái xác, vết máu hãy còn chưa khô, biết là vừa mới bị sáu người kia giết chết. Trên người trung niên đại hán, trồng chất vết thương, áo quần tả tơi, tóc tai gã rũ xuống. 

A giang trông thấy tình cảnh này thì càng trở nên hiếu kỳ.

Lúc này một tên che mặt quát lớn: các ngươi là người phương nào? Tại sao lại muốn giá hoạ cho giáo phái ta.

Đại hán cười đáp: haha việc mình làm không muốn người khác biết, trừ khi mình đừng làm, ai thèm giá hoạ cho bọn ngươi, trên dưới Bạch gia trang mấy mươi nhân khẩu, đều không phải chết thảm trên tay Tula giáo các ngươi hay sao.

A giang nghe được lời này không khỏi giật mình một cái, Bạch gia trang ở trấn Yên Tử danh tiếng lẫy lừng, xung quanh mấy mươi dặm người nào cũng kính nể, trước nay Bach gia trang hay khoản đãi với tất cả thường dân, bọn họ phát gạo và y phục cho những người nghèo khổ, chính huynh đệ hai người cũng từng tới nơi đó xin cơm.

Tên bịt mặt nghe đại hán nói vậy thì tức giận quát: nói năng bậy bạ, Tula giáo ta trước nay chưa giết người tay không tấc sắt, là tà giáo nhưng không phải ma. Lần này các ngươi muốn giá hoạ cho giáo ta vì mục đích gì mau nói đi, ta còn có thể tha mạng chết cho.

Đại hán ngửa mặt lên trời cười lớn nói: họ Tư ta trước nay vẫn một đời hảo hán, há lại sợ chết, chỉ tiếc đời này của ta lại phải chết dưới tay bọn tà ma ngoại đạo các ngươi.

Khi hắn ngửa mặt lên trời, A Giang liền nhìn rõ diện mạo của gã, trán cao, cặp mắt dài hõm sâu, mũi to, xương hàm rộng, nhân tướng học có nói, người như vậy có phú quý tướng, nhưng mệnh không dài. 

A giang thấy rõ diện mạo gã thần tình kinh hãi, ban nãy a giang nghe giọng của người này đã cảm thấy thập phần quen thuộc, nhưng chưa giám khẳng định nay lại thấy rõ mặt gã lại tự xưng ra họ Tư mới chắc chắn, y bất giác hô nhẹ một tiếng Tư lục ca.

Cũng may đám người kia đang to tiếng bàn bạc sử trí Tư lục ra sao nên không để tâm đến mọi sự trung quanh không thì y sớm đã bị phát hiện.

Một tên bịt mặt khác nói với tên vừa tra khảo Tư Lục: Trương tam ca, đệ thấy tên này cứng cỏi như vậy, quả thật chẳng sợ chết, chi bằng mang về giáo ta từ từ tra khảo, kiểu gì hắn ta cũng phải khai ra.

Người được gọi là Trương tam trầm ngâm giây lát mới đáp: hiện giờ quan phủ đang lùng sục tung tích của người giáo ta, mang hắn theo sợ sẽ xảy ra chuyện ngoài ý muốn. 

Một tên khác trong nhóm không nhịn được nói: chi bằng giết hắn ta đi, đệ vốn đã chướng mắt hắn ta, một câu ma giáo, hai câu ma giáo, thật là khiến người ta tức chết.

Mấy người nghe thấy lời gã có lý, đồng thanh kêu phải lắm, phải lắm.

Trương tam nhìn mấy vị huynh đệ, gã tiến tới sát người Tư Lục, tút phăng trường kiếm ra, kề mũi kiếm lên giữa cổ họng Tư Lục mà nói: Ta cho ngươi một cơ hội cuối, nói ra kẻ đứng đằng sâu thì lập tức được tha mạng. 

Tư Lục đến đứng còn không vững làm gì còn sức mà né tránh, thấy mũi kiếm đặt lên ngay cổ, một hơi lạnh do mũi kiếm truyền khắp cả cơ thể gã. Dù là vậy gã vẫn thản nhiên nói: ta đã rơi vào tay lũ ma giáo các ngươi, chuyện sống chết vốn không còn quan trọng, muốn chém muốn giết tùy ý. 

Gã cười khẩy một tiếng chế diễu nói: làm gì có chuyện sau khi nói ra sẽ được tha mạng cơ chứ. 

Trương tam nhăn mày quát: ngươi nhất quyết không khai ra sao.

Trương tam đợi chờ hồi lâu chẳng thấy Tư lục lên tiếng đáp lời, hắn nhìn sắc diện của Tư Lục kiên định như vậy, thầm khen:"người này quả nhiên có cốt khi, nhưng thật đáng tiếc a". 

Gã nói với giọng điệu tán thưởng: ta rất khâm phục ngươi xứng đáng là một trang nam nhi hảo hán tử, đáng tiếc hai người chúng ta ở hai phe đối lập không thì ta đã mời ngươi cùng đối ẩm mười cân rượu trắng, đáng tiếc a, đáng tiếc a.

Gã làm ra bộ dạng thương sót một người tri kỷ vậy. 

Gã thở dài một tiếng nói tiếp: ngươi nhất quyết không khai ra người phía sau, ta đành phải tiễn ngươi một đoạn vậy, nói rồi y tiến người lên một bước toan xuống tay, đúng lúc mũi kiếm đâm tới, một cành cây to lớn lao nhanh về phía gã, Trương tam không kịp phòng bị, lưỡi kiếm va mạnh vào cành cây tươi, lập tức bị hất văng ra xa mấy mươi trượng, hổ khẩu gã đau nhói, Trương Tam còn chưa kịp định thần, vèo một tiếng, đã thấy một cành cây to lớn khác lao nhanh về phía mình, trong lúc kinh hoãng liền đưa hữu chưởng ra đón đỡ, chỉ nghe răng rắc mấy tiếng, cành cây gãy làm đôi, còn thân hình của gã bị cành cây đánh văng ra xa mấy trương, hai bàn tay lấm tấm vết máu, diễn biến vừa rồi qua ư là nhanh chóng, cả sáu người còn chẳng kịp hiểu ra chuyện gì.

Trương tam nhìn hai bàn tay tím bầm, lỗ chỗ vết máu của mình, gắng nhịn đau nhìn ra hướng hai cành cây lao tới.

Người vừa ném hai cành mai to lớn kia không ai khác chính là A Giang, hắn đứng đó vẻ mặt ung dung nào phải kẻ ngốc gì.

Còn về năm người kia sau cơn bàng hoàng một người vội chạy tới đỡ Trương Tam đứng dậy, bốn người còn lại chẳng nói lời nào lập tức tiến tới vây lấy A Giang vào chính giữa.

Trong sát na vừa rồi người kinh hoàng hơn cả chính là Tư Lục gã còn đang cho rằng mình nhất định phải chết, thật không ngờ được rằng trong lúc đó lại có người ra tay cứu giúp gã. 

Y khom người bái lạy nói: đa tạ ân công cứu mạng, không biết Tư mỗ cùng ân công đã từng gặp qua Tư mỗ chăng.

A giang không đáp, chỉ chăm chú nhìn gã.

Tư lục biết người này vừa rồi đã ra tay cứu mình nhưng ánh mắt gã như đang dò xét trên người mình không khỏi nổi tâm khó chịu, gã lại hỏi: ân công là người phương nào, đã từng gặp qua Tư mỗ chăng, nhưng Tư mỗ tuyệt nhiên chưa từng gặp qua ân công.

Trương tam được lão đệ đỡ đứng dậy, thầm nghĩ: người này kình lực thật là bá đạo, dù là ta sơ kỳ bất ý nhưng mượn hai khúc cây tươi bức ta liên tiếp bại lùi thật sự ghê gớm.

Gã nhìn a giang, thấy khuân mặt chàng cứng đơ như khúc gỗ, đang chăm chú nhìn Tư Lục, thì thầm cảm thấy hiếu kỳ tự hỏi: chẳng lẻ bọn chúng là người một phe, không đúng không đúng biểu hiện của tên họ Tư kia nào phải quen biết với gã ta.

Trương Tam dường như vẫn còn hoảng sợ, gã rung giọng hỏi: các hạ là người phương nào, tại sao lại xen vào chuyện của giáo ta.


Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play

trướctiếp