Tam Thể 2 - Khu Rừng Đen Tối

II.1.2


10 tháng

trướctiếp

“Người Diện Bích thứ ba: Bill Hines.”

Một người Anh lịch thiệp bước lên bục chủ tịch, so với Tyler lạnh lùng và Rey Díaz quật cường, ông ta toát ra vẻ nhã nhặn lễ độ, hướng về toàn thể hội trường gật đầu chào rất phong độ. Đây cũng là một gương mặt quen thuộc trên thế giới, nhưng không có hào quang như hai người trước. Cuộc đời của Hines chia ra làm hai giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn làm khoa học, ông ta là nhà khoa học duy nhất trong lịch sử được đề cử hai giải Nobel hai ngành khác nhau cho cùng một phát minh. Khi cùng nghiên cứu với nhà thần kinh học Yamasuki Keiko, ông ta đã phát hiện, hoạt động tư duy và ghi nhớ của não bộ được tiến hành ở cấp độ lượng tử, chứ không phải cấp độ phân tử như trước đây vẫn nhận định. Phát hiện này đã đẩy cơ chế của não bộ xuống một nấc trong thang cấp độ vi mô, cũng khiến cho tất cả các nghiên cứu về não bộ trước đó trở thành những thứ văn chương bề mặt hời hợt. Phát hiện này cũng chứng minh khả năng xử lý thông tin của não động vật còn cao hơn vài bậc độ lớn so với những gì người ta tưởng tượng trước đó, từ đó làm cho cấu trúc toàn ký của bộ não[23] được nhiều người nêu giả thuyết bấy lâu nay trở thành khả thể. Nhờ phát hiện này, Hines đã được đề cử giải Nobel hai ngành Vật lý và Sinh lý học, nhưng vì phát hiện này quá cấp tiến, nên cả hai giải Nobel đều không thuộc về ông ta, ngược lại Yamasuki Keiko, nay đã trở thành vợ ông ta lại được giải Nobel Sinh lý học và Y học năm đó vì ứng dụng lý thuyết này vào điều trị chứng mất trí nhớ và các bệnh tâm thần. Giai đoạn thứ hai trong cuộc đời Hines là chính trị gia, từng đảm nhiệm chức vụ chủ tịch Liên minh châu Âu một nhiệm kỳ hai năm rưỡi. Hines được công nhận là một nhà chính trị lão luyện, thận trọng, nhưng trong nhiệm kỳ của mình, ông ta không gặp phải nhiều thách thức cần thể hiện tài năng chính trị, đồng thời công việc của Liên minh châu Âu chủ yếu cũng là các công việc điều phối mang tính sự vụ, nên nếu nói về kinh nghiệm đối mặt với khủng hoảng và nguy cơ siêu cấp, ông ta kém hơn rất nhiều so với hai người trước. Nhưng việc lựa chọn Hines rõ ràng là có tính đến tố chất tổng hợp của ông ta trên cả hai phương diện khoa học và chính trị, người có thể kết hợp hai thứ này một cách hoàn mỹ như vậy quả thực không nhiều. 

[23] Phương thức lưu trữ thông tin của não bộ, hiện nay vẫn đang ở giai đoạn giả thuyết. Có thể dựa vào bất cứ bộ phận nào của bộ não để khôi phục lại toàn bộ thông tin lưu trữ trong nó. (Chú thích của bản tiếng Trung.)

Lúc này, ở hàng ghế cuối cùng trong hội trường, nhà thần kinh học nổi tiếng thế giới Yamasuki Keiko đang đắm đuối nhìn chồng đứng trên bục chủ tịch.

Cả hội trường tĩnh lặng như tờ, mọi người đều đang chờ đợi công bố Người Diện Bích cuối cùng. Ba người đầu tiên: Tyler, Rey Díaz, Hines, là kết quả của sự cân bằng và thỏa hiệp giữa các lực lượng chính trị của Mỹ, châu Âu và Thế giới thứ ba, người cuối cùng mới là người đặc biệt thu hút sự chú ý. Nhìn bà Say lại hướng ánh mắt vào tờ giấy kẹp trong tập hồ sơ, La Tập nhanh chóng điểm qua trong đầu những cái tên nổi bật trên thế giới, Người Diện Bích cuối cùng hẳn là một trong những cái tên này. Ánh mắt anh lướt qua bốn hàng ghế, đảo qua những cái lưng ngồi ở hàng ghế đầu tiên, ba người trước đều đi từ đó lên bục chủ tịch, chỉ nhìn phía sau lưng, anh không chắc trong những người mình đã nghĩ đến kia có ai hay không, nhưng Người Diện Bích thứ tư chắc chắn là đang ngồi ở đó.

Bà Say chầm chậm giơ tay phải lên, ánh mắt La Tập chuyển động theo cánh tay ấy. Anh nhận ra, nó không hề chỉ về phía hàng ghế đầu tiên.

Ngón tay bà Say chỉ thẳng vào anh…

“Người Diện Bích thứ tư: La Tập.”

“A, Hubble của tôi!”

Albert Ringier chắp hai tay vào nhau hét lên. Nước mắt rưng rưng trong mắt ông ta phản chiếu ngọn lửa khổng lồ chói mắt đột nhiên xuất hiện phía xa xa, tiếng động ầm ầm phải mấy giây sau mới truyền đến. Vốn dĩ, ông ta và các đồng nghiệp thuộc khoa Thiên văn và Vật lý đang đứng phía sau cất tiếng hoan hô lẽ ra phải được đứng trên đài quan sát dành cho khách quý gần hơn nữa để xem quá trình phóng, nhưng cái tên quan chức NASA chết tiệt kia nói họ không có tư cách ra đó, vì thứ sắp sửa được đưa lên vũ trụ kia đã không còn thuộc về họ nữa. Sau đó, hắn ta lại quay qua mấy vị tướng mặc quân phục chỉnh tề, xun xoe như một con cún, dẫn họ đi qua các trạm gác tới đài quan sát. Ringier và các đồng nghiệp đành phải đến chỗ xa hơn rất nhiều này, cách điểm phóng cả một cái hồ, ở đây có một đồng hồ đếm ngược rất lớn đã được dựng lên từ thế kỷ trước. Khu vực này mở cửa cho công chúng, nhưng giờ là nửa đêm, ngoài các nhà khoa học ra thì cũng chẳng có mấy người đến xem.

Nhìn từ khoảng cách này, cảnh tượng phóng rất giống như cảnh Mặt trời mọc tua nhanh, sau khi tên lửa bắn lên, đèn pha cực sáng không chiếu lên theo, vì vậy không nhìn rõ được thân quả tên lửa khổng lồ, chỉ thấy ngọn lửa rừng rực kia, thế giới đang ẩn mình trong bóng đêm đột nhiên hiển hiện dưới ánh sáng tráng lệ của nó, mặt hồ vốn dĩ đen ngòm như mực gợn lên một lớp sóng vàng rực rỡ, dường như cả nước hồ cũng bị ngọn lửa hừng hực kia đốt cháy. Họ nhìn tên lửa bay lên, khi nó xuyên qua tầng mây mỏng manh, cả nửa bầu trời chuyển sang thứ sắc đỏ chỉ thấy trong cơn mộng ảo, sau đó, nó biến mất trong màn đêm Florida, ánh bình minh ngắn ngủi cũng bị đêm đen dằng dặc nuốt chửng.

Kính viễn vọng không gian Hubble 2 là đời thứ hai của kính viễn vọng Hubble, đường kính của nó từ 4,27 m đã tăng lên 21 m, khả năng quan trắc tăng lên năm mươi lần. Hubble 2 áp dụng công nghệ tổ hợp phiến kính, các tấm kính cấu thành chế tạo trên mặt đất được đưa lên lắp ráp hoàn chỉnh trên quỹ đạo không gian. Muốn đưa toàn bộ các tấm kính vào không gian, cần phải tiến hành mười một lần phóng, đây là lần cuối cùng. Tới thời điểm này, việc lắp ráp kính viễn vọng Hubble 2 ở gần Trạm vũ trụ quốc tế đã sắp hoàn thành. Hai tháng sau, nó sẽ có thể hướng con mắt về cõi sâu thẳm trong vũ trụ.

“Các người là lũ kẻ cướp, lại cướp đi một thứ đẹp đẽ nữa rồi!” Ringier nói với người đàn ông cao lớn đứng bên cạnh mình, ông ta là người duy nhất ở đây không bị cảnh tượng này làm cho xúc động, ông ta đã quan sát quá nhiều lần phóng như vậy rồi, suốt toàn bộ quá trình, ông ta chỉ dựa vào bệ đồng hồ đếm ngược mà hút thuốc. George Fitzroy là đại biểu của phía quân đội sau khi kính viễn vọng Hubble 2 bị trưng dụng, vì hầu hết thời gian ông ta đều mặc thường phục, Ringier không biết quân hàm của ông ta là gì, cũng không bao giờ gọi ông ta là ngài, đối với bọn kẻ cướp, cứ gọi thẳng tên là được rồi.

“Tiến sĩ, trong thời chiến quân đội có quyền trưng dụng tất cả các thiết bị dân dụng. Vả lại, đám người các ông đâu có mài mảnh kính nào của Hubble 2, cũng có thiết kế ra cái đinh ốc nào đâu, toàn là một đám ngồi chơi xơi nước rồi hưởng thành quả, có muốn cằn nhằn cũng chẳng đến lượt các ông đâu.” Fitzroy ngáp dài, đối phó với cái đám mọt sách này quả thực là một chuyện khổ sai.

“Nhưng không có chúng tôi, nó tồn tại cũng chẳng có ý nghĩa gì cả! Thiết bị dân dụng ư? Nó có thể nhìn đến tận rìa vũ trụ, thế mà đám mắt chuột các người lại chỉ muốn nhìn chằm chằm vào cái ngôi sao gần nhất!”

“Tôi đã nói rồi, giờ là thời chiến, đây là cuộc chiến tranh bảo vệ toàn bộ loài người, dù ông có quên mất mình là người Mỹ, ít nhất cũng vẫn còn nhớ mình là con người đấy chứ.”

Ringier hậm hực gật đầu, sau đó lại thở dài lắc đầu: “Nhưng các người mong muốn dùng Hubble 2 quan sát cái gì chứ? Chắc chắn ông cũng biết nó hoàn toàn không có khả năng quan sát được hành tinh Tam Thể.”

Fitzroy thở dài: “Giờ tệ hơn nữa là, công chúng thậm chí còn cho rằng Hubble 2 có thể quan sát được cả hạm đội Tam Thể.”

“Hừm, hay thật đấy.” Ringier nói, gương mặt ông ta mờ mờ trong bóng tối, nhưng Fitzroy có thể cảm nhận được vẻ thích thú của ông ta khi người khác phải vạ, nó khiến Fitzroy thấy khó chịu, cũng giống như cái mùi cay cay mũi đang ngập tràn trong không khí, bị gió lùa từ phía bệ phóng ra phía này.

“Tiến sĩ, ông hẳn cũng biết hậu quả của chuyện này.”

“Nếu công chúng có kỳ vọng như vậy với Hubble 2, có thể họ sẽ đợi đến lúc tận mắt trông thấy ảnh chụp hạm đội Tam Thể thì mới thực sự tin rằng có kẻ thù tồn tại!”

“Ông cho rằng như vậy là hay à?”

“Các ông không giải thích với họ sao?”

“Đương nhiên là đã giải thích rồi! Vì chuyện này mà chúng tôi đã tổ chức bốn buổi họp báo, tôi đã nói đi nói lại: tuy rằng khả năng quan sát của kính viễn vọng không gian Hubble 2 cao gấp mấy chục lần kính viễn vọng lớn nhất hiện đang sử dụng, nhưng nó tuyệt đối không thể thấy được hạm đội Tam Thể. Bọn chúng quá nhỏ! Muốn quan sát mặt trăng của một ngôi sao khác từ Hệ Mặt trời, cũng giống như đứng ở bờ biển phía Tây nước Mỹ quan sát con muỗi ở trên một cái đèn bên bờ Đông vậy, mà hạm đội Tam Thể lại còn chỉ như con vi khuẩn ở trên chân con muỗi đó thôi. Tôi nói như vậy đủ rõ ràng chưa?”

“Rõ ràng lắm rồi.”

“Nhưng công chúng lại muốn nghĩ như vậy, chúng tôi có cách gì đây chứ? Tôi ở vị trí này khá lâu rồi, nhưng chưa từng thấy dự án vũ trụ lớn nào mà không bị bọn họ hiểu lầm cả.”

“Tôi đã nói từ sớm rồi mà, về phương diện dự án vũ trụ, quân đội đã mất đi cả danh dự cơ bản rồi.”

“Nhưng họ lại sẵn sàng tin ông, chẳng phải họ gọi ông là Carl Sagan tái sinh hay sao? Mấy cuốn sách phổ biến kiến thức về khoa học vũ trụ của ông đã kiếm được vô khối tiền, xin hãy đứng ra giúp chúng tôi một tay, đây là mong muốn của quân đội, tôi chính thức đề đạt với ông.”

“Có phải chúng ta đang bàn riêng các điều kiện hay không?”

“Không có điều kiện gì cả! Ông đang thực hiện bổn phận của một công dân Mỹ, à không, của một công dân Trái đất.”

“Tăng thêm thời gian quan sát của tôi lên, không yêu cầu nhiều nhặn gì, nâng lên 20% được không?”

“12,5% như hiện giờ đã là tốt lắm rồi, ai mà biết được sau này có thể đảm bảo được tỷ lệ đó hay không.” Fitzroy chỉ tay về phía bệ phóng, khói mù khi phóng tên lửa đang tản ra, làm bầu trời đêm nhuốm một mảng bẩn bẩn, ánh đèn trên bệ phóng dưới mặt đất chiếu vào trông như vệt sữa dính trên quần bò, thứ mùi khó ngửi kia lại càng nồng nặc hơn. Đầu tên lửa dùng nhiên liệu hydro và oxy lỏng, hẳn là không có mùi gì, có lẽ luồng nhiệt đã đốt cháy thứ gì đó ở gần rãnh dẫn lưu bên dưới bệ phóng, Fitzroy nói tiếp, “Tôi nói cho ông biết, mọi chuyện chắc chắn sẽ càng lúc càng tệ hơn thôi.”

La Tập cảm giác bức vách nghiêng nghiêng bên trên bục chủ tịch đang đè xuống người mình, nhất thời đờ ra tại chỗ, cả hội trường im phăng phắc, đến khi sau lưng anh vang lên một giọng thấp trầm: “Tiến sĩ La Tập, xin mời”, anh mới đờ đẫn đứng dậy, máy móc bước lên phía bục chủ tịch. Trên quãng đường ngắn ngủi đó, La Tập như thể trở lại thuở ấu thơ, trong anh trào dâng lên thứ cảm giác bơ vơ như đứa trẻ chỉ khát khao được nắm tay ai đó mà đi tới, nhưng không một ai đưa tay ra với nó. Anh đi lên bục chủ tịch, đứng bên cạnh Hines, quay người hướng mặt về phía hội trường, đối diện với mấy trăm cặp mắt đang nhìn chằm chằm vào mình, những người ấy là đại diện cho hơn sáu tỷ con người thuộc hơn hai trăm quốc gia trên Trái đất này.

La Tập hoàn toàn không biết phần sau hội nghị có những nội dung gì, anh chỉ biết mình đã đứng ở đó một lúc, rồi được người dẫn đi khỏi bục chủ tịch, cùng với ba Người Diện Bích còn lại ngồi ở chính giữa hàng ghế đầu tiên. Cứ vậy, trong cơn mê man anh đã bỏ lỡ thời khắc lịch sử tuyên bố khởi động kế hoạch Diện Bích.

Không biết bao nhiêu lâu sau, hội nghị dường như đã kết thúc, mọi người bắt đầu đứng dậy tản đi, ba Người Diện Bích ngồi bên tay trái La Tập đã rời khỏi, một người, hình như là Kent, khẽ nói mấy câu gì đó vào tai anh, sau đó cũng đi nốt. Hội trường trống không, chỉ còn bà Tổng thư ký vẫn đứng trên bục chủ tịch, thân hình nhỏ nhắn bên dưới bức vách nghiêng đối mặt với anh từ một khoảng cách khá xa.

“Tiến sĩ La Tập, tôi nghĩ anh có điều muốn hỏi.” Giọng nữ dịu dàng vang vọng trong hội trường trống trải, nghe kỳ ảo như thể vọng xuống từ bầu trời.

“Có nhầm lẫn gì hay không?” La Tập nói, giọng anh nghe cũng kỳ ảo như thế, cảm giác không phải do anh phát ra vậy.

Bà Say đứng trên bục chủ tịch phía xa cất tiếng cười, ý tứ đã rất rõ ràng: Anh nghĩ có thể nhầm lẫn được hay sao?

“Tại sao lại là tôi?” La Tập lại hỏi.

“Anh cần phải tự mình tìm ra câu trả lời.” Bà Say đáp.

“Tôi chỉ là một người bình thường.”

“Trước mối nguy này, tất cả chúng ta đều là người bình thường, nhưng ai cũng có trách nhiệm của riêng mình.”

“Không ai hỏi ý kiến tôi trước cả, tôi hoàn toàn không biết gì về chuyện này.”

Bà Say lại cười cười: “Tên anh đọc âm tiếng Trung có nghĩa là ‘logic’ phải không?”

“Đúng thế.”

“Vậy thì anh hẳn cũng phải hiểu, trước khi sứ mệnh này được giao phó, chúng tôi không thể nào trưng cầu ý kiến những người sắp phải gánh vác được.”

“Tôi từ chối.” La Tập quả quyết nói, không hề nghĩ kỹ về câu nói vừa xong của bà Say.

“Được.”

Câu trả lời bật ra quá nhanh, cơ hồ như nối liền với câu nói của La Tập, còn khiến La Tập nhất thời luống cuống. Anh ngẩn người ra mấy giây, rồi mới nói: “Tôi từ bỏ thân phận Người Diện Bích, từ bỏ tất cả quyền hạn được trao cho, cũng không chấp nhận bất cứ trách nhiệm nào mà các người ép uổng trao cho tôi cả.”

“Được.”

Câu trả lời ngắn gọn vẫn bật ra ngay sau câu nói của La Tập, nhẹ nhàng và lanh lẹ như chuồn chuồn điểm nước, khiến bộ não La Tập vừa mới suy nghĩ được lại rơi vào một khoảng trống rỗng.

“Vậy tôi có thể đi được chưa?” La Tập chỉ còn biết rặn ra mấy chữ như vậy.

“Được, tiến sĩ La Tập, anh có thể làm bất cứ điều gì.”

La Tập quay người bước đi, xuyên qua những hàng ghế trống. Việc chối bỏ thân phận và trách nhiệm của Người Diện Bích dễ dàng một cách bất bình thường mới rồi không hề khiến anh cảm thấy được giải thoát hay an ủi chút nào, giờ đây, thứ đang ngập đầy ý thức anh chỉ là cảm giác hoang đường, không chân thực, tất cả mọi thứ này giống như một vở kịch hậu hiện đại, chẳng có chút logic nào cả.

Lúc đi tới cửa hội trường, La Tập ngoảnh đầu lại nhìn, bà Say vẫn đứng trên bục chủ tịch quan sát anh, ở bên dưới bức vách lớn ấy, thân hình bà trông rất nhỏ bé, rất chơ vơ. Thấy anh ngoảnh lại, bà khẽ gật đầu với anh, mỉm cười.

La Tập xoay người đi tiếp, bên cạnh con lắc Foucault thể hiện chuyển động tự quay của Trái đất treo ở lối ra hội trường, anh gặp Sử Cường và Kent, ngoài ra còn một đám nhân viên an ninh mặc vest đen. Họ nhìn anh với ánh mắt dò hỏi, nhưng trong những ánh mắt đó, có thêm cả sự kính sợ và sùng bái mà trước nay La Tập chưa từng cảm nhận được, kể cả Sử Cường và Kent trước đó vẫn giữ thái độ tương đối tự nhiên với anh, lúc này cũng không hề che giấu mà thể hiện xúc cảm này ra mặt. La Tập không nói không rằng, đi xuyên qua giữa bọn họ. Anh đi qua tiền sảnh rộng thênh thang, nơi này giống như lúc anh tới, chỉ có các nhân viên an ninh mặc đồ đen. Giống như lúc nãy, mỗi khi anh đi qua ai trong số họ, người đó liền thấp giọng nói một câu vào bộ đàm. Khi La Tập ra tới cửa lớn của Trung tâm hội nghị, Sử Cường và Kent chặn anh lại.

“Bên ngoài có thể nguy hiểm, có cần vệ sĩ không?” Sử Cường hỏi.

“Không cần, tránh ra.” La Tập trợn mắt nhìn về phía trước trả lời.

“Được rồi, chúng tôi chỉ biết làm theo cậu nói thôi.” Sử Cường nói, cùng Kent nhường đường, La Tập đi ra cửa.

Không khí mát lạnh ùa vào mặt, trời vẫn tối nhưng đèn rất sáng, chiếu rọi mọi thứ xung quanh rõ mồn một. Các đại biểu dự Hội nghị đặc biệt của Liên Hiệp Quốc đã lên xe rời đi, lúc này hầu hết những người đứng lác đác trên quảng trường là du khách và dân chúng bình thường, thông tin về hội nghị lịch sử này vẫn chưa được truyền ra, vì vậy họ đều không nhận ra La Tập, sự xuất hiện của anh không gây ra bất kỳ sự chú ý nào.

Người Diện Bích La Tập cứ thế bước đi như kẻ mộng du giữa hiện thực hoang đường, trong thoáng ngơ ngẩn ấy, anh mất hết khả năng tư duy bằng lý trí, không biết mình từ đâu đến mà cũng chẳng rõ mình sẽ đi tới đâu. Bất giác, anh đi đến bãi cỏ, tới trước một bức tượng, trong lúc vô ý lướt mắt, anh trông thấy đó là tượng một người đàn ông đang dùng búa sắt đập xuống một thanh kiếm. Đây là món quà mà chính phủ Liên Xô cũ tặng cho Liên Hiệp Quốc, tên là “Đúc kiếm thành lưỡi cày”. Nhưng trong ấn tượng của La Tập lúc này, búa sắt, người đàn ông cường tráng và thanh kiếm bị đè oằn bên dưới trở thành một chỉnh thể đầy sức mạnh, khiến cho tác phẩm này đầy tràn một thứ ám chỉ bạo lực.

Quả nhiên, ngực La Tập dường như bị người đàn ông kia đập cho một búa, lực giáng mạnh mẽ khiến anh ngã ngửa, thậm chí trước cả khi cơ thể chạm xuống mặt cỏ, anh đã mất tri giác. Có điều, cơn sốc ấy không dài, ý thức anh mau chóng hồi phục lại trong cảm giác đau đớn dữ dội và choáng váng. La Tập chỉ thấy toàn là ánh đèn pin chói mắt, đành phải nhắm mắt lại. Sau đó, quầng sáng dịch chuyển khỏi chỗ anh. Anh mơ hồ trông thấy phía trên mình có một vòng toàn mặt người, giữa màn sương mù mờ mịt sinh ra do choáng váng và cơn đau, anh nhận ra trong số đó có gương mặt Sử Cường, đồng thời cũng nghe thấy giọng gã.

“Cậu có cần vệ sĩ không? Chúng tôi chỉ dám hành động theo lời cậu thôi!”

La Tập yếu ớt gật đầu. Sau đó, mọi thứ đều nhanh như điện chớp, anh cảm thấy mình được nâng lên, hình như đặt trên cáng, sau đó cái cáng được nhấc lên. Xung quanh anh luôn quây chặt một vòng người kín mít, cảm tưởng như đang ở trong một cái rãnh hẹp bốn vách xung quanh làm từ thân người vậy, vì từ miệng “cái rãnh” này chỉ nhìn thấy bầu trời đêm đen kịt, anh chỉ có thể dựa vào động tác chân của những người quây quanh mà đoán mình đang được khiêng đi. Thoáng sau, “cái rãnh” biến mất, bầu trời đêm bên trên cũng biến mất, thay vào đó là trần xe cấp cứu sáng đèn. La Tập cảm thấy trong miệng mình có mùi máu tanh, bèn trở mình ọe ra, người bên cạnh rất chuyên nghiệp đưa túi nhựa đón lấy bãi nôn của anh, ngoài máu còn có cả những thứ ăn vào lúc ở trên máy bay. Nôn xong, có người chụp mặt nạ ô xy lên mặt La Tập, sau khi hô hấp bình thường, anh mới thấy dễ chịu phần nào, nhưng ngực vẫn còn đau. Anh có cảm giác áo trước ngực đã bị xé toang, hoảng sợ tưởng tượng vết thương ở chỗ đó đang phun trào máu tươi, nhưng hình như không phải thế, họ không tiến hành xử lý băng bó gì cả, chỉ đắp lên người anh một tấm chăn. Không lâu sau, xe dừng lại, La Tập được khiêng xuống, nhìn lên thấy bầu trời đêm và trần hành lang bệnh viện lần lượt trôi qua, sau đó anh thấy trần phòng cấp cứu, cái khe phát ra ánh sáng màu đỏ của máy quét CT chầm chậm dịch chuyển phía trên anh.

Trong khoảng thời gian này, gương mặt bác sĩ và y tá thỉnh thoảng lại xuất hiện phía trên, lúc kiểm tra và xử lý phần ngực, họ làm anh rất đau. Cuối cùng, khi phía trên tầm nhìn của anh là trần phòng bệnh, mọi thứ đều trở nên yên ổn.

“Gẫy một xương sườn, xuất huyết nội nhẹ, nhưng không nghiêm trọng, tóm lại là bị thương không nặng, nhưng vì xuất huyết nội, giờ anh cần phải nghỉ ngơi.” Một bác sĩ đeo kính cúi đầu nhìn anh, nói.

Lần này, La Tập không từ chối thuốc an thần, sau khi được y tá giúp uống thuốc, anh mau chóng ngủ thiếp đi. Trong mơ, bức vách nghiêng phía trên bục chủ tịch trong hội trường Liên Hiệp Quốc hết lần này đến lần khác đổ ập xuống người anh, người đàn ông trong bức “Đúc kiếm thành lưỡi cày” cũng vung búa đập vào anh hết lần này đến lần khác, hai cảnh tượng ấy đan xen vào nhau. Rồi sau đó, anh đi tới cánh đồng tuyết yên bình, tĩnh lặng ở nơi sâu thẳm nhất trong tâm tưởng mình, bước vào căn nhà gỗ xinh xắn mà cổ kính mộc mạc ấy, nàng Eva anh sáng tạo ra đứng dậy trước lò sưởi âm tường, đôi mắt đẹp rưng rưng ngấn lệ nhìn anh… Lúc này, La Tập tỉnh lại một lần, cảm thấy nước mắt mình cũng đang trào ra, thấm ướt cả một mảng nhỏ trên gối, ánh sáng trong phòng bệnh đã được chỉnh xuống rất yếu, cô không xuất hiện khi anh đang tỉnh, vậy là anh lại ngủ tiếp, muốn trở lại căn nhà gỗ nhỏ kia, nhưng từ đó về sau giấc ngủ không còn mộng mị gì nữa.

Lần tiếp theo tỉnh lại, La Tập biết mình đã ngủ rất lâu, cảm giác tinh lực đã hồi phục phần nào, tuy vẫn còn âm ỉ đau ở ngực, nhưng từ cảm giác anh đã có thể chắc chắn mình bị thương không nặng. Anh gắng sức ngồi dậy, cô y tá tóc vàng mắt xanh không ngăn anh lại, mà kê cao gối lên giúp anh nửa nằm nửa ngồi. Một lúc sau, Sử Cường đi vào phòng bệnh, ngồi xuống trước giường anh.

“Cảm giác thế nào, tôi đã ba lần bị bắn lúc đang mặc áo chống đạn, chắc là không có vấn đề gì lớn đâu.” Sử Cường nói.

“Đại Sử, anh đã cứu mạng tôi.” La Tập yếu ớt nói.

Sử Cường xua tay: “Xảy ra chuyện này, đáng ra phải coi là do chúng tôi thất trách, lúc đó đã không thực hiện các biện pháp an ninh hiệu quả nhất, chúng tôi chỉ có thể nghe theo cậu, giờ thì không có chuyện gì rồi.”

“Ba người bọn họ thì sao?” La Tập hỏi.

Sử Cường lập tức hiểu anh muốn nói đến ai, “Đều rất khỏe, họ đâu có khinh suất đi một mình bên ngoài như cậu.”

“Có phải ETO muốn giết chúng tôi không?”

“Chắc là vậy, hung thủ đã bị bắt rồi, cũng may chúng tôi đã bố trí Mắt Rắn sau lưng cậu.”

“Cái gì?”

“Một hệ thống radar cực kỳ tinh vi và chính xác, có thể dựa theo đường đạn nhanh chóng xác định vị trí của xạ thủ. Thân phận của tên sát thủ đã được xác định, hắn là chuyên gia chiến tranh du kích của tổ chức quân sự ETO. Chúng tôi không ngờ hắn lại dám ra tay ở khu vực trung tâm như vậy, nên hành động lần này của hắn gần như là mang tính tự sát.”

“Tôi muốn gặp hắn.”

“Ai, hung thủ hả?”

La Tập gật đầu.

“Được, có điều, việc này không nằm trong quyền hạn của tôi, tôi chỉ phụ trách bảo vệ an toàn, tôi sẽ đi xin ý kiến một chút.” Dứt lời Sử Cường đứng dậy đi ra ngoài, giờ gã tỏ ra hết sức cẩn trọng và nghiêm túc, khác hẳn với con người bô lô ba la lúc trước, nhất thời La Tập cảm thấy không quen cho lắm.

Sử Cường mau chóng quay lại, nói với La Tập: “Được rồi, gặp ở đây luôn, hay là đổi chỗ khác, bác sĩ bảo cậu đứng dậy đi lại không có vấn đề gì đâu.”

La Tập vốn định bảo đổi chỗ khác, đồng thời toan nhổm dậy xuống giường, nhưng lại chợt đổi ý, bộ dạng bệnh tật hợp với ý anh hơn, bèn nằm lại xuống giường: “Gặp ở đây luôn đi.” 

“Họ đang tới, phải đợi một lúc nữa, cậu ăn gì đó trước đi, đã trọn một ngày sau bữa ăn trên máy bay rồi. Tôi đi sắp xếp một chút.” Sử Cường nói xong, lại đứng dậy đi ra ngoài.

La Tập vừa ăn xong bữa cơm, hung thủ liền được dẫn vào, đó là một người trẻ tuổi, mang gương mặt châu Âu anh tuấn, nhưng nét đặc trưng lớn nhất là nụ cười mỉm nhàn nhạt, nụ cười ấy như thể mọc ra trên gương mặt y vậy, chưa từng thấy nó biến mất. Y không phải đeo còng tay, nhưng vừa vào phòng đã bị hai người áp giải trông có vẻ rất chuyên nghiệp ấn ngồi xuống ghế, đồng thời ngoài cửa phòng bệnh cũng có hai người đứng gác, La Tập thấy trên thẻ đeo trước ngực có ba chữ cái viết tắt tên của cơ quan họ làm việc, nhưng không phải FBI mà cũng chẳng phải CIA.

La Tập gắng làm ra vẻ chỉ còn thoi thóp thở, nhưng tên hung thủ đã lập tức bóc mẽ anh: “Tiến sĩ, hình như không bị thương nặng đến vậy thì phải.”

Lúc nói câu này, y khẽ cười một tiếng, nhưng đó là một kiểu cười khác, đè lên nụ cười mỉm thường trực kia, giống như vệt dầu loang nổi trên mặt nước, hiện lên rồi lập tức biến đi ngay: “Tôi rất xin lỗi.”

“Xin lỗi vì phải giết tôi à?” La Tập nhổm đầu khỏi gối nhìn y.

“Xin lỗi vì đã không giết anh, tôi vốn tưởng rằng trong hội nghị kiểu này anh sẽ không mặc áo chống đạn, không ngờ anh lại là người vì giữ mạng mà không câu nệ tiểu tiết, bằng không, tôi sẽ dùng đạn xuyên giáp, hoặc nhằm thẳng vào đầu anh mà bắn, nếu như vậy, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, mà anh cũng được giải thoát khỏi cái sứ mệnh biến thái, người bình thường không thể nào gánh vác được này.”

“Tôi đã được giải thoát rồi, tôi đã từ chối sứ mệnh Người Diện Bích với bà Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, từ bỏ mọi quyền lợi và trách nhiệm, bà ấy cũng đại diện cho Liên Hiệp Quốc chấp nhận rồi. Tất nhiên, lúc bắn tôi, anh chắc chắn vẫn chưa biết điều này, ETO coi như đã lãng phí mất một sát thủ xuất sắc.”

Nụ cười mỉm của tên hung thủ trở nên rạng rỡ hơn, kiểu vừa điều chỉnh tăng độ sáng của màn hình lên vậy: “Anh thật hài hước.”

“Thế là ý gì? Những gì tôi nói tuyệt đối là sự thực, không tin…”

“Tôi tin, có điều, anh thật sự rất hài hước đấy.” Tên hung thủ nói, vẫn giữ nguyên nụ cười mỉm rạng rỡ đó, lúc này đây, nụ cười ấy chỉ được La Tập ghi nhớ thoáng qua một cách vô thức, nhưng rồi chỉ ít lâu sau đó, nó sẽ trở thành thứ nước thép nóng chảy để lại vết hằn sâu trong ý thức anh, khiến anh đau đớn cả một đời.

La Tập lắc đầu, thở dài một hơi, nằm ngửa ra, không nói gì nữa.

Tên hung thủ lại tiếp lời: “Tiến sĩ, thời gian của chúng ta hình như không có nhiều, tôi nghĩ anh gọi tôi đến không chỉ để chơi mỗi trò đùa ấu trĩ này thôi chứ.”

“Tôi vẫn không hiểu ý anh.”

“Nếu thật vậy, chỉ số IQ của anh thực không đủ tiêu chuẩn để làm Người Diện Bích. Tiến sĩ La Tập, anh thật thiếu logic đó, xem ra cái mạng này của tôi đúng là đã lãng phí rồi.” Tên hung thủ nói xong, ngẩng đầu lên nhìn hai người đang hết sức cảnh giác đứng sau lưng y, “Các anh, tôi nghĩ chúng ta có thể đi được rồi.”

Hai người đó nhìn La Tập với ánh mắt dò hỏi, La Tập xua tay với họ, tên hung thủ liền được dẫn đi.

La Tập ngồi dậy trên giường, nhớ lại những gì y nói, trong lòng chợt dâng lên một cảm giác kỳ dị, chắc chắn là có gì đó không đúng ở đây, nhưng anh lại không biết là gì. Anh xuống giường, đi lại vài bước, ngoài chỗ đau âm ỉ trên ngực ra thì không có gì đáng ngại. Anh bước đến cửa phòng bệnh, mở cửa nhìn ra ngoài, hai người đang ngồi trước cửa lập tức đứng thẳng dậy. Họ đều là nhân viên an ninh, có đeo súng tiểu liên, một trong hai người lại nói gì đó vào bộ đàm đeo trên vai. La Tập thấy cả hành lang sạch sẽ trống vắng, nhưng ở phía cuối cũng có hai nhân viên an ninh đeo súng. Anh đóng cửa lại, quay lại khung cửa sổ, kéo rèm lên, từ trên cao nhìn xuống thấy ở cổng bệnh viện cũng toàn là nhân viên an ninh vũ trang đến tận răng, còn có hai chiếc xe quân sự màu xanh đang đậu, ngoài một hai nhân viên bệnh viện mặc đồ trắng thi thoảng vội vội vàng vàng đi qua, thì không thấy ai khác nữa. Quan sát kỹ, La Tập còn phát hiện trên nóc tòa nhà đối diện cũng có hai người đang dùng ống nhòm quan sát bốn phía xung quanh, bên cạnh có giá súng bắn tỉa. Bằng trực giác, anh đoán trên nóc tòa nhà mình đang ở đây cũng có bố trí tay súng bắn tỉa cảnh giới như vậy. Những người này không phải cảnh sát, nhìn cách ăn mặc, chắc họ đều là quân nhân. La Tập gọi Sử Cường đến.

“Bệnh viện này đang được canh gác rất nghiêm ngặt, đúng không?” La Tập hỏi.

“Đúng vậy.”

“Nếu tôi yêu cầu các anh giải tán những người kia đi, thì sẽ thế nào?”

“Chúng tôi sẽ làm theo, nhưng tôi đề nghị cậu không làm như vậy, giờ đang rất nguy hiểm.”

“Anh thuộc cơ quan nào? Phụ trách gì?”

“Tôi thuộc Bộ an ninh trái đất của Trung Quốc, phụ trách bảo vệ an toàn cho anh.”

“Nhưng giờ tôi đã không còn là Người Diện Bích nữa, chỉ là một công dân bình thường, cho dù có nguy hiểm đến tính mạng thì cũng là sự vụ bình thường của phía cảnh sát, sao có thể được hưởng sự bảo vệ cấp bậc cao như vậy của Bộ an ninh trái đất? Chưa hết, tôi bảo giải tán thì giải tán, tôi bảo đến thì đến, ai cho tôi cái quyền lực này?”

Gương mặt Sử Cường không có bất cứ cảm xúc nào, như thể đeo lên một tấm mặt nạ bằng cao su, “Mệnh lệnh trao cho chúng tôi chính là như vậy.”

“Thế… Kent đâu?”

“Ở bên ngoài.”

“Gọi ông ta vào đây.”

Sau khi Sử Cường đi ra, Kent nhanh chóng bước vào, ông ta đã trở lại vẻ lịch thiệp lễ độ của một quan chức Liên Hiệp Quốc.

“Tiến sĩ La Tập, tôi vốn định đợi sức khỏe anh hồi phục rồi mới đến thăm.”

“Giờ ông đang làm gì ở đây?”

“Tôi phụ trách liên lạc thường ngày giữa anh và Hội đồng phòng ngự toàn cầu.”

“Nhưng tôi đã không còn là Người Diện Bích nữa rồi!” La Tập lớn tiếng nói, sau đó hỏi, “Tin tức về kế hoạch Diện Bích đã phát đi chưa?”

“Phát đi khắp thế giới rồi.”

“Vậy còn chuyện tôi từ chối làm Người Diện Bích?”

“Tất nhiên cũng có trong đó.”

“Nói như thế nào?”

“Rất đơn giản: Sau Hội nghị đặc biệt của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc kỳ này, La Tập đã tuyên bố từ chối thân phận và sứ mệnh Người Diện Bích.”

“Vậy ông còn ở đây làm gì?”

“Tôi phụ trách các việc liên lạc thường ngày của anh.”

La Tập hoang mang nhìn Kent, ông ta cũng như thể đang đeo một tấm mặt nạ cao su giống như Sử Cường, không thể nhìn ra được bất cứ điều gì.

“Nếu không có chuyện gì khác, tôi đi đây, anh cứ nghỉ ngơi cho khỏe, có thể gọi tôi đến bất cứ lúc nào.” Kent nói, đoạn quay người bước đi, vừa ra đến cửa, La Tập đã gọi giật ông ta lại.

“Tôi muốn gặp bà Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc.”

“Cơ quan chỉ huy và thi hành kế hoạch Diện Bích là Hội đồng phòng ngự toàn cầu PDC, lãnh đạo tối cao là chủ tịch luân phiên của PDC, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc không có quyền lãnh đạo trực tiếp đối với PDC.”

La Tập nghĩ ngợi giây lát, rồi nói: “Tôi vẫn muốn gặp bà Tổng thư ký, hẳn là tôi có quyền này chứ?”

“Được, xin đợi cho một lúc.” Kent quay người đi khỏi phòng bệnh, thoáng sau đã quay lại, ông ta nói: “Bà Tổng thư ký đang đợi anh ở văn phòng, chúng ta đi luôn chứ?”

Văn phòng của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc nằm ở tầng ba mươi tư của tòa nhà Ban thư ký, dọc đường, La Tập vẫn được bảo vệ nghiêm ngặt, gần như là bị nhốt bên trong một cái két sắt di động. Văn phòng nhỏ hơn tưởng tượng của anh, cũng rất giản dị, lá cờ Liên Hiệp Quốc dựng thẳng phía sau bàn làm việc chiếm không gian rất lớn, bà Say bước từ sau bàn ra đón tiếp La Tập.

“Tiến sĩ La Tập, tôi vốn định đến bệnh viện thăm anh từ hôm qua, nhưng anh thấy đấy…” Bà chỉ vào bàn làm việc chất đầy hồ sơ, trên đó, thứ duy nhất thể hiện cá tính của nữ chủ nhân chỉ là một ống đựng bút bằng tre rất tinh xảo.

“Bà Say, tôi đến đây để nhắc lại lời tuyên bố của mình với bà sau khi hội nghị kết thúc.” La Tập nói.

Bà Say khẽ gật đầu, không nói gì.

“Tôi muốn về nước, nếu hiện tại tôi đang gặp nguy hiểm, làm ơn thay tôi báo án với Sở cảnh sát New York, để họ phụ trách sự an toàn của tôi, tôi chỉ là một công dân bình thường, không cần PDC bảo vệ cho tôi làm gì.”

Bà Say lại gật đầu: “Điều này tất nhiên là có thể làm được. Có điều, tôi vẫn đề nghị anh chấp nhận các biện pháp bảo vệ hiện nay, vì so với Sở cảnh sát New York, bảo vệ kiểu này chuyên nghiệp và đáng tin cậy hơn một chút.”

“Xin bà thành thực trả lời câu hỏi của tôi: Giờ tôi vẫn đang là Người Diện Bích phải không?”

Bà Say trở lại sau bàn làm việc, đứng bên dưới lá cờ Liên Hiệp Quốc, nhoẻn miệng cười với La Tập: “Anh nghĩ thế nào?” Đồng thời, bà đưa tay về phía sô pha, ra hiệu mời La Tập ngồi xuống.

La Tập phát hiện ra, nụ cười trên gương mặt bà Say trông rất quen mắt, anh đã từng thấy nó trên gương mặt tên hung thủ trẻ tuổi kia. Về sau, anh cũng sẽ thấy nó trên gương mặt và ánh mắt bất cứ người nào đối diện với mình. Nụ cười này về sau được gọi là “Nụ cười với Người Diện Bích”, nó sẽ nổi tiếng ngang nụ cười của nàng Mona Lisa và điệu cười nhe răng của con mèo Cheshire. Nụ cười của bà Say rốt cuộc cũng khiến La Tập bình tĩnh lại, đây là lần đầu tiên anh thực sự bình tĩnh kể từ sau khi bà Say đứng trên bục chủ tịch của Hội nghị đặc biệt Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, tuyên bố với toàn thế giới rằng anh là Người Diện Bích. Anh chậm rãi ngồi xuống sô pha, vừa mới ngồi vững, anh liền hiểu ra tất cả.

Trời đất!

Trong chớp mắt, La Tập đã ngộ ra thực chất của thân phận Người Diện Bích này. Như lời bà Say đã từng nói, trước khi sứ mệnh này được giao phó, họ không thể nào hỏi ý kiến người sẽ phải gánh vác nó được; thân phận và sứ mệnh Người Diện Bích một khi đã trao cho ai, người đó cũng không thể nào từ chối hoặc buông bỏ nó. Không phải do ai cưỡng chế, mà là một thứ logic lạnh lùng và tàn khốc sinh ra từ chính bản chất của kế hoạch Diện Bích, bởi lẽ, khi một người trở thành Người Diện Bích, sẽ lập tức hình thành một vách ngăn vô hình mà không thể xuyên thấu giữa anh ta và những người bình thường khác. Mọi hành vi của anh ta đều mang ý nghĩa thuộc về kế hoạch Diện Bích, giống như ý nghĩa mà nụ cười đối với Người Diện Bích kia thể hiện: Chúng tôi làm sao biết được có phải anh đã bắt đầu công việc hay chưa?

Giờ La Tập rốt cuộc đã hiểu ra, Người Diện Bích là sứ mệnh kỳ dị nhất, xưa nay chưa từng có trong lịch sử, mang một thứ logic tàn khốc và biến thái, nhưng lại kiên cố vô cùng, tựa như xích sắt khóa chặt Prometheus vậy.

Đây là một lời nguyền không thể nào gỡ bỏ, Người Diện Bích tuyệt nhiên không thể dựa vào sức mạnh của bản thân mà phá vỡ nó. Dù cho anh có vùng vẫy thế nào, tất thảy đều được trao cho ý nghĩa của kế hoạch Diện Bích trong nụ cười đối với Người Diện Bích kia: Chúng tôi làm sao biết được có phải anh đã bắt đầu công việc hay chưa?

Một cảm giác tức giận bừng bừng xưa nay chưa từng có trào lên trong tâm trí La Tập, anh muốn lấy hết sức mà hét lớn, muốn hỏi thăm mẹ bà Say và cả Liên Hiệp Quốc, rồi hỏi thăm đến cả mẹ của tất cả đại biểu Hội nghị đặc biệt cùng Hội đồng phòng ngự toàn cầu, hỏi thăm mẹ của toàn nhân loại, cuối cùng là bà mẹ không hề tồn tại của đám người Tam Thể kia. Anh muốn nhảy lên đập phá đồ đạc, trước tiên là ném hết hồ sơ giấy tờ, quả địa cầu, ống đựng bút tre trên bàn bà Say đi, rồi xé nát lá cờ màu xanh lam kia… nhưng rốt cuộc, La Tập vẫn hiểu được đây là nơi nào, người đang đứng trước mặt anh là ai, cuối cùng cũng kiềm chế được bản thân, anh chỉ đứng bật dậy rồi nặng nề thả mình ngồi phịch trở lại sô pha.

“Tại sao lại chọn tôi? So với ba người họ, tôi không có tư cách gì cả. Tôi không có tài năng, không có kinh nghiệm, chưa từng gặp chiến tranh, lại càng chưa bao giờ lãnh đạo nhà nước; tôi cũng không phải nhà khoa học có thành tựu gì, chỉ là một gã giảng viên đại học kiếm bữa cơm qua ngày bằng mấy bài luận văn nát chắp vá chỗ này chỗ khác mà thôi; tôi là loại người hôm nay có rượu hôm nay say, bản thân còn chẳng muốn có con, tôi quan tâm đến bảo tồn văn minh nhân loại làm cái quái gì… tại sao lại chọn tôi?”

Trong lúc nói, La Tập bắt đầu đưa hai tay ôm chặt đầu, nói tới cuối cùng, anh lại nhảy dựng lên khỏi ghế sô pha.

Nụ cười trên gương mặt bà Say đã biến mất. “Tiến sĩ La Tập, nói một câu thực lòng, chúng tôi cũng không tài nào hiểu nổi, chính vì lý do này, trong những Người Diện Bích, lượng tài nguyên mà anh có thể điều động là ít nhất. Lựa chọn anh, quả thực là một sự mạo hiểm lớn nhất trong lịch sử.”

“Nhưng việc chọn tôi dù sao cũng có nguyên nhân!”

“Đúng thế, chỉ là nguyên nhân gián tiếp, không ai biết nguyên nhân thực sự là gì, tôi đã nói rồi, anh phải tự mình tìm ra nó.”

“Thế nguyên nhân gián tiếp đó là gì?!”

“Xin lỗi, tôi không có quyền hạn nói cho anh biết. Nhưng tôi tin rằng, đến thời điểm thích hợp anh sẽ biết thôi.”

La Tập cảm thấy họ đã nói hết những gì có thể nói với nhau rồi, bèn quay người đi ra ngoài. Lúc ra đến cửa văn phòng, anh mới nhớ ra là chưa chào tạm biệt, bèn dừng chân, xoay người lại, giống như lần trước ở trong hội trường, bà Say khẽ gật đầu mỉm cười với anh, chỉ khác ở chỗ, lần này anh đã hiểu được hàm nghĩa của nụ cười ấy.

Bà Say nói: “Rất vui được gặp lại anh hôm nay, nhưng sau này, công việc của anh sẽ tiến hành trong khuôn khổ của Hội đồng phòng ngự toàn cầu, trực tiếp chịu trách nhiệm trước chủ tịch luân phiên của PDC.”

“Bà không có lòng tin với tôi, phải không?” La Tập hỏi.

“Tôi đã nói rồi, lựa chọn anh là một sự mạo hiểm rất lớn.”

“Bà đúng rồi đấy.”

“Mạo hiểm là đúng sao?”

“Không, không có lòng tin ở tôi là đúng.”

La Tập vẫn không chào tạm biệt, đi thẳng ra khỏi văn phòng. Anh lại rơi vào trạng thái như lúc vừa được tuyên bố trở thành Người Diện Bích, ngơ ngẩn đi không mục đích. Anh đi tới cuối hành lang, vào trong thang máy, xuống đại sảnh ở tầng một, sau đó ra khỏi tòa nhà của Ban thư ký, rồi tới Quảng trường Liên Hiệp Quốc. Dọc đường, lúc nào cũng có mấy nhân viên an ninh quây kín xung quanh anh, La Tập đã mấy lần bực bội đẩy bọn họ ra xa, nhưng anh cứ như một cục nam châm, đi tới đâu là hút bọn họ bâu quanh tới đấy. Giờ đang là ban ngày, quảng trường rực rỡ ánh nắng, Sử Cường và Kent đi tới, bảo anh mau chóng trở vào trong nhà hoặc trong xe.

“Cả đời này tôi không được nhìn ánh mặt trời nữa rồi, đúng không?” La Tập nói với Sử Cường.

“Không phải, họ đã dọn dẹp xung quanh rồi, chỗ này giờ đã tương đối an toàn. Nhưng du khách rất đông, họ đều nhận ra anh, cả đám người quây lại thì không tiện lắm, anh cũng không muốn như vậy đâu nhỉ.”

La Tập đưa mắt nhìn xung quanh, ít nhất hiện giờ vẫn chưa ai chú ý đến nhóm người bọn họ. Anh cất bước đi về phía Trung tâm hội nghị nối liền với tòa nhà Ban thư ký Liên Hiệp Quốc, thoáng cái đã vào bên trong, đây là lần thứ hai anh vào đây. Mục tiêu của anh rất rõ ràng, anh đã biết mình muốn đến đâu. Sau khi đi qua ban công lơ lửng kia, La Tập trông thấy tấm kính màu sắc rực rỡ ấy, rẽ phải ở trước tấm kính, anh bước vào phòng Trầm tư, đóng cửa lại, chặn Sử Cường, Kent và các nhân viên an ninh đi theo ở bên ngoài.

La Tập lại trông thấy khối quặng sắt hình hộp chữ nhật kia, ý nghĩ đầu tiên trong đầu anh là đập đầu vào đó chết đi cho xong, nhưng việc tiếp theo mà anh làm lại là lên nằm trên bề mặt bằng phẳng trơn nhẵn của khối đá ấy.

Bề mặt đá mát lạnh, hút đi phần nào sự nóng nảy trong tâm trí anh, cơ thể anh cảm nhận được sự cứng rắn của khối quặng, kỳ lạ thay, trong lúc này không ngờ anh lại nhớ đến một câu hỏi của thầy giáo môn Vật lý thời trung học: làm thế nào dùng đá cẩm thạch chế tạo một chiếc giường mà người nằm lên đó cảm giác mềm mại như nằm trên giường của hãng Simmons?

Đáp án là khoét trên bề mặt đá cẩm thạch một chỗ trũng có hình dáng vừa khít với phần lưng người, nằm vào chỗ trũng đó, áp suất được phân bố đều đặn, cảm giác sẽ hết sức mềm mại. La Tập nhắm nghiền cả hai mắt, tưởng tượng nhiệt độ cơ thể mình làm tan chảy khối quặng bên dưới, hình thành nên một chỗ trũng như thế… bằng cách này, anh khiến mình dần dần bình tĩnh trở lại. Một lúc sau, anh lại mở mắt, nhìn lên trần nhà mộc mạc.

Phòng Trầm tư được Dag Hammarskjöld, người Thụy Điển, Tổng thư ký thứ hai của Liên Hiệp Quốc đề nghị xây dựng, ông cho rằng ngoài hội trường lớn là nơi đưa ra những quyết định mang tính lịch sử của Liên Hiệp Quốc, cần phải có một nơi để người ta trầm tư. La Tập không biết có nguyên thủ quốc gia hay đại biểu Liên Hiệp Quốc nào từng trầm tư ở đây hay chưa, nhưng chắc chắn vị Tổng thư ký đã qua đời vì tai nạn máy bay năm 1961 kia tuyệt đối không thể ngờ được, trong phòng Trầm tư lại có một Người Diện Bích như anh đang ngơ ngẩn.

La Tập lại nghĩ về cạm bẫy logic mà mình đã sa vào, cũng một lần nữa xác định rằng tuyệt đối không thể nào tự mình thoát ra khỏi cái cạm bẫy này được.

Vì vậy, anh tập trung chú ý vào quyền lợi trong tay mình, tuy bà Say đã nói, anh là người có quyền lực ít nhất trong bốn Người Diện Bích, nhưng tài nguyên mà anh có thể sử dụng chắc chắn vẫn tương đối kinh khủng, mấu chốt nhất là khi sử dụng lượng tài nguyên này, anh không cần phải giải thích với bất kỳ ai. Trên thực tế, một phần rất quan trọng trong chức trách của anh chính là khiến cho hành vi của mình không thể nào lý giải nổi, vả lại, tiến thêm một bước nữa, còn phải cố gắng khiến người khác càng hiểu lầm càng tốt. Đây là chuyện chưa từng có trong lịch sử loài người, các vị đế vương chuyên chế thời cổ họa may có thể muốn làm gì thì làm, nhưng rốt cuộc vẫn phải đưa ra một lời giải thích cho hành vi của mình.

Đằng nào thì giờ mình cũng chỉ còn có thứ quyền lực lạ lùng này thôi, vậy sao lại không dùng nó chứ?

La Tập tự nhủ, đoạn ngồi dậy, chỉ nghĩ ngợi trong chốc lát, anh đã quyết định xong việc cần phải làm tiếp theo.

Anh xuống khỏi chiếc giường đá cứng ấy, mở cửa ra, yêu cầu được gặp chủ tịch Hội đồng phòng ngự toàn cầu.

Chủ tịch luân phiên nhiệm kỳ này của PDC là một người Nga tên là Garanin, một ông già râu bạc, thân hình vạm vỡ. Văn phòng chủ tịch PDC nằm ở tầng dưới văn phòng Tổng thư ký, lúc La Tập đi vào, ông ta đang sai phái mấy người vừa mới đến trước đó, một nửa số họ mặc quân phục.

“À, chào anh, tiến sĩ La Tập, nghe nói anh gặp phải vài rắc rối nhỏ, nên tôi cũng không vội liên hệ với anh.”

“Ba Người Diện Bích còn lại đang làm gì vậy?”

“Họ đều đang bận rộn thành lập ban tham mưu cho mình, tôi khuyên anh cũng nên nhanh chóng bắt tay vào công việc này luôn đi, trong giai đoạn khởi đầu, tôi sẽ phái một nhóm cố vấn đến hỗ trợ anh.”

“Tôi không cần ban tham mưu gì cả.”

“Ừm, nếu anh cảm thấy như vậy tốt hơn thì… nếu anh cần, bất cứ lúc nào cũng có thể thành lập được.”

“Tôi có thể dùng giấy và bút được không?”

“Tất nhiên.”

La Tập nhìn tờ giấy trắng trước mặt, hỏi: “Ngài chủ tịch, ngài có ôm giấc mộng nào không?”

“Về phương diện nào?”

“Chẳng hạn, ngài có bao giờ tưởng tượng mình sống ở một nơi rất đẹp không?”

Garanin cười khổ, lắc đầu, “Hôm qua tôi vừa bay từ London đến đây, trên máy bay cũng phải làm việc suốt, đến nơi vừa mới ngủ chưa được hai tiếng đồng hồ đã lại phải vội vã đi làm. Hôm nay, sau khi cuộc họp thường kỳ với PDC kết thúc, tôi sẽ phải bay cả đêm đi Tokyo… đời này tôi đã xác định là phải bôn ba khắp nơi rồi, mỗi năm thời gian ở nhà tổng cộng chưa đến ba tháng, giấc mộng kiểu đó thì có ý nghĩa gì với tôi đâu chứ?”

“Nhưng tôi lại có vùng đất mộng mơ của riêng mình, có nhiều lắm, tôi đã chọn ra một nơi đẹp nhất.” La Tập cầm bút chì lên, vẽ vào tờ giấy, “Ở đây không có màu sắc, ông cần phải tưởng tượng: nhìn này, đây là mấy ngọn núi tuyết, rất cheo leo hiểm trở, giống như thanh kiếm của các thiên thần, hay là như chiếc răng dài của Trái đất vậy, trên nền trời xanh thẳm, trắng sáng như bạc, rất chói mắt…”

“Ừm, ừm…” Garanin nhìn với vẻ hết sức nghiêm túc, “Đây là một nơi rất lạnh.”

“Sai rồi! Khu vực bên dưới núi tuyết không thể lạnh, là khí hậu á nhiệt đới, đây mới là điểm quan trọng! Phía trước núi tuyết, có một hồ nước rộng mênh mông, nước hồ màu xanh, xanh thẫm hơn cả bầu trời, giống như đôi mắt vợ ông vậy…"

“Mắt vợ tôi màu đen.”

“Chậc, vậy thì nước hồ ấy xanh thẫm đến độ ngả sang màu đen, vậy càng tốt. Xung quanh hồ, có rừng rậm và thảo nguyên mênh mông, chú ý, phải có cả rừng rậm lẫn thảo nguyên, không thể thiếu thứ nào. Đây chính là vùng đất trong mơ của tôi: núi tuyết, hồ, rừng rậm và thảo nguyên, tất cả đều phải ở trong trạng thái nguyên sinh thuần khiết, khi nhìn thấy nơi này, ông sẽ có ảo tưởng rằng trên Trái đất chưa từng có loài người xuất hiện. Ở đây, trên bãi cỏ cạnh hồ nước ấy, hãy xây một trang viên, không cần lớn lắm, nhưng các thiết bị phục vụ cho cuộc sống hiện đại cần phải có đầy đủ, kiểu dáng ngôi nhà cổ điển hay hiện đại cũng được, nhưng phải hài hòa với môi trường tự nhiên ở xung quanh. Ngoài ra, cần phải có các công trình đồng bộ, như đài phun nước, hồ bơi…, nói tóm lại, cần đảm bảo chủ nhân ở đây sống một cuộc sống quý tộc, thoải mái sung sướng.”

“Ai sẽ là chủ nhân ở đây?”

“Tôi chứ còn ai.”

“Anh đến đó làm gì?”

“Sống yên ổn cho đến hết đời.”

La Tập chờ đợi Garanin cất lời nhiếc mắng mình, nhưng ông ta lại nghiêm túc gật đầu: “Sau khi ủy ban xét duyệt xong, chúng tôi sẽ làm ngay.”

“Ông và ủy ban của ông không chất vấn gì về động cơ của tôi à?”

Garanin nhún vai, “Ủy ban chỉ chất vấn Người Diện Bích trong hai trường hợp sau: lượng tài nguyên sử dụng vượt quá phạm vi hạn định, hoặc gây tổn hại đến mạng người. Ngoài hai điều đó, bất cứ sự nghi ngờ, chất vấn nào cũng đều trái với tinh thần cơ bản của kế hoạch Diện Bích. Thực ra, Tyler, Rey Díaz và Hines đều khiến tôi rất thất vọng, cứ nhìn bộ dạng tính toán trù hoạch của bọn họ hai ngày nay mà xem, những kế hoạch chiến lược vĩ đại gì đấy người ta vừa nhìn đã biết là họ làm cái gì rồi. Nhưng anh thì khác, hành vi của anh khiến người ta khó hiểu, thế mới giống Người Diện Bích chứ.”

“Ông thực sự tin trên thế giới này có nơi nào giống như tôi vừa miêu tả hả?”

Garanin lại chớp một con mắt, mỉm cười như lúc nãy, đồng thời đưa tay ra dấu “OK”: “Trái đất rất rộng lớn, chắc là phải có nơi như thế. Vả lại, nói thật với anh, tôi đã thấy nơi đó rồi."

“Thế thì tốt quá, xin ông hãy tin rằng, đảm bảo cho tôi một cuộc sống quý tộc thoải mái ở đó, là một phần trong kế hoạch Diện Bích.”

Garanin nghiêm túc gật đầu.

“À, còn nữa. Nếu tìm được nơi thích hợp ấy, đừng bao giờ nói cho tôi biết là nó ở đâu.”

Không, đừng nói là ở đâu! Một khi biết mình đang ở đâu, thế giới liền trở nên nhỏ như một tấm bản đồ; không biết mình ở đâu, cảm giác thế giới này mới thật rộng lớn.

Garanin lại gật đầu, lần này ông ta tỏ ra rất hào hứng: “Tiến sĩ La Tập, ngoài việc giống như một Người Diện Bích trong tưởng tượng của tôi, anh còn một điểm khiến chúng tôi hài lòng nhất: hạng mục đầu tư này là nhỏ nhất trong số bốn Người Diện Bích, ít nhất cho đến thời điểm hiện tại.”

“Nếu thế, vậy thì đầu tư cho tôi sẽ không bao giờ nhiều đâu.”

“Vậy thì anh sẽ là ân nhân của tất cả những người kế nhiệm tôi đấy, tiền lúc nào cũng khiến người ta phải đau đầu… Sau đây, các cơ quan trực tiếp chấp hành có thể sẽ hỏi anh một số vấn đề chi tiết, tôi nghĩ chủ yếu là về căn nhà thôi.”

“Phải rồi, về căn nhà đó, tôi đúng là đã quên mất một chi tiết, cực kỳ quan trọng.”

“Anh nói đi.”

La Tập cũng bắt chước Garanin nháy một mắt, cười cười: “Cần phải có lò sưởi âm tường.”

Sau tang lễ của cha, Chương Bắc Hải lại cùng Ngô Nhạc đến ụ tàu nơi con tàu sân bay mới đang được thi công, lúc này, công trình tàu Đường đã hoàn toàn dừng lại, những đóa hoa lửa hàn trên vỏ tàu đã biến mất. Dưới ánh nắng giữa trưa, thân tàu khổng lồ đã không còn chút sức sống nào nữa, mang đến cho họ một thứ cảm giác tang thương lại chồng chất tang thương.

“Nó cũng chết rồi.” Chương Bắc Hải nói.

“Cha cậu là vị tướng nhìn xa trông rộng nhất trong các lãnh đạo cấp cao của hải quân, nếu ông ấy vẫn còn, có lẽ tôi sẽ không bị ngập sâu thế này.” Ngô Nhạc nói.

Chương Bắc Hải nói: “Chủ nghĩa thất bại của anh được xây dựng trên cơ sở lý trí, ít nhất là lý trí của bản thân anh, tôi không nghĩ rằng có ai đó có thể khiến anh phấn chấn lên thật sự. Ngô Nhạc, lần này tôi đến không phải là để xin lỗi anh. Tôi biết, trong chuyện này anh không hề căm giận gì tôi cả.”

“Tôi phải cảm ơn cậu mới đúng, Bắc Hải, cậu đã giúp tôi được giải thoát.”

“Anh có thể trở lại hải quân, công việc ở đó hẳn là rất hợp với anh.”

Ngô Nhạc chầm chậm lắc đầu, “Tôi đã nộp đơn xin ra khỏi quân ngũ rồi. Trở về làm gì chứ, các công trình thi công tàu khu trục và tàu hộ tống đang thực hiện đều đã đình chỉ, trên chiến hạm đã không còn vị trí cho tôi nữa, chẳng lẽ đến Bộ tư lệnh hạm đội ngồi văn phòng? Bỏ đi. Vả lại, tôi thật sự không phải là một quân nhân đủ tư cách, một quân nhân chỉ muốn tham gia vào cuộc chiến có hy vọng thắng lợi thì không phải là quân nhân đủ tư cách.”

“Dù thất bại hay thắng lợi, chúng ta đều không thể thấy được ngày đó.”

“Nhưng cậu có niềm tin thắng lợi, Bắc Hải, tôi thật sự rất ngưỡng mộ cậu, ngưỡng mộ đến mức đố kỵ, vào lúc này mà có niềm tin ấy, đối với một quân nhân, đó là niềm hạnh phúc lớn nhất. Xét cho cùng, cậu vẫn là con trai của tướng Chương.”

“Sau này anh định làm gì?”

“Chưa định làm gì cả, tôi cảm thấy cuộc đời mình đã kết thúc rồi.” Ngô Nhạc chỉ vào tàu Đường ở phía đằng xa, “Giống như nó vậy, chưa khởi hành thì đã kết thúc rồi.”

Tiếng ầm ầm trầm đục vẳng lại từ chỗ ụ tàu, tàu Đường chậm rãi chuyển động. Để lấy chỗ trống, nó buộc phải hạ thủy sớm, rồi để tàu kéo đưa đến ụ tàu khác tháo dỡ và tiêu hủy. Khi mũi tàu nhọn hoắt rẽ đôi nước biển, Chương Bắc Hải và Ngô Nhạc cảm giác thân tàu khổng lồ lại có một chút sinh khí. Nó nhanh chóng tiến vào làn nước biển, cơn sóng lớn dấy lên khiến những tàu khác trong bến cảng đều trồi lên hụp xuống, tựa hồ đang tỏ lòng tôn kính nó. Tàu Đường nổi trôi trên mặt biển, chầm chậm tiến về phía trước, lặng lẽ hưởng thụ vòng tay ôm của biển cả, trong cuộc đời ngắn ngủi và tàn khuyết ấy, con tàu khổng lồ này ít nhất cũng được tiếp xúc với nước biển một lần.

Thế giới ảo Tam Thể đang ở trong đêm đen tăm tối, ngoài ánh sao thưa thớt, tất thảy đều chìm đắm trong màn đêm đen như mực, thậm chí còn không thấy được cả đường chân trời, hoang mạc và bầu trời hòa làm một trong sắc đen mù mịt.

“Quản trị viên, điều chỉnh sang kỷ nguyên Hằng định đi. Không nhìn thấy gì làm sao mà họp được?” Có giọng quát gắt lên.

Giọng nói của quản trị viên dường như vẳng xuống từ bầu không: “Tôi không làm được. Kỷ nguyên là do mô hình lõi vận hành ngẫu nhiên, không có giao diện cài đặt từ ngoài.”

Một giọng khác vang lên trong bóng tối: “Đẩy nhanh tốc độ lên, tìm một khoảng thời gian ban ngày ổn định là được rồi, không tốn bao nhiêu thời gian đâu.”

Thế giới nhấp nháy một hồi, Mặt trời chốc chốc lại vọt qua không trung, thoáng sau, tốc độ chảy của dòng thời gian đã trở lại bình thường, một vầng dương ổn định tỏa chiếu xuống thế giới.

“Được rồi, tôi cũng không biết có thể duy trì bao lâu đâu.” Quản trị viên nói.

Ánh mặt trời chiếu lên một đám người trên hoang mạc, trong số họ có vài gương mặt quen thuộc: Chu Văn Vương, Newton, von Neumann, Aristoteles, Mặc Tử, Khổng Tử, Einstein… Họ đứng rất thưa thớt, đều hướng về phía Tần Thủy Hoàng, ông ta đang đứng trên một tảng đá, thanh kiếm gác trên vai.

“Tôi không phải là một người,” Tần Thủy Hoàng nói, “đây là bảy người trong ban lãnh đạo cấp cao đang nói.”

“Không nên bàn về ban lãnh đạo mới ở đây, việc đó vẫn chưa có quyết định cuối cùng.” Có người lên tiếng, những người khác cũng xôn xao cả lên.

“Được rồi,” Tần Thủy Hoàng chật vật giơ thanh kiếm lên, “tranh cãi về quyền lãnh đạo tạm thời gác sang một bên, chúng ta cần làm một số việc khẩn cấp hơn! Mọi người đều biết rồi đó, kế hoạch Diện Bích đã được khởi động, loài người muốn dùng tư duy chiến lược hoàn toàn bít kín của cá nhân để chống lại sự giám sát của Hạt trí tuệ, trong khi đó, Chúa của chúng ta có tư duy hoàn toàn trong suốt tuyệt đối không thể nào phá giải được mê cung này. Với kế hoạch này, loài người đã giành lại được thế chủ động, bốn Người Diện Bích đều là mối đe dọa đối với Chúa. Theo nghị quyết của hội nghị offline lần trước, chúng ta cần phải lập tức khởi động kế hoạch Phá Tường.”

Nghe thấy cụm từ cuối cùng, cả bọn đều yên lặng, không ai có ý kiến gì nữa.

Tần Thủy Hoàng nói tiếp: “Đối với mỗi Người Diện Bích, chúng ta cần chỉ định một Người Phá Tường. Giống như Người Diện Bích, Người Phá Tường sẽ có quyền sử dụng tất cả tài nguyên trong tổ chức, nhưng tài nguyên lớn nhất chính là Hạt trí tuệ, Hạt trí tuệ sẽ khiến mọi cử động của Người Diện Bích hoàn toàn phơi bày trước mắt các vị, thứ duy nhất bí mật chính là tư duy của bọn chúng. Nhiệm vụ của Người Phá Tường, chính là với sự hỗ trợ của Hạt trí tuệ, phân tích các hành vi công khai và bí mật của từng Người Diện Bích, nhanh chóng phá giải ý đồ chiến lược thật sự của chúng. Bây giờ, ban lãnh đạo sẽ chỉ định ra danh sách Người Phá Tường.”

Tần Thủy Hoàng giơ thanh kiếm ra, chạm lên vai von Neumann như thể đang phong hiệp sĩ, “Anh, Người Phá Tường số 1, anh sẽ là Người Phá Tường của Frederick Tyler.”

Von Neumann quỳ một chân xuống, tay trái đặt lên vai phải hành lễ: “Vâng, xin được nhận sứ mệnh này.”

Tần Thủy Hoàng chạm kiếm lên vai Mặc Tử, “Anh, Người Phá Tường số 2, Người Phá Tường của Manuel Rey Díaz.”

Mặc Tử không quỳ xuống, mà ưỡn người đứng thẳng hơn, cao ngạo gật đầu, “Tôi sẽ là người đầu tiên phá được bức tường đó.”

Thanh kiếm lại chạm lên vai Aristoteles, “Anh, Người Phá Tường số 3, Người Phá Tường của Bill Hines.”

Aristoteles cũng không quỳ xuống, phủi phủi chiếc áo dài, trầm ngâm nói: “Vâng, Người Phá Tường của hắn ta cũng chỉ có thể là tôi mà thôi.”

Tần Thủy Hoàng gác lại thanh kiếm trở về vai mình, đảo mắt nhìn quanh mọi người một lượt: “Được rồi, đã có Người Phá Tường, giống như Người Diện Bích, các anh đều là tinh hoa trong các tinh hoa, Chúa sẽ ở bên các anh! Các anh sẽ được ngủ đông, cùng với Người Diện Bích bắt đầu chuyến du hành dài đằng đẵng đến ngày tận thế.”

“Tôi cho rằng không cần thiết phải ngủ đông,” Aristoteles nói, “trước khi chúng tôi sống hết cuộc đời này một cách bình thường, đã có thể hoàn thành được sứ mệnh Phá Tường này rồi."

Mặc Tử gật đầu tán thành, “Lúc phá đi bức tường đó, tôi sẽ đích thân đến đối mặt với Người Diện Bích của mình, tôi sẽ hân hoan thưởng thức cảnh tinh thần hắn sụp đổ trong đau đớn và tuyệt vọng, chỉ riêng chuyện này, cũng đáng để tôi trả giá bằng phần đời còn lại của mình rồi.”

Hai Người Phá Tường còn lại cũng đều bày tỏ vào thời khắc cuối cùng khi phá vỡ bức tường sẽ đích thân đi gặp Người Diện Bích của mình, von Neumann nói: “Chúng tôi sẽ vạch trần chút bí mật cuối cùng mà nhân loại có thể giữ lại trước Hạt trí tuệ, đây là việc cuối cùng mà chúng ta làm vì Chúa, sau này, sự tồn tại của chúng ta cũng không còn cần thiết nữa.”

“Người Phá Tường của La Tập là ai?” Có người hỏi.

Cầu nói này dường như đã chạm đến thứ gì đó trong lòng Tần Thủy Hoàng, ông ta chống thanh kiếm xuống đất trầm tư. Lúc này, vầng Mặt trời trên không trung đột nhiên lặn xuống nhanh hơn, cái bóng của tất cả mọi người đều bị kéo dài ra, cuối cùng vươn mãi ra phía chân trời. Khi Mặt trời lặn được chừng một nửa, nó lại đột nhiên đổi hướng, men theo đường chân trời trồi lên hụp xuống mấy lần, tựa như lưng một con cá voi phát ra ánh vàng lấp lóa, chốc chốc lại nổi lên mặt biển đen ngòm, khiến cái thế giới đơn giản chỉ gồm có bình nguyên trống trải và một nhúm người này thoắt ẩn thoắt hiện trong ánh sáng và bóng đêm.

“Người Phá Tường của La Tập là chính bản thân anh ta, anh ta cần phải tự mình tìm ra mối đe dọa của mình với Chúa nằm ở đâu.” Tần Thủy Hoàng nói.

“Chúng ta có biết người này có mối đe dọa gì với Chúa không?” Có người hỏi.

“Không biết, nhưng Chúa biết, Evans cũng biết, Evans đã dạy Chúa che giấu bí mật này, mà ông ta lại chết rồi, vì vậy chúng ta không thể biết được.”

“Trong số các Người Diện Bích, La Tập có phải là người có mối đe dọa lớn nhất không?” Một người dè dặt đặt câu hỏi.

“Chuyện này chúng ta cũng không biết được, chỉ có điểm này là đã rõ ràng,” Tần Thủy Hoàng ngẩng mặt lên nhìn bầu không đang biến ảo giữa hai sắc màu xanh và đen, “trong bốn Người Diện Bích này, chỉ có anh ta là trực tiếp đối đầu với Chúa.”

Buổi họp công tác của phòng chính trị quân chủng không gian.

Sau khi tuyên bố khai mạc cuộc họp, Thường Vĩ Tư trầm mặc một lúc lâu, trước giờ chưa từng có chuyện này. Ánh mắt ông vượt qua hai hàng ghế nơi các sĩ quan thuộc phòng chính trị ngồi hai bên bàn họp, nhìn về phía xa xăm vô tận, cây bút chì trong tay khe khẽ gõ lên mặt bàn, âm thanh cành cạch nhè nhẹ ấy tựa như tiếng bước chân của suy nghĩ trong đầu ông.

Cuối cùng, ông cũng kéo mình ra khỏi dòng suy tư.

“Các đồng chí, hôm qua đã công bố mệnh lệnh của quân ủy, tôi sẽ kiêm chức chủ nhiệm phòng chính trị của quân chủng. Một tuần trước tôi đã nhận được quyết định bổ nhiệm, nhưng đến giờ khi chúng ta ngồi với nhau, mới có cảm giác phức tạp như thế này. Tôi đột nhiên nhận ra, mình đang ngồi đối diện với nhóm người chịu trách nhiệm gian nan nhất trong không gian quân, còn tôi, giờ đã là một thành viên của mọi người rồi. Trước đây, tôi không hiểu được điều này, giờ cho tôi được xin lỗi mọi người ở đây.”

Nói tới đây, Thường Vĩ Tư đẩy tập hồ sơ trước mặt mình ra. “Phần này trong buổi họp sẽ không ghi vào biên bản, các đồng chí, chúng ta hãy mở lòng ra trao đổi một chút đi, tất cả đều làm người Tam Thể một lần, để mọi người nhìn được suy nghĩ trong lòng mình, điều này rất quan trọng với công tác sau này của chúng ta đấy.”

Ánh mắt Thường Vĩ Tư dừng lại trên gương mặt từng sĩ quan khoảng chừng một hai giây, tất cả đều trầm ngâm, không ai nói năng gì. Thường Vĩ Tư đứng dậy, vòng qua bàn họp, bước đi sau lưng một dãy các sĩ quan đang ngồi nghiêm ngắn.

“Trách nhiệm của chúng ta, chính là khiến cho cán bộ chiến sĩ xây dựng được niềm tin tất thắng đối với cuộc chiến trong tương lai, vậy thì, bản thân chúng ta có niềm tin đó hay không? Ai có thì giơ tay lên, nhớ kỹ, chúng ta đang trải lòng ra với nhau nhé.”

Không ai giơ tay, hầu như ánh mắt người dự họp nào cũng đều nhìn chằm chằm xuống mặt bàn. Nhưng Thường Vĩ Tư để ý thấy, có một người vẫn kiên định nhìn thẳng về phía trước, anh ta là Chương Bắc Hải.

Thường Vĩ Tư nói tiếp: “Vậy thì, người cho rằng có khả năng thắng lợi? Chú ý, khả năng thắng lợi mà tôi đang nói không phải sự việc ngẫu nhiên chỉ có không phẩy mấy phần trăm, mà là khả năng thắng lợi thật sự, có ý nghĩa.”

Chương Bắc Hải giơ một cánh tay lên, cũng chỉ có mình anh ta giơ tay.

“Trước tiên, cảm ơn sự thẳng thắn của các đồng chí.” Thường Vĩ Tư nói, kế đó, ông ta quay sang nhìn Chương Bắc Hải: “Tốt lắm, đồng chí Chương Bắc Hải, hãy nói xem anh xây dựng niềm tin này như thế nào?”

Chương Bắc Hải đứng dậy, Thường Vĩ Tư ra hiệu cho anh ta ngồi xuống: “Đây không phải buổi họp chính thức, chúng ta chỉ đang tâm sự thôi.”

Chương Bắc Hải vẫn đứng nghiêm, nói: “Thủ trưởng, dăm câu ba điều không thể trả lời câu hỏi của anh cho rành mạch được, dẫu sao, việc xâydựng niềm tin là cả một quá trình dài và phức tạp. Điều đầu tiên tôi muốn chỉ ra ở đây là khuynh hướng tư tưởng sai lầm trong quân đội hiện nay. Mọi người đều biết, trước khi nguy cơ Tam Thể xuất hiện, chúng ta luôn chủ trương dùng nhãn quan khoa học và lý trí để xem xét những cuộc chiến tranh trong tương lai, có rất nhiều học giả và nhà khoa học tham gia vào, càng khiến cho khuynh hướng tư tưởng này thêm trầm trọng. Nếu dùng cách tư duy này để suy xét về cuộc chiến tranh liên sao bốn trăm năm sau, chúng ta sẽ không bao giờ xây dựng được niềm tin chiến thắng.”

“Đồng chí Chương Bắc Hải nói lạ thật,” một viên thượng tá nói, “chẳng lẽ niềm tin kiên định không phải được xây dựng trên cơ sở khoa học và lý trí hay sao? Niềm tin không xây dựng trên cơ sở sự thực khách quan thì không thể nào vững chãi được.”

“Vậy thì trước tiên chúng ta phải nhìn lại xem khoa học và lý trí là gì, cần phải hiểu rằng, đây chỉ là khoa học và lý trí của chúng ta thôi, trình độ phát triển của nền văn minh Tam Thể đã cho chúng ta biết rằng, khoa học của chúng ta chỉ như đứa trẻ nhặt vỏ sò trên bờ biển, có lẽ còn chưa thấy được đại dương chân lý. Vì vậy, sự thực mà chúng ta nhìn thấy dưới ánh sáng của khoa học và lý trí nhân loại chưa chắc đã là sự thực khách quan chân chính. Đã vậy, chúng ta cần phải học cách bỏ qua nó một cách có lựa chọn, chúng ta cần phải nhìn thấy sự vật trong quá trình phát triển và biến đổi, không thể ỷ vào một thứ quyết định luận công nghệ và lý luận duy vật máy móc mà cho rằng tương lai là bất biến.”

“Tốt lắm.” Thường Vĩ Tư gật đầu, cổ vũ Chương Bắc Hải nói tiếp.

“Niềm tin chiến thắng chắc chắn cần phải xây dựng, niềm tin này là cơ sở cho danh dự và bổn phận của quân đội! Quân đội nước tôi đã từng phải đối diện với kẻ địch mạnh mẽ trong điều kiện vô cùng khó khăn, chính nhờ bổn phận đối với tổ quốc và nhân dân mà xây dựng nên niềm tin kiên định vào thắng lợi; tôi tin rằng, ngày nay, bổn phận đối với loài người và nền văn minh Trái đất cũng có thể trở thành cột trụ cho niềm tin này.”

“Nhưng chúng ta làm thế nào thực hiện công tác tư tưởng cụ thể với từng cán bộ chiến sĩ?” Một sĩ quan nói, “thành phần của không gian quân rất phức tạp, khiến cho tư tưởng chiến sĩ cũng rất phức tạp, sau này, chúng ta làm việc sẽ rất khó khăn đấy.”

“Tôi cho rằng, hiện tại, ít nhất cần bắt đầu từ trạng thái tinh thần của cán bộ chiến sĩ.” Chương Bắc Hải nói, “Về tổng quan, tuần trước tôi đi điều tra tìm hiểu về các cán bộ chiến sĩ không quân và phòng không của hải quân vừa chuyển sang quân chủng chúng ta, phát hiện ra những người này hiện đã hết sức lơ là huấn luyện hằng ngày; về chi tiết, tác phong và kỷ luật quân nhân cũng càng ngày càng nhiều vấn đề, hôm qua là ngày thống nhất chuyển sang trang phục mùa hè, nhưng ở cơ quan tổng bộ lại vẫn có rất nhiều người còn mặc quân trang mùa đông. Trạng thái tinh thần này cần phải nhanh chóng thay đổi. Hiện giờ, quân chủng không gian đang biến thành một cái viện nghiên cứu khoa học mất rồi. Tất nhiên, không thể phủ nhận rằng trước mắt chúng ta đang gánh vác nhiệm vụ của một viện khoa học quân sự, nhưng trên hết cần phải ý thức được mình là quân nhân, vả lại còn là một đội quân đang ở trong trạng thái chiến tranh!”

Cuộc trò chuyện diễn ra thêm một lúc nữa, Thường Vĩ Tư ngồi về vị trí: “Cảm ơn mọi người, hy vọng sau này chúng ta luôn có thể trò chuyện với nhau một cách thẳng thắn và chân thành như vậy. Tiếp sau đây, chúng ta sẽ đi vào nội dung chính thức của cuộc họp.” Thường Vĩ Tư nói xong, ngẩng đầu lên, lại gặp ánh mắt của Chương Bắc Hải, vẻ trầm ổn, kiên nghị trong ánh mắt ấy khiến ông cảm thấy an ủi phần nào.

Chương Bắc Hải, tôi biết là cậu có niềm tin, cậu có người cha như vậy thì không thể nào không có niềm tin được, nhưng sự việc chắc chắn không đơn giản như cậu nói, tôi không rõ niềm tin của cậu được xây đắp bằng cách nào, thậm chí còn không biết trong niềm tin đó có hàm chứa nhiều thứ khác nữa hay không, giống như cha cậu vậy, tôi kính phục ông ấy, nhưng cũng phải thừa nhận, cho đến cuối cùng tôi vẫn không thể nhìn thấu được ông ấy.

Thường Vĩ Tư mở tập hồ sơ trước mặt ra, “Trước mắt, việc nghiên cứu lý thuyết chiến tranh không gian đã được triển khai toàn diện, song lại nhanh chóng gặp phải vấn đề: nghiên cứu chiến tranh liên sao hiển nhiên phải dựa trên cơ sở là trình độ phát triển công nghệ, nhưng hiện nay, các hạng mục nghiên cứu cơ sở đều chỉ mới vừa bắt đầu, đột phá công nghệ vẫn còn ở xa ngoài tầm với. Điều này khiến cho nghiên cứu của chúng ta mất đi chỗ dựa. Để thích ứng với tình trạng này, tổng bộ đã thay đổi kế hoạch nghiên cứu, chia công tác nghiên cứu lý thuyết chiến tranh không gian ra thành ba bộ phận độc lập, để thích ứng với các mức trình độ công nghệ mà thế giới loài người có thể đạt đến trong tương lai, lần lượt là: chiến lược công nghệ thấp, chiến lược công nghệ trung và chiến lược công nghệ cao."

“Hiện nay, chúng ta đang tiến hành định nghĩa và phân biệt ba mức trình độ công nghệ, sẽ xác định rất nhiều tham số và chỉ tiêu trong các ngành khoa học chủ yếu, song tham số mấu chốt là tốc độ và phạm vi bay của tàu vũ trụ tải trọng mười nghìn tấn."

“Trình độ công nghệ thấp: tốc độ của tàu vũ trụ gấp khoảng 50 lần vận tốc vũ trụ cấp 3[24], tức là khoảng 800 km/s, trên tàu không có hệ sinh thái tuần hoàn. Trong trường hợp này, bán kính phạm vi tác chiến của tàu vũ trụ sẽ bị hạn chế bên trong Hệ Mặt trời, tức là bên trong quỹ đạo của sao Hải Vương, cách Mặt trời chừng 30 đơn vị thiên văn."

[24] Vận tốc vũ trụ cấp 3 là giá trị tối thiểu để vật phóng từ Trái đất thoát ra khỏi trường hấp dẫn của Mặt trời.

“Trình độ công nghệ trung: tốc độ tàu vũ trụ đạt đến 300 lần vận tốc vũ trụ cấp 3, tức là khoảng 4.800 km/s, trên tàu có chức năng sinh thái tuần hoàn bán phần. Trong trường hợp này, bán kính tác chiến của tàu vũ trụ mở rộng đến bên ngoài vành đai Kuiper, trong khoảng không gian cách Mặt trời chừng 1.000 đơn vị thiên văn."

“Trình độ công nghệ cao: tốc độ tàu vũ trụ đạt đến 1.000 lần vận tốc vũ trụ cấp 3, tức là khoảng 16.000 km/s, khoảng 5% vận tốc ánh sáng; trên tàu có hệ sinh thái tuần hoàn hoàn thiện. Trong trường hợp này, phạm vi tác chiến của tàu vũ trụ mở rộng đến đám mây Oort[25], có năng lực di chuyển liên sao ở mức cơ bản."

[25] Đám mây Oort là một vật thể giả định, một đám mây bụi khí, sao chổi và thạch khổng lồ bao quanh Hệ Mặt trời ở khoảng cách từ 2000 đến 20000 đơn vị thiên văn. Theo giả thuyết, đám mây Oort nằm ngoài nhật quyển (phạm vi ảnh hưởng của Mặt trời) và nằm trong không gian liên sao, có thể coi là rào chắn cuối cùng để bước vào Hệ Mặt trời.

“Chủ nghĩa thất bại là mối đe dọa lớn nhất đối với lực lượng vũ trang không gian, vì vậy người làm công tác chính trị tư tưởng trong quân chủng không gian phải gánh trên vai sứ mệnh nặng nề, phòng chính trị của quân chủng cần phải toàn diện tham gia vào việc nghiên cứu lý thuyết quân sự trong chiến tranh không gian, gột rửa sạch vết tích chủ nghĩa thất bại trong lĩnh vực lý luận cơ sở, đảm bảo nghiên cứu tiến theo đường hướng chính xác."

“Các đồng chí có mặt trong buổi họp ngày hôm nay đều sẽ trở thành thành viên của nhóm nghiên cứu lý thuyết chiến tranh không gian. Ba nhánh nghiên cứu tuy rằng có những nội dung trùng nhau, nhưng cơ quan nghiên cứu lại hoàn toàn độc lập với nhau, ba cơ quan này tạm thời được đặt tên là Phòng nghiên cứu chiến lược công nghệ thấp, Phòng nghiên cứu chiến lược công nghệ trung và Phòng nghiên cứu chiến lược công nghệ cao, buổi họp hôm nay, là muốn nghe ý nguyện và lựa chọn của mỗi người để tham khảo cho bước tiếp theo khi sắp xếp vị trí cho phòng chính trị quân chủng. Sau đây, mọi người hãy nói lên lựa chọn của mình.”

Trong ba mươi hai sĩ quan phòng chính trị tham dự cuộc họp này, có hai mươi bốn người lựa chọn Phòng nghiên cứu chiến lược công nghệ cấp thấp, bảy người chọn Phòng nghiên cứu chiến lược công nghệ cấp trung, chỉ có một mình Chương Bắc Hải là chọn Phòng nghiên cứu chiến lược công nghệ cấp cao.

“Xem chừng, đồng chí Chương Bắc Hải đã quyết chí theo đuổi khoa học viễn tưởng rồi.” Có người nói, làm cho mấy người khác phá lên cười theo.

“Lựa chọn của tôi là hy vọng duy nhất để giành chiến thắng, chỉ khi đạt đến trình độ công nghệ cao, loài người mới có khả năng xây dựng được hệ thống phòng ngự hiệu quả cho Trái đất và Hệ Mặt trời.” Chương Bắc Hải nói.

“Hiện nay, ngay cả phản ứng nhiệt hạch có điều khiển chúng ta còn chưa nắm vững, thế mà muốn đẩy tốc độ của tàu vũ trụ tải trọng mười nghìn tấn lên đến 5% tốc độ ánh sáng? Biến những con tàu khổng lổ ấy trở nên nhanh hơn một nghìn lần thứ tàu to bằng xe tải hiện nay? Điều này thậm chí còn không thể coi là khoa học viễn tưởng nữa, phải nói là kỳ ảo mới đúng.”

“Chẳng phải vẫn còn bốn thế kỷ nữa hay sao? Phải nhìn nhận vấn đề từ quan điểm phát triển.”

“Nhưng lý thuyết cơ sở của ngành vật lý đã không thể phát triển thêm nữa.”

“Chúng ta có khi còn chưa khai thác hết 1% tiềm năng ứng dụng của những lý luận hiện có,” Chương Bắc Hải nói, “Tôi cảm thấy, vấn đề lớn nhất bây giờ là chiến lược nghiên cứu của giới khoa học, họ lãng phí quá nhiều tài nguyên và thời gian vào các công nghệ cấp thấp. Lấy ví dụ như động cơ vũ trụ chẳng hạn, hoàn toàn không cần thiết phải đi làm động cơ phân hạch, vậy mà bây giờ, chẳng những đầu tư lớn để nghiên cứu phát triển động cơ phân hạch, thậm chí lại còn đầu tư nhiều không kém vào động cơ hóa học thế hệ mới! Cần phải trực tiếp tập trung tài nguyên để nghiên cứu động cơ nhiệt hạch, vả lại tốt nhất là bỏ qua động cơ có môi chất công tác[26], chuyển thẳng sang phát triển động cơ nhiệt hạch không môi chất[27]. Trong các lĩnh vực nghiên cứu khác cũng có vấn đề tương tự như vậy, chẳng hạn như hệ thống sinh thái hoàn toàn khép kín. Đây là công nghệ cần thiết để tàu vũ trụ viễn trình di chuyển ở khoảng cách liên sao, cũng không dựa nhiều vào lý thuyết cơ sở của vật lý, nhưng hiện nay quy mô nghiên cứu cũng rất có hạn.”

[26] Môi chất công tác là chất trung gian để thực hiện quá trình chuyển hóa từ nhiệt năng sang cơ năng ở động cơ đốt trong, bao gồm chất oxy hóa như không khí hoặc oxy (trong những trường hợp đặc biệt), nhiên liệu sản xuất và sản vật cháy.

[27] Động cơ nhiệt hạch có môi chất công tác tương tự như tên lửa hóa học, dùng năng lượng từ phản ứng nhiệt hạch để thúc đẩy môi chất công tác có khối lượng, sinh ra lực đẩy để đưa tàu vũ trụ tiến lên; động cơ nhiệt hạch không môi chất công tác thì trực tiếp dùng năng lượng bức xạ của phản ứng nhiệt hạch để đẩy tàu vũ trụ. Loại đầu tiên, tàu vũ trụ cần phải mang theo môi chất đẩy, lúc tăng tốc hoặc giảm tốc khi di chuyển khoảng cách xa trong thời gian dài, lượng môi chất cần thiết là vô cùng lớn, vì vậy động cơ dạng có môi chất công tác không thể dùng trong viễn trình liên sao. (Chú thích của bản tiếng Trung.)

Thường Vĩ Tư nói: “Đồng chí Chương Bắc Hải ít nhất đã nêu ra một vấn đề đáng coi trọng: trước mắt, quân đội và giới khoa học đều đang bận rộn khởi động toàn diện công việc của mình mà thiếu sự giao lưu, trao đổi lẫn nhau. Cũng may, hai bên đều đã ý thức được tình trạng này, đang tổ chức một hội nghị liên tịch giữa quân đội và giới khoa học, đồng thời cả quân đội và các viện khoa học đều đã thành lập cơ quan chuyên môn nhằm tăng cường sự giao lưu trao đổi giữa hai bên, để cho việc nghiên cứu chiến lược chiến tranh không gian và nghiên cứu khoa học kỹ thuật liên kết chặt chẽ và thúc đẩy lẫn nhau. Bước tiếp theo, chúng ta sẽ cử ra nhiều đại biểu của quân đội đến các cơ sở nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khác nhau, đồng thời, cũng sẽ mời đông đảo nhà khoa học tham gia nghiên cứu lý thuyết chiến tranh không gian. Vẫn là câu nói ấy: chúng ta không thể thụ động chờ đợi đột phá công nghệ, mà cần phải mau chóng hình thành hệ thống tư tưởng chiến lược của riêng mình, xúc tiến nghiên cứu trên các lĩnh vực. Bây giờ, còn phải nói đến một tầng quan hệ khác nữa: mối quan hệ giữa không gian quân và Người Diện Bích.”

“Người Diện Bích à?” Có người lấy làm kinh ngạc hỏi, “Họ cũng can thiệp vào công việc của không gian quân sao?”

“Hiện tại vẫn chưa có dấu hiệu gì cho thấy như vậy, chỉ có Tyler đề nghị được tới quân chủng chúng ta khảo sát. Nhưng chúng ta cũng cần phải hiểu rõ, họ có quyền lực nhất định, nếu thực sự có can thiệp, có thể sẽ gây ra những ảnh hưởng không thể ngờ đến đối với công việc của chúng ta. Cần phải chuẩn bị tư tưởng về mặt này, khi thực sự có tình huống đó, cần phải giữ được sự cân bằng nhất định giữa kế hoạch Diện Bích và kế hoạch phòng ngự chính.”

Kết thúc buổi họp, Thường Vĩ Tư ngồi một mình trong phòng họp trống trải, ông châm một điếu thuốc, làn khói bay vào chùm ánh nắng chiếu qua cửa sổ, trông như thể cháy bùng lên.

Cho dù thế nào, tất cả rốt cuộc cũng bắt đầu rồi. Ông tự nhủ.

Đây là lần đầu tiên La Tập trải nghiệm cảm giác giấc mộng thành sự thực.

Anh vốn tưởng rằng lời hứa của Garanin chỉ là bốc phét, tất nhiên có thể tìm được một nơi rất đẹp, thiên nhiên vẫn còn nguyên sơ, nhưng chắc chắn phải khác rất nhiều so với những gì anh tưởng tượng. Thế nhưng, khi bước xuống máy bay trực thăng, La Tập có cảm giác như đang bước vào giấc mơ của chính mình: núi tuyết phía xa xa, hồ nước ở trước mặt, đồng cỏ và rừng rậm bên bờ hồ, thậm chí cả vị trí cũng giống hệt như bức tranh anh vẽ cho Garanin. Đặc biệt, nơi này rất trong lành, lúc trước anh còn không dám tưởng tượng được đến mức ấy, tất cả đều như thể vừa mới nhảy ra từ câu chuyện cổ tích nào, bầu không khí tươi mát tỏa ra mùi hương ngọt ngào thoang thoảng, đến cả vầng dương kia hình như cũng rất dè dặt, rải những phần ánh sáng dịu dàng nhất, đẹp đẽ nhất xuống nơi đây. Khó tin nhất là, bên hồ thực sự có một trang viên nhỏ, trung tâm của trang viên ấy là một ngôi biệt thự. Theo lời Kent đi cùng anh nói, ngôi biệt thự này được xây vào giữa thế kỷ 19, nhưng trông bề ngoài thì cổ hơn một chút, dấu vết mà năm tháng lưu lại đã khiến nó hòa nhập hẳn với môi trường xung quanh.

“Đừng kinh ngạc quá, con người ta có lúc cũng mơ thấy những nơi thực sự có tồn tại mà.” Kent nói.

“Ở đây có cư dân không?” La Tập hỏi.

“Trong bán kính năm cây số thì không, xa hơn nữa có một vài ngôi làng nhỏ.”

La Tập suy đoán, nơi này có thể ở Bắc Âu, nhưng anh không hỏi.

Kent dẫn La Tập đi vào biệt thự, trong phòng khách kiểu Âu rộng rãi, La Tập liền thấy ngay lò sưởi âm tường, bên cạnh còn có một đống củi được xếp gọn gàng để đốt lửa, tỏa ra một mùi hương thoang thoảng.

“Chủ nhân trước của biệt thự gửi lời chào đến anh, ông ấy rất vinh hạnh vì có một Người Diện Bích sống ở đây.” Kent nói, đoạn bảo La Tập, ngoài những trang thiết bị mà anh đã yêu cầu, trong trang viên này còn có thêm vài thứ: một chuồng ngựa có mười con, vì nếu muốn đi dạo về phía núi tuyết, cưỡi ngựa là tốt nhất; ở đây còn có một sân tennis và một sân golf, một hầm rượu, trên hồ có một du thuyền nhỏ và mấy chiếc thuyền buồm.

Bên trong căn biệt thự có bề ngoài cổ kính này đều đã được hiện đại hóa, phòng nào cũng có máy tính, các thứ như đường mạng tốc độ cao và ti vi vệ tinh đều đầy đủ, lại còn có một phòng chiếu phim kỹ thuật số. Ngoài những thứ này, lúc đến đây, La Tập còn để ý thấy bãi đậu máy bay trực thăng, hiển nhiên không phải là thứ mới được xây dựng một cách tạm bợ.

“Người này rất giàu đúng không?”

“Nào chỉ có giàu thôi, ông ấy không muốn để lộ tên tuổi, nếu không tôi nói tên ra chắc anh cũng biết… ông ấy đã đem cả mảnh đất này tặng cho Liên Hiệp Quốc, so với mảnh đất của Rockefeller tặng thì còn lớn hơn nhiều. Vì vậy, bây giờ cần phải xác định rõ ràng, mảnh đất này và những bất động sản đều thuộc về Liên Hiệp Quốc, anh chỉ có quyền cư trú. Nhưng anh cũng được khá nhiều rồi đấy: lúc sắp rời đi, chủ nhân có nói, ông ấy đã mang hết đồ của mình đi rồi, những thứ còn lại trong biệt thự đều tặng hết cho anh, chưa nói đến thứ gì khác, chỉ mấy bức tranh này thôi chắc cũng là một khoản tiền lớn rồi.”

Kent dẫn La Tập xem xét các phòng trong biệt thự, La Tập nhận thấy người chủ cũ của nơi này có gu thưởng thức rất tinh tế, cách bố trí mỗi phòng đều mang đến cho người ta một cảm giác yên bình, cao nhã. Sách trong thư phòng có một phần tương đối lớn là các bản in cổ bằng tiếng Latin. Những bức tranh trong phòng, đa phần đều theo phong cách hiện đại, nhưng lại hoàn toàn không bị xung khắc với những gian phòng nồng đậm bầu không khí cổ điển này. La Tập đặc biệt chú ý thấy ở đây không có bức tranh phong cảnh nào, điều này thể hiện một gu thẩm mỹ rất chín chắn: tòa biệt thự này tọa lạc giữa khu vườn Địa Đàng tuyệt đẹp rồi, treo tranh phong cảnh ở đây cũng thừa thãi hệt như đem một thùng nước đổ xuống đại dương.

Sau khi quay lại phòng khách, La Tập ngồi xuống chiếc ghế bập bênh cực kỳ dễ chịu trước lò sưởi, lúc vươn tay sang chiếc bàn nhỏ bên cạnh, anh chạm phải một thứ, cầm lên xem thì hóa ra là một tẩu thuốc, loại tẩu kiểu Âu nhưng lại có cán tẩu vừa nhỏ vừa dài rất hiếm thấy, đây là loại dùng trong nhà của giới quý tộc. Anh nhìn những ô vuông màu trắng trên tường, cố tưởng tượng những thứ vừa được chuyển đi.

Lúc này, Kent dẫn theo mấy người vào giới thiệu với La Tập, họ là quản gia, đầu bếp, lái xe, người coi ngựa, người lái du thuyền… đều đã từng phục vụ cho chủ nhân trước đây. Sau khi những người này đi khỏi, Kent lại giới thiệu một viên trung tá quân đội mặc thường phục, là người phụ trách an ninh ở đây. Đợi cho người kia đi khuất, La Tập hỏi Kent xem Sử Cường giờ đang ở đâu.

“Anh ta đã bàn giao lại công việc bảo vệ an toàn cho anh, hiện giờ có lẽ đã về nước rồi.”

“Bảo anh ta thay thế tay trung tá lúc nãy đi, tôi cảm thấy anh ta làm tốt hơn.”

“Tôi cũng thấy vậy, nhưng anh ta không biết tiếng Anh, làm việc không được tiện.”

“Vậy thì đổi nhân viên an ninh ở đây thành người Trung Quốc hết đi.”

Kent nhận lời sẽ đi liên hệ, rồi quay người ra ngoài.

La Tập cũng ra khỏi phòng, băng qua thảm cỏ được cắt tỉa hết sức kỹ lưỡng, bước lên cầu tàu vươn ra giữa hồ, ở cuối cầu tàu, anh vịn lan can, ngắm nhìn hình bóng núi tuyết phản chiếu trong mặt hồ phẳng lặng như gương, xung quanh là bầu không khí trong lành ngọt mát và ánh mặt trời rực rỡ. La Tập thầm nhủ: so với cuộc sống lúc này, thế giới hơn bốn trăm năm nữa có đáng là gì đâu?

Mặc xác cái kế hoạch Diện Bích.

***

“Sao lại để tên khốn ấy vào đây thế nhỉ?” Một nhân viên nghiên cứu ngồi trước thiết bị đầu cuối thấp giọng nói.

“Người Diện Bích tất nhiên có thể vào đây rồi.” Một người khác ngồi bên cạnh thấp giọng trả lời.

“Rất bình thường phải không, chắc là khiến ngài thất vọng rồi, đúng không ngài Tổng thống?” Giám đốc phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos, tiến sĩ Allen nói trong lúc đưa Rey Díaz đi qua những hàng máy tính.

“Tôi đã không còn là tổng thống nữa rồi.” Rey Díaz nghiêm sắc mặt nói, đồng thời đảo mắt nhìn xung quanh.

“Đây là một trong các trung tâm mô phỏng vũ khí hạt nhân, Los Alamos có bốn trung tâm thế này, bên Lawrence Livermore có ba.”

Rey Díaz thấy hai thứ trông bề ngoài có vẻ không bình thường lắm, nhìn rất mới, có màn hình hiển thị lớn, trên bàn điều khiển còn có rất nhiều tay nắm thiết kế tinh xảo đẹp mắt, ông ta nhích lại gần xem xét kỹ càng hơn, tiến sĩ Allen liền nhẹ nhàng kéo ông ta lại: “Đó là máy chơi game, các thiết bị đầu cuối và máy tính ở đây đều không thể chơi game được, vì vậy mới đặt hai chiếc ở đây để mọi người thư giãn lúc nghỉ ngơi.”

Rey Díaz lại nhìn thấy hai thứ không quá bình thường khác, kết cấu trong suốt mà rất phức tạp, bên trong có chất lỏng đang chuyển động, ông ta lại đến gần xem xét, lần này Allen chỉ lắc đầu cười cười, không ngăn lại, “Đấy là máy phun hơi ẩm, khí hậu bang New Mexico rất khô; cái kia, chỉ là máy pha cà phê tự động thôi… Mike, rót cho ngài Rey Díaz một ly cà phê. Không, đừng lấy ở đây, sang phòng làm việc của tôi lấy loại cà phê hảo hạng ấy.”

Rey Díaz đành phải nhìn tấm ảnh đen trắng được phóng rất lớn trên tường, ông ta nhận ra người gầy gò đội mũ ngậm tẩu thuốc là Oppenheimer[28], nhưng Allen vẫn chỉ cho ông ta xem những thiết bị đầu cuối trông chẳng có gì đặc biệt.

[28] Julius Robert Oppenheimer (1904-1967): Nhà vật lý lý thuyết người Mỹ, giáo sư Đại học California tại Berkeley. Là lãnh đạo thời chiến của Phòng thí nghiệm Los Alamos, ông là một trong số những “cha đẻ của bom nguyên tử” với vai trò trong Dự án Manhattan, dự án thời Chiến tranh Thế giới thứ II phát triển các vũ khí hạt nhân đầu tiên.

“Những màn hình này cũ quá rồi.” Rey Díaz nói.

“Nhưng đằng sau chúng là máy tính mạnh nhất thế giới đấy, mỗi giây có thể thực hiện được năm trăm nghìn tỷ phép tính.”

Lúc này, một kỹ sư đi tới trước mặt Allen, nói: “Tiến sĩ, mô hình AD4453OG đã hoạt động được rồi.”

“Tốt lắm.”

Giọng tay kỹ sư thấp xuống một chút: “Chúng tôi đã tạm dừng module xuất ra rồi.” Nói đoạn, anh ta liếc nhìn Rey Díaz.

“Vận hành đi.” Allen nói, đoạn quay sang Rey Díaz. “Ngài thấy đấy, chúng tôi không che giấu gì với Người Diện Bích cả.”

Lúc này, Rey Díaz nghe thấy một loạt tiếng rẹt rẹt, ông ta thấy những người ngồi trước các thiết bị đầu cuối đều đang xé giấy, tưởng rằng họ đang tiêu hủy hồ sơ, bèn lẩm bẩm: “Các ông không có máy hủy tài liệu à?”

Nhưng ngay sau đó, ông ta lại thấy có người xé toàn là giấy in trắng tinh.

Không rõ là ai hét lên một tiếng: “Over!” Tất cả mọi người đều tung toàn bộ đống giấy vụn vừa xé lên không trong tiếng hoan hô vang dội, khiến cho sàn nhà vốn đã bừa bộn trông lại càng giống bãi rác hơn.

“Đây là một truyền thống của trung tâm mô phỏng. Năm đó, khi quả bom nguyên tử đầu tiên nổ, tiến sĩ Fermi[29] đã rải một nắm giấy vụn lên không trung, dựa theo khoảng cách bay đi trong sóng xung kích để tính toán chuẩn xác đương lượng của quả bom. Bây giờ, mỗi khi một mô hình được tính toán thành công, chúng tôi cũng làm như vậy.”

[29] Enrico Fermi (1901-1954): Nhà vật lý lý thuyết và thực nghiệm người Ý, với nghiên cứu về lò Chicago Pile-1, lò phản ứng hạt nhân do con người xây dựng đầu tiên trên thế giới, và nổi tiếng với những công trình đóng góp cho cơ học lượng tử, vật lý hạt nhân, vật lý hạt, cơ học thống kê. Cùng với Robert Oppenheimer, ông được coi là một trong những “cha đẻ của bom nguyên tử”, ông có một số bằng sáng chế liên quan đến năng lượng hạt nhân, và nhận giải Nobel Vật lý năm 1938 cho lý thuyết phóng xạ cảm ứng và phát hiện ra các nguyên tố siêu urani.

Rey Díaz phủi mảnh giấy vụn trên đầu và vai, nói: “Mỗi ngày các ông đều tiến hành thử nghiệm hạt nhân, đối với các ông, chuyện này dễ dàng như chơi trò chơi điện tử vậy, nhưng chúng tôi thì không được, chúng tôi không có siêu máy tính, chỉ có thể thử thật… Cùng làm một chuyện, bao giờ cũng chỉ có người nghèo là bị ghét.”

“Ông Rey Díaz, những người ở đây đều không có hứng thú gì với chính trị.”

Rey Díaz lần lượt lại gần mấy thiết bị đầu cuối xem xét kỹ lưỡng, bên trên chỉ có những số liệu đang nhảy liên tục và những đồ thị biến ảo, khó khăn lắm mới nhìn ra được vài hình ảnh, nhưng cũng như tranh trừu tượng vậy, chẳng biết chúng nghĩa là gì. Khi Rey Díaz lại đến gần một máy tính khác, nhà vật lý ngồi trước màn hình ngẩng đầu lên nói: “Ngài Tổng thống, ngài muốn trông thấy đám mây hình nấm à, không có đâu.”

“Tôi không phải tổng thống.” Rey Díaz lặp lại một lần nữa khi nhận cốc cà phê mà Mike đưa cho.

Allen nói: “Vậy, hay là bàn xem chúng tôi có thể làm gì cho ông đi.”

“Thiết kế bom hạt nhân.”

“Tất nhiên, tuy phòng thí nghiệm Los Alamos là cơ quan nghiên cứu đa ngành, nhưng tôi đoán ông đến đây chắc cũng không có mục đích gì khác. Có thể nói cụ thể hơn không? Loại hình gì, đương lượng bao nhiêu?”

“PDC sắp tới sẽ gửi yêu cầu kỹ thuật hoàn chỉnh cho các ông. Tôi chỉ nói điểm quan trọng nhất: đương lượng lớn, lớn nhất, làm lớn chừng nào hay chừng đó. Giới hạn thấp nhất cho phép là 200 megaton.”

Allen trợn mắt lên nhìn Rey Díaz một lúc lâu, rồi cúi đầu trầm ngâm giây lát: “Chuyện này cần có thời gian.”

“Không phải các ông đã có mô hình toán học rồi sao?”

“Tất nhiên, ở chỗ chúng tôi, từ đạn pháo hạt nhân 500 ton cho đến bom nguyên tử cỡ lớn sức nổ 20 megaton, từ bom neutron đến bom xung điện từ EMP… đều có mô hình toán học cả. Nhưng đương lượng nổ mà ông yêu cầu thực sự quá lớn, gấp hơn mười lần đương lượng nổ của quả bom nhiệt hạch lớn nhất thế giới hiện nay. Quá trình tiếp xúc và tiến hành phản ứng nhiệt hạch của thứ này hoàn toàn khác với bom hạt nhân thông thường, có khả năng còn cần đến một kết cấu hoàn toàn mới, chúng tôi không có mô hình tương ứng.”

Bọn họ lại bàn bạc thêm một hồi về kế hoạch tổng thể của công trình nghiên cứu này, trước lúc từ biệt, Allen nói: “Ông Rey Díaz, tôi biết, trong nhóm tham mưu của ông ở PDC có các nhà vật lý xuất sắc nhất, chắc hẳn họ cũng đã nói với ông một số điều về tác dụng của bom hạt nhân trong chiến tranh không gian rồi.”

“Ông có thể nhắc lại.”

“Được rồi, trong chiến tranh không gian, bom hạt nhân có lẽ là loại vũ khí có hiệu suất tương đối thấp, vụ nổ hạt nhân trong môi trường chân không không sinh ra sóng xung kích, áp suất ánh sáng cũng không đáng nhắc tới, bởi vậy sẽ không có sức tấn công cơ học như khi nổ trong bầu khí quyển. Toàn bộ năng lượng của nó sẽ được phóng thích dưới dạng bức xạ và xung điện từ, mà ngay cả loài người chúng ta cũng đã nắm rất vững công nghệ lá chắn điện từ chống bức xạ cho tàu vũ trụ rồi.”

“Nếu trực tiếp bắn trúng mục tiêu thì sao?”

“Đó là chuyện hoàn toàn khác, lúc này, nhiệt lượng sẽ có tác dụng quyết định, rất có thể sẽ nung chảy mục tiêu, thậm chí khiến nó bốc hơi. Nhưng một quả bom có sức nổ vài trăm megaton, có thể sẽ lớn bằng cả tòa nhà, muốn trực tiếp bắn trúng mục tiêu sợ là không dễ… thực ra, xét về mặt tấn công cơ học, vũ khí hạt nhân không bằng vũ khí động năng; về cường độ bức xạ thì không bằng vũ khí chùm hạt, mà so về sức phá hoại nhiệt năng thì lại càng không bằng tia gamma.”

“Nhưng mấy loại vũ khí mà ông nói đều chưa thể sử dụng trong thực chiến. Bom hạt nhân dẫu sao vẫn là vũ khí mạnh nhất mà loài người sử dụng thành thạo nhất trong thời điểm hiện tại, còn vấn đề hiệu quả tấn công trong không gian mà ông nói, có thể nghĩ ra phương pháp cải tiến, ví dụ như cho thêm môi chất gì đó vào để hình thành sóng xung kích, kiểu như nhét thêm bi sắt vào trong lựu đạn vậy.”

“Đây là một ý tưởng rất thú vị, ông quả không hổ là một nhà lãnh đạo xuất thân từ giới khoa học.”

“Vả lại, tôi học ngành năng lượng nguyên tử mà, vì vậy tôi thích bom hạt nhân, cảm giác với nó là tốt nhất.”

“Ha ha, tôi quên mất, thảo luận vấn đề với một Người Diện Bích như thế này thật là một chuyện tức cười.”

Hai người đều cười phá lên, nhưng tiếng cười của Rey Díaz tắt ngay sau đó, ông ta nghiêm túc nói: “Tiến sĩ Allen, ông cũng giống như những người khác, đã thần bí hóa chiến lược của Người Diện Bích lên mất rồi, trong các loại vũ khí có thể đưa vào thực chiến mà loài người hiện đang sở hữu, uy lực mạnh nhất là bom nhiệt hạch và phản ứng nhiệt hạch của đại nguyên tử[30]. Tôi tập trung chú ý vào một trong hai thứ đó, không phải là rất tự nhiên hay sao? Tôi cho rằng phương thức tư duy của mình là chính xác.”

[30] Đây là một khái niệm hư cấu tác giả nghĩ ra để giải thích về hiện tượng sét hòn trong tiểu thuyết Sét hòn xuất bản năm 2005.

“Vậy tại sao ông không nghĩ đến phản ứng nhiệt hạch của đại nguyên tử chứ?”

“Ông còn chưa biết chuyện à? Cựu bộ trưởng quốc phòng của các ông đã đi trước một bước, đang bắt tay vào làm rồi, ông ta đã đi Trung Quốc.”

Lúc này, hai người dừng bước, họ đang đi trên một con đường nhỏ u tĩnh giữa rừng cây, tiến sĩ Allen nói: “Fermi và Oppenheimer đã đi qua con đường này vô số lần. Sau vụ Hiroshima và Nagasaki, hầu hết các nhà nghiên cứu chế tạo vũ khí hạt nhân thế hệ đầu tiên đều sống nửa đời còn lại trong u uất, nếu họ ở trên trời mà biết sứ mệnh của vũ khí hạt nhân lúc này, hẳn là sẽ thấy được an ủi lắm.”

“Vũ khí, dù đáng sợ chừng nào, dẫu sao cũng là thứ tốt… giờ điều tôi muốn nói là, lần sau khi tôi đến, mong rằng sẽ không thấy các ông ném giấy vụn nữa, chúng ta cần phải cho Hạt trí tuệ ấn tượng sạch sẽ.”

Vì lý do thời tiết, tàu con thoi Mayflower buộc phải chuyển sang hạ cánh ở sân bay dự bị, Frederick Tyler cũng vì vậy mà phải vội vã ngồi máy bay trực thăng từ Trung tâm vũ trụ Kennedy tới Căn cứ không quân Edwards.

Ông ta đứng ở cuối đường băng, nhìn tàu Mayflower đang cắt dù giảm tốc chầm chậm dừng lại. Tyler cảm thấy một luồng sóng nhiệt từ phía đó ập đến, trong mắt ông ta, thân tàu con thoi phủ lớp gốm chống nhiệt toát lên một thứ cảm giác thô kệch nguyên thủy, trông như di vật từ thời Cách mạng công nghiệp. Nghĩ đến trong cả một khoảng thời gian khá dài từ rày về sau, cái thứ tiêu hao nhiều, hiệu suất thấp này vẫn là công cụ chủ yếu để vận chuyển con người lên không gian, Tyler lại không khỏi thở dài lắc đầu.

Sau khi khoang tàu mở, những người đầu tiên bước ra là năm thành viên tổ bay cùng với hai học giả vừa được đón về từ Trạm vũ trụ quốc tế ISS, kế đó có hai người mang theo cáng vào khoang tàu, khiêng ra một người, có lẽ để tiện xoay trở trên cáng, người này đã cởi bỏ trang phục du hành vũ trụ từ trong khoang tàu.

Sau khi cáng được khiêng xuống theo cầu thang bên sườn tàu, chỉ huy tàu bước tới nói với người nằm trên cáng: “Tiến sĩ Đinh Nghi, đi xuống khỏi tàu con thoi bằng hai chân là tôn nghiêm tối thiểu của một người lữ hành không gian.”

Đinh Nghi nằm trên cáng nói: “Toàn bộ loài người đều chẳng còn tôn nghiêm gì nữa rồi, hẳn anh cũng đã biết phát hiện lần này của chúng tôi, Thượng tá, cảnh anh làm tình tối nay cũng sẽ bị Hạt trí tuệ quan sát và ghi lại một cách say sưa hứng thú đấy.”

“Tiến sĩ, tôi thật sự không muốn phải đi cùng một chuyến bay với anh nữa.” Chỉ huy tàu ném hai vật nhỏ lên cáng, Đinh Nghi cầm lên, phát hiện chính là tẩu thuốc của mình, nhưng đã bị gẫy làm đôi.

“Các anh phải bồi thường tôi đấy! Đây là Dunhill phiên bản kỷ niệm, có biết là bao nhiêu tiền không?” Đinh Nghi nằm trên cáng choải người dậy, tức đến bủn rủn cả người hét toáng lên, nhưng cảm giác chóng mặt và buồn nôn lại khiến anh ta phải nằm xuống.

“NASA không phạt anh là may cho anh rồi đó.” Chỉ huy trưởng chẳng buồn quay đầu lại, rảo nhanh chân đuổi theo các đồng nghiệp đi trước.

Tyler bước nhanh đến bên cáng, chào hỏi Đinh Nghi.

“Ồ, Người Diện Bích, chào ông!” Đinh Nghi vươn cánh tay gầy gò ra bắt tay Tyler, nhưng lại tức khắc rụt trở về, cùng tay kia nắm chặt vào khung cáng, “Này, các anh khiêng cho vững vào chứ!” Anh ta hét lên với người khiêng cáng.

“Thưa anh, chúng tôi nãy giờ vẫn khiêng rất vững.”

“Sao tôi cứ thấy ngửa ra sau là sao?”

Người khiêng cáng giải thích: “Cơ quan cảm nhận thăng bằng của anh đã thích ứng với trạng thái không trọng lực, hiện giờ đang thích ứng lại với trọng lực bình thường.”

Tyler mỉm cười nói: “Có điều trông anh cũng có vẻ ổn lắm.”

“Ông nói dối!” Đinh Nghi nói.

“À, tất nhiên, sắc mặt anh hơi nhợt nhạt một chút, nhưng tôi nghĩ đây cũng là chuyện bình thường. Dù sao chúng ta cũng là động vật sống trên mặt đất… Tôi muốn nói chuyện với anh một lát.”

“Bọn họ bảo còn phải kiểm tra sức khỏe gì đó nữa.”

“Rất xin lỗi, chỉ một phút thôi, chuyện rất gấp.”

“Ô, trời ơi, lại nghiêng về phía sau rồi… tôi nghĩ tự đi còn dễ chịu hơn ấy.” Đinh Nghi nói, vung tay bảo người khiêng cáng dừng lại, anh ta lăn người xuống, vừa chạm đất đã ngã ngồi phịch xuống.

Tyler kéo Đinh Nghi dậy, vắt một cánh tay anh ta qua vai mình, giống như đỡ người say đi về phía xe phục vụ sân bay ở cách đó không xa, vừa đi ông ta vừa nói: “Hy vọng anh có thể tham gia vào kế hoạch của tôi, trên người anh có mùi gì vậy?”

“Không khí trên đó như là địa ngục ấy, trên lưới lắp miệng máy lọc tuần hoàn thậm chí còn có cả thứ ở trong nhà xí… kế hoạch mà ông nói là gì thế?”

“Tôi muốn xây dựng một đội quân không gian độc lập, sử dụng vũ khí nhiệt hạch dùng đại nguyên tử.”

Đinh Nghi nhìn Tyler từ trên vai ông ta, khi Rey Díaz nói muốn chế tạo bom hạt nhân có sức công phá trên 200 megaton, giám đốc Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos cũng đưa qua ánh mắt này. “Tôi bảo này, các ông tốt nhất là đừng lãng phí tiền của người nộp thuế nữa đi.”

“Nói chuyện lãng phí nguồn vốn, cho đến giờ vẫn còn chưa ai giỏi hơn được đám nghiên cứu vật lý các người đâu: các anh cổ động chế tạo ra bốn máy gia tốc hạt, xây được nửa chừng đều dừng lại hết, nhưng chúng ta đã bỏ vào đó mấy chục tỷ đô la rồi đấy.” Tyler nói.

“Chế tạo máy gia tốc hạt không phải đề nghị của tôi, tôi vẫn luôn cho rằng xây thêm nhiều máy gia tốc để chạy đua với Hạt trí tuệ là cách làm ngu xuẩn hết sức, vì vậy tôi mới đi lên không gian.”

“Tôi cũng định lên không gian, thu thập hạt nhân đại nguyên tử trên đó dễ dàng hơn.”

Lúc này, họ đã đi tới trước cửa xe, Đinh Nghi uể oải dựa vào cửa xe, nói với Tyler: “Trong nhóm tham mưu của ông chắc là có nhà vật lý nào đấy chứ.”

“Có, ba người được giải Nobel, họ bảo tôi rằng: nếu như ví việc chúng ta thu thập hạt nhân nguyên tử triển khai ở cấu trúc chiều thấp hơn trong trạng thái tự nhiên - tức là hạt nhân đại nguyên tử - giống như người nguyên thủy chế tạo cung tên, thì người Tam Thể triển khai hạt vi mô xuống cấu trúc chiều thấp hơn chính là đã nắm giữ công nghệ tên lửa. Văn minh Tam Thể am hiểu về đại nguyên tử hơn loài người chúng ta không biết bao nhiêu lần, sử dụng loại vũ khí này đối phó với bọn họ… những học giả ấy đã dùng một câu thành ngữ Trung Quốc mà tôi không hiểu lắm… bảo là múa búa trước cửa Lỗ Ban.”

“Ông không tin lời bọn họ sao?”

“Tất nhiên, xét theo lẽ thường thì họ nói đúng, nhưng hiện tại thì phản ứng nhiệt hạch của đại nguyên tử là vũ khí có uy lực nhất mà chúng ta nắm trong tay, về mặt chiến lược, tôi nghĩ đến nó không phải là rất bình thường hay sao?”

“Tay tổng thống Venezuela kia cũng nói thế trên ti vi, hình như ông ta muốn làm bom nhiệt hạch nguyên tử thông thường thì phải.”

Lúc này, có người đẩy Đinh Nghi lên xe, Tyler thô bạo ngăn người đó lại, kéo tay Đinh Nghi nói: “Cung tên cũng không đến nỗi tuyệt đối không thể chiến thắng tên lửa… nếu cộng thêm mưu kế thủ đoạn của con người nữa, về phương diện âm mưu, người Tam Thể cũng đi sau nhân loại một quãng xa như chúng ta chạy sau bọn chúng về mặt khoa học kỹ thuật vậy. Loài người dùng mưu kế lừa gạt lính tên lửa đi ra xa khỏi tên lửa, rồi dùng cung tên tiêu diệt hắn, vậy chẳng phải là ổn rồi sao.”

“Vậy thì xin chúc ông thành công, tôi không có hứng thú tham gia đâu.”

“Kỹ thuật thu thập hạt nhân đại nguyên tử đã thành thục rồi, không có anh chúng tôi cũng làm được, nhưng trong thời khắc nguy nan của nền văn minh nhân loại này, một nhà khoa học như anh sao lại có thể khoanh tay mà đứng nhìn như thế.”

“Tôi đang làm việc có ý nghĩa hơn nhiều. Dự án mà chúng tôi triển khai trên trạm vũ trụ lần này, chính là tiến hành nghiên cứu hạt cao năng lượng trong các tia vũ trụ, nói cách khác, chính là dùng vũ trụ làm máy gia tốc hạt. Việc này vẫn luôn được tiến hành từ hồi trước, nhưng do hạt cao năng lượng phân bố trong vũ trụ rất bất định, đặc biệt những hạt siêu năng lượng cần trong nghiên cứu vật lý tuyến đầu lại càng khó tìm bắt, nên không thể thay thế nghiên cứu bằng máy gia tốc được. Phương thức dò tìm hạt cao năng lượng trong vũ trụ rất giống với dò tìm hạt ở đầu cuối máy gia tốc, nhưng giá thành tại mỗi điểm dò tìm ấy lại rất thấp, có thể xây dựng với số lượng lớn trên không gian. Lần này đã đầu tư số tiền vốn dự trù đem xây dựng máy gia tốc trên mặt đất, thiết lập hơn trăm điểm dò tìm. Chúng tôi tiến hành thực nghiệm suốt một năm, vốn cũng chẳng hy vọng tìm ra được thứ gì có giá trị, mà chỉ muốn kiểm tra xem có phải đã có thêm nhiều Hạt trí tuệ khác đến Hệ Mặt trời rồi hay không.”

“Kết quả?” Tyler căng thẳng hỏi.

“Tất cả các sự kiện va chạm cao năng lượng dò tìm được, bao gồm cả những hình thức va chạm đã có kết quả xác định từ thế kỷ trước, đều thể hiện ra sự hỗn loạn toàn phần.”

“Cũng có nghĩa là, Hạt trí tuệ hiện nay đã có thể cùng lúc quấy nhiễu trên một trăm máy gia tốc.”

“Có lẽ chúng ta xây dựng thêm cả mười nghìn điểm dò tìm, bọn chúng cũng có thể quấy nhiễu được, vì vậy, số lượng Hạt trí tuệ ở Hệ Mặt trời hiện nay đã không chỉ là hai hạt nữa rồi."

“Ừm…” Tyler ngẩng đầu ngước nhìn bầu trời xa thẳm, nhất thời không nói được gì. Nói gì bây giờ? Nói gì bọn chúng cũng đều đang lắng nghe, bọn chúng đang ùn ùn kéo đến, những con mắt nhỏ li ti có ở khắp mọi nơi, lúc này chắc chắn chúng cũng đang trôi dập dềnh ở xung quanh ông ta, ông ta nói với Đinh Nghi cũng tức là nói với những người Tam Thể ở cách đây bốn năm ánh sáng. Nhất thời, ông ta thực sự có ý nghĩ muốn trực tiếp nói chuyện với đám người Tam Thể kia.

“Có điều, vậy cũng vừa hay chứng minh được tính cần thiết của kế hoạch Diện Bích.” Đinh Nghi nói.

Sau khi xe công vụ rời khỏi đó, Tyler đứng một mình trên đường băng hồi lâu, nhìn tàu con thoi Mayflower được kéo về phía nhà chứa. Thực ra, ông ta chẳng nhìn thấy gì cả, chỉ đang nghĩ đến một mối nguy khác mà trước đây ông ta đã lơ là bỏ sót: Giờ người ông ta cần tìm đến không phải nhà vật lý, mà là bác sĩ hoặc nhà tâm lý học, và cả những chuyên gia nghiên cứu giấc ngủ nữa.

Tóm lại là, tìm những người có thể khiến mình ngủ mà không nói mớ.


Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play

trướctiếp