Tam Thể 2 - Khu Rừng Đen Tối

II.1.1


10 tháng

trướctiếp

“Thầy giáo La, xin hãy thay trang phục.” Người thanh niên vừa đi vào nói, cúi xuống mở cái túi vừa xách vào, mặc dù đối phương tỏ ra rất lễ độ và lịch thiệp, La Tập vẫn cảm thấy khó chịu như thể vừa nuốt phải con nhặng.

Nhưng khi người thanh niên kia lấy quần áo trong túi ra, La Tập mới biết đó không phải thứ dành cho nghi phạm mặc, mà là một chiếc áo khoác màu nâu trông rất bình thường, anh nhận lấy áo lật qua lật lại xem xét, thấy chất liệu rất dày dặn, kế đó lại phát hiện ra Sử Cường và người thanh niên kia cũng mặc loại áo khoác này, chỉ có màu sắc khác.

“Mặc vào đi, cũng thoáng khí dễ chịu lắm, nếu mặc cái loại hàng lởm của chúng tôi hồi trước, cậu mà không chết nóng tôi mới lấy làm lạ đấy.” Sử Cường nói.

“Áo chống đạn.” Người thanh niên giải thích.

Ai lại đi giết mình chứ? La Tập vừa thay áo vừa thầm nghĩ.

Ba người ra khỏi gian phòng ấy, men theo hành lang đã đi qua lúc đến đây, ra chỗ thang máy. Phía trên hành lang có ống thông gió bằng sắt tây hình vuông, mấy cánh cửa mà họ đi qua đều thuộc loại nặng nề, kín đặc. La Tập còn để ý thấy, trên một vách tường loang lổ có dòng khẩu hiệu mờ mờ, chỉ nhìn rõ được một phần, nhưng La Tập đã biết toàn bộ nội dung của nó: “Đào hang sâu, trữ lương nhiều, không xưng bá.”[17]

[17] Chỉ thị của Mao Trạch Đông năm 1972. Bắt đầu từ giữa những năm 60 thế kỷ 20, do các dự đoán nghiêm trọng về tình hình quốc tế, Mao Trạch Đông đã nhấn mạnh phải làm nổi bật vấn đề chuẩn bị cho chiến tranh, chuẩn bị lương thực vải vóc, đào hầm trú ẩn, xây công sự.

“Đây là công sự dân phòng hả?” La Tập hỏi Sử Cường.

“Không phải loại bình thường đâu, chống bom nguyên tử đấy, giờ bỏ hoang, thời ấy người bình thường không vào đây được đâu.”

“Vậy chúng ta đang ở… Tây Sơn[18]?” La Tập đã nghe đồn đại về chốn này, Sử Cường và người thanh niên đều không trả lời. Họ bước vào trong thang máy kiểu cũ, cái thang lập tức chạy lên trên, phát ra những tiếng ken két rất lớn, người điều khiển thang là một cảnh sát vũ trang đeo súng tiểu liên sau lưng, hiển nhiên cũng là lần đầu tiên làm việc này, lập cập điều chỉnh hai ba lần mới đưa được thang máy lên tầng -1.

[18] Núi thuộc dãy Thái Hàng, nằm phía Tây thành phố Bắc Kinh, là nơi đặt bộ chỉ huy tác chiến của lực lượng vũ trang Trung Quốc nằm sâu dưới mặt đất 100 m, đủ sức ngăn chặn sự tấn công bằng bom hạt nhân, có thể đóng vai trung tâm chỉ huy chiến tranh quốc gia vào thời chiến.

Ra khỏi thang máy, La Tập thấy mình đi vào một gian sảnh rộng rãi nhưng trần rất thấp, giống như một hầm đậu xe. Ở đây đậu kín các loại xe, một số đã khởi động sẵn, khiến không khí ngập tràn một thứ mùi cay mũi.

Giữa các hàng xe có rất nhiều người đang đứng hoặc di chuyển, ở trong đây rất tối, chỉ có một góc tít đằng xa là có đèn chiếu sáng. Người đều là những bóng đen lù lù, chỉ khi mấy người trong số họ đi qua luồng đèn ô tô ở phía xa, La Tập mới trông ra là những binh sĩ vũ trang đến tận răng, còn có cả mấy sĩ quan đang hét vào máy bộ đàm, cố át tiếng động cơ, giọng nghe có vẻ rất căng thẳng.

Sử Cường dẫn theo La Tập đi xuyên qua hai hàng xe, người trẻ tuổi đi theo đằng sau, La Tập nhìn ánh đèn đỏ sau xe và ánh đèn pha chiếu qua khoảng cách giữa những chiếc xe hắt lên người Sử Cường, khiến thân hình gã lúc ẩn lúc hiện với những màu sắc khác nhau, không ngờ lại nhớ đến quán rượu tối tăm nơi anh đã quen cô gái đó.

Sử Cường dẫn La Tập đến trước một chiếc xe, mở cửa ra để anh ngồi vào trong. La Tập ngồi xuống, liền phát hiện ra chiếc xe này bên trong rất rộng rãi, nhưng cửa sổ xe lại nhỏ đến mức bất thường, nhìn mép cửa có thể thấy vỏ xe rất dày. Đây là một chiếc xe đã được gia cố, tấm kính cửa sổ xe nhỏ xíu khá đục khó nhìn xuyên qua, có lẽ cũng là loại chống đạn. Cửa xe để mở một nửa, La Tập nghe thấy cuộc đối thoại giữa Sử Cường và người thanh niên kia.

“Đội trưởng Sử, vừa nãy bọn họ gọi điện, bảo là dọc đường lại thăm dò một lượt nữa, tất cả vị trí canh gác cũng đã bố trí xong xuôi rồi.”

“Tình hình dọc đường phức tạp lắm, chuyện đó vốn dĩ cũng chỉ có thể làm qua loa vài lượt thôi, khó mà khiến người ta yên tâm cho được. Việc bố trí vị trí cảnh giới cứ làm theo lời tôi ấy, phải đặt mình ở địa vị đối phương mà suy nghĩ, nếu cậu thuộc phía bên kia, cậu sẽ nấp ở đâu? Các chuyên gia về phương diện này bên cảnh sát vũ trang phải tư vấn thêm một chút… ờ, những việc tiếp sau thì sắp xếp thế nào?”

“Họ không nói.”

Sử Cường cao giọng gắt lên: “Cậu làm cái mẹ gì thế hả, chuyện quan trọng như vậy mà không hỏi cho rõ nữa!”

“Đội trưởng, theo ý cấp trên, hình như là chúng ta phải luôn đi theo.”

“Đi theo cả đời cũng được, nhưng sang bên đó thì nhất định phải có bàn giao, phân công trách nhiệm cần phải rõ ràng! Phải có ranh giới chứ lại, chậc! Trước đó mà xảy ra chuyện thì trách nhiệm thuộc về chúng ta, sau đó xảy ra chuyện thì là do bọn họ chứ.”

“Họ không nói…” Người thanh niên dường như rất khó xử.

“Trịnh à, tôi biết cậu có cảm giác tự ti mà, con bà nhà nó chứ, Thường Vĩ Tư thăng quan rồi, bọn cấp dưới của ông ta giờ nhìn chúng ta lại càng mắt vác lên trời, nhưng mà bản thân chúng ta phải coi trọng chính mình chứ. Bọn đấy là cái thá gì? Có ai chĩa súng vào bọn chúng bắn phát nào chưa, bọn chúng đã bắn ai phát nào chưa? Trong chiến dịch lớn lần trước, nhìn cái đám ấy mà xem, bao nhiêu hàng ngon, hàng cao cấp đều đem ra dùng cả, cứ như diễn trò ấy. Đến cả máy bay có hệ thống kiểm soát và cảnh báo sớm cũng đem ra rồi, thế mà chọn địa điểm tập kết cuối cùng chẳng phải vẫn nhờ đến chúng ta đấy còn gì? Cái này là để dành cho chúng ta một chỗ đứng… Trịnh à, tôi phải nói bã bọt mép mới điều được mấy tên các cậu qua đây đấy, cũng không biết có phải là hại các cậu nữa hay không.”

“Đội trưởng, anh đừng nói thế.”

“Đây là thời loạn, thời loạn đấy, hiểu không? Lòng người thực sự không còn như xưa nữa rồi, mọi người đều muốn đùn chuyện xúi quẩy cho người khác, vì vậy không thể không phòng bị người khác được đâu… nói mấy cái này với cậu là vì tôi không yên tâm, tôi còn cầm cự được bao lâu nữa đây? Về sau, cái mớ bòng bong này sợ là đều trút cả lên cậu đấy.”

“Đội trưởng, bệnh tình của anh cũng phải tính toán cho sớm, cấp trên không phải đã đặt lịch cho anh ngủ đông rồi sao?"

“Phải sắp xếp xong xuôi mọi chuyện đã, nào nhà cửa, nào công việc, các cậu cứ thế này tôi liệu có yên tâm được không?”

“Anh cứ yên tâm về chúng tôi đi, bệnh này của anh thực sự không thể kéo dài được nữa đâu, sáng nay răng anh chảy máu lại không cầm được nữa rồi.”

“Không sao đâu, mạng tôi lớn mà, chuyện này thì cậu biết còn gì, trong số những lần tôi bị người ta bắn, đã có đến ba lần đạn xịt rồi.”

Lúc này, các xe ở một bên mé hầm đã bắt đầu lần lượt đi ra, Sử Cường chui vào trong xe đóng cửa lại, khi xe bên cạnh chạy đi, xe họ cũng khởi động. Sử Cường kéo rèm cửa sổ ở hai bên, trong xe lại còn có một tấm chắn trong mờ ngăn cách ghế sau xe với phần ghế lái, thành thử La Tập hoàn toàn không thể quan sát được tình hình bên ngoài. Dọc đường, bộ đàm của Sử Cường cứ réo không ngừng, nhưng La Tập không nghe rõ nói những gì, thỉnh thoảng, Sử Cường lại đáp lại một câu ngắn ngủn.

Xe chạy được không lâu, La Tập nói với Sử Cường: “Sự việc còn phức tạp hơn những gì anh nói.”

“Đúng thế. Bây giờ cái gì cũng trở nên phức tạp hết cả rồi.” Sử Cường đáp lấy lệ, vẫn dồn sự chú ý vào máy bộ đàm, dọc đường, hai người không nói thêm với nhau câu nào nữa.

Đường đi dường như rất thuận lợi, chiếc xe không giảm tốc dù chỉ một lần, chạy chừng khoảng một tiếng đồng hồ thì dừng lại.

Sử Cường xuống xe, ra hiệu cho La Tập đợi bên trong, sau đó đóng cửa xe lại. Lúc này, La Tập nghe thấy có tiếng ầm ầm, xem ra là từ phía trên nóc xe vẳng xuống. Mấy phút sau, Sử Cường mở cửa xe để La Tập đi ra.

Vừa ra ngoài, La Tập lập tức biết họ đang ở sân bay nào đó, tiếng ầm ầm lúc nãy giờ đã trở nên đinh tai nhức óc, anh ngẩng đầu ngước nhìn, phát hiện hai chiếc trực thăng lơ lửng phía trên, mỗi chiếc quay về một hướng, như đang giám sát khu vực trống trải này. Trước mặt La Tập có một máy bay lớn, trông như máy bay chở khách, nhưng ở phần thân anh nhìn thấy được lại không thể tìm ra logo của hãng hàng không. Cửa xe mở ra ngay trước thang lên máy bay, Sử Cường và La Tập bước lên đó. Trước khi vào khoang máy bay, La Tập ngoảnh đầu lại liếc nhìn một lượt, thứ đầu tiên anh trông thấy là một dãy máy bay chiến đấu xếp thẳng hàng ở bãi đậu máy bay phía đằng xa, nhờ vậy anh biết nơi này không phải là sân bay dân dụng.

Nhìn xung quanh, anh phát hiện ra có mười mấy chiếc xe cùng đi tới đây, các binh sĩ trên xe bước xuống đã quây thành một vòng lớn xung quanh máy bay này. Dưới ánh chiều tà, máy bay hắt bóng dài thượt xuống đường băng phía trước, trông như một dấu chấm than khổng lồ.

La Tập và Sử Cường đi vào khoang máy bay, có ba người mặc âu phục màu đen ra đón bọn họ, dẫn họ đi qua khoang trước. Trong khoang không một bóng người, nhìn cũng giống như máy bay chở khách, có bốn hàng ghế trống. Nhưng khi vào khoang giữa, La Tập thấy trong khoang là một gian phòng làm việc tương đối rộng rãi, còn có cả một buồng con, qua cánh cửa khép hờ, La Tập nhận ra đó là buồng ngủ. Đồ đạc ở đây đều hết sức bình thường, sạch sẽ gọn gàng, nếu không nhìn dây an toàn màu xanh trên sô pha và ghế, thì không có cảm giác đang ở trên máy bay. La Tập biết, cả nước cũng chẳng có mấy chuyên cơ thế này.

Hai trong ba người vừa dẫn họ vào đi thẳng qua một cánh cửa khác phía đuôi máy bay, người trẻ nhất ở lại với họ, nói: “Mời hai anh cứ ngồi tự nhiên, nhưng nhất thiết phải thắt dây an toàn, tuyệt đối chú ý, không chỉ là lúc cất cánh hạ cánh, toàn bộ hành trình đều phải thắt dây an toàn, lúc ngủ cũng phải móc túi ngủ an toàn trên giường vào; chớ để những đồ vật nhỏ không cố định ở bên ngoài; cố gắng hết sức không rời khỏi chỗ ngồi hoặc giường, nếu cần đứng dậy hoạt động, nhất định phải thông báo trước cho cơ trưởng. Ấn nút thế này là có thể bật thiết bị đàm thoại lên, bên cạnh chỗ ngồi và giường đều có cả, ấn xong có thể nói chuyện luôn, nếu còn nhu cầu gì khác, các anh cũng có thể ấn nút để gọi chúng tôi.”

La Tập nghi hoặc nhìn Sử Cường, anh ta giải thích: “Máy bay này có thể sẽ bay theo kiểu đặc biệt.”

Người kia gật đầu, “Đúng vậy, có việc gì cứ nhắn tôi, gọi tôi là Tiểu Trương được rồi, sau khi cất cánh tôi sẽ mang cơm tối cho hai anh.”

Sau khi Tiểu Trương đi khỏi, La Tập và Sử Cường ngồi lên sô pha, tự thắt chặt dây an toàn. La Tập đưa mắt nhìn xung quanh, ngoài ô cửa sổ hình tròn và mặt tường có cửa sổ hơi cong cong, tất cả đều rất bình thường và quen thuộc, đến nỗi hai người họ thắt dây an toàn ngồi trong gian phòng làm việc bình thường này cứ có cảm giác là lạ. Nhưng rất nhanh sau đó, tiếng ầm ầm của động cơ và những chấn động nhè nhẹ nhắc nhở hai người rằng họ đang ở trên một chiếc máy bay, máy bay đang chạy về phía đường băng, mấy phút sau, cùng với sự thay đổi của âm thanh động cơ, trọng lượng thay đổi khiến hai người lún sâu vào ghế sô pha. Khi chấn động từ mặt đất đã lắng xuống, sàn phòng làm việc nghiêng đi trước mặt họ. Máy bay lên cao dần, vầng tịch dương đã lặn giờ lại chiếu một chùm sáng vào ô cửa khoang máy bay. Đúng mười phút trước, vầng Mặt trời này cũng chiếu tia nắng cuối cùng của ngày hôm nay vào phòng bệnh của cha Chương Bắc Hải.

Khi chiếc máy bay chở La Tập bay qua bờ biển, ở mười nghìn mét phía dưới, Ngô Nhạc và Chương Bắc Hải chăm chú nhìn tàu sân bay Đường vẫn đang đóng dở. So với trước đó cũng như sau này, đây là thời điểm La Tập ở gần hai vị sĩ quan này nhất.

Giống như lần trước, thân tàu đồ sộ chìm trong ánh chiều tà vừa buông xuống, những tia lửa hàn trên vỏ tàu hình như không dày đặc như lần trước nữa, ánh đèn chiếu lên đó cũng tối đi nhiều. Mà lúc này, Ngô Nhạc và Chương Bắc Hải đã không còn thuộc hải quân nữa.

“Nghe nói, Tổng cục trang bị quốc phòng đã quyết định ngừng công trình đóng tàu Đường rồi.” Chương Bắc Hải nói.

“Chuyện này còn liên quan đến chúng ta nữa sao?” Ngô Nhạc hờ hững trả lời, dời ánh mắt khỏi con tàu, dõi nhìn ráng mây chiều còn sót lại phía trời Tây.

“Từ khi gia nhập quân chủng không gian, tâm trạng của anh vẫn rất tệ.”

“Hẳn cậu phải biết nguyên nhân chứ, lúc nào cậu cũng dễ dàng nhìn thấu được suy nghĩ của tôi, có lúc còn nhìn rõ hơn cả chính bản thân tôi nữa, được cậu nhắc nhở, tôi mới biết mình đang thực sự nghĩ gì.”

Chương Bắc Hải xoay người lại, nhìn thẳng vào Ngô Nhạc: “Anh cảm thấy bi thương vì phải lao mình vào một cuộc chiến tranh định sẵn sẽ thất bại. Anh rất ngưỡng mộ thế hệ cuối cùng của không gian quân, đang tuổi thanh niên mà đã có thể chiến đấu đến hơi thở cuối, rồi mai táng cùng hạm đội trong không gian. Nhưng dốc hết tâm huyết cả đời mình vào một sự nghiệp hoàn toàn không có hy vọng gì như vậy, đối với anh quả thực là rất khó khăn.”

“Có muốn khuyên giải tôi điều gì không?”

“Không, sự tôn sùng công nghệ và lý thuyết dùng công nghệ giành chiến thắng đã ăn sâu bén rễ trong tư tưởng của anh, từ lâu tôi đã biết sẽ không thể thay đổi được anh rồi, chỉ có thể gắng hết sức giảm bớt thiệt hại mà tư tưởng này gây ra trong công tác mà thôi. Ngoài ra, về cuộc chiến này, tôi không cho rằng thắng lợi của nhân loại là điều bất khả thi.”

Lúc này, Ngô Nhạc đã gỡ tấm mặt nạ hờ hững, đón lấy ánh mắt Chương Bắc Hải: “Bắc Hải, trước đây cậu từng là một người rất thực tế, cậu phản đối việc đóng tàu sân bay Đường, trong các cuộc họp chính thức cũng từng nhiều lần chất vấn dự án thành lập hải quân viễn dương, cho rằng không phù hợp với thực lực của nước ta, cậu cho rằng lực lượng biển của chúng ta nên ở gần bờ, lúc nào cũng nằm trong vòng bảo hộ và chi viện của hỏa lực bờ biển, suy nghĩ này bị phe trẻ tuổi hăng hái trong quân đội mắng là chiến lược rùa đen rụt cổ, nhưng cậu vẫn khăng khăng như vậy… Vậy thì lúc này, niềm tin tất thắng trong cuộc chiến tranh liên sao này của cậu từ đâu mà ra? Cậu thật sự cho rằng thuyền gỗ nhỏ có thể đánh chìm được tàu sân bay hay sao?”

“Thời mới lập quốc, hải quân vừa mới thành lập đã dùng thuyền gỗ đánh chìm tàu khu trục của quân Quốc dân đảng; trước đó nữa, quân ta cũng từng có những trận điển hình dùng kỵ binh đánh bại xe tăng.”

“Cậu không đến nỗi coi những truyền kỳ đó là lý thuyết quân sự bình thường và phổ quát đấy chứ?”

“Trong trận chiến này, văn minh Trái đất không cần đến lý thuyết quân sự phổ quát bình thường, chỉ cần một ngoại lệ là đủ rồi.” Chương Bắc Hải giơ một ngón tay lên trước mặt Ngô Nhạc.

Ngô Nhạc nở nụ cười mỉa mai: “Tôi muốn nghe xem cậu biến cái ngoại lệ này thành sự thực bằng cách nào?”

“Tôi tất nhiên không hiểu gì về chiến tranh không gian, nhưng nếu anh so sánh nó giống như dùng thuyền gỗ nhỏ đánh với tàu sân bay, vậy thì tôi cho rằng chỉ cần có can đảm và sách lược hành động cùng niềm tin tất thắng, thuyền gỗ thực sự có khả năng đánh chìm tàu sân bay đấy. Thuyền gỗ chở một tiểu đội thợ lặn, mai phục trên tuyến đường tàu sân bay sẽ đi qua, khi tàu địch đến khoảng cách nhất định, thợ lặn xuống nước, thuyền gỗ rời đi, khi tàu sân bay đi qua phía trên, tiểu đội thợ lặn sẽ gắn bom vào đáy tàu… tất nhiên làm vậy là cực kỳ khó khăn, nhưng cũng không phải là không thể.”

Ngô Nhạc gật đầu, “Đúng thế, có người đã từng thử làm vậy, thời Thế chiến II, người Anh đã dùng cách này để đánh chìm chiến hạm thiết giáp Tirpitz của quân Đức, chỉ cần dùng một tàu ngầm cỡ nhỏ thôi; những năm 80 của thế kỷ trước, thời kỳ chiến tranh Falkland, có vài binh sĩ thuộc lực lượng đặc biệt của Argentina đã mang theo thủy lôi từ tính xâm nhập nước Ý, hòng lặn xuống nước đánh chìm tàu quân sự của Anh đậu trong cảng. Có điều, kết quả thế nào cậu cũng biết rồi đó."

“Nhưng chúng ta không chỉ có thuyền gỗ nhỏ, một đầu đạn hạt nhân có đương lượng 1 đến 2 kiloton hoàn toàn có thể chế tạo đủ nhỏ cho một thợ lặn mang theo được, nếu gắn vào đáy tàu sân bay thì không chỉ đánh chìm nó, mà tàu sân bay lớn mấy cũng bị nổ thành mảnh vụn.”

“Có nhiều lúc, trí tưởng tượng của cậu rất phong phú.” Ngô Nhạc cười cười nói.

“Thứ tôi có là lòng tin thắng lợi.” Chương Bắc Hải hướng ánh mắt về phía tàu Đường, những tia lửa hàn phía xa ánh lên trong đôi mắt anh hai ngọn lửa nho nhỏ.

Ngô Nhạc cũng nhìn tàu Đường, lần này gã lại có một ảo tưởng mới: con tàu không còn giống như tòa quan ải cổ xưa bị bỏ hoang nữa, mà tựa như một vách đá dựng đứng từ thời viễn cổ, trên vách đá có rất nhiều hang núi sâu thẳm âm u, những đốm lửa hàn thưa thớt chính là ánh đuốc bập bùng hắt ra từ trong lòng hang.

Từ sau khi máy bay cất cánh đến lúc ăn xong bữa tối, La Tập vẫn không hề hỏi Sử Cường những câu kiểu như đang đi đâu, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Nếu anh ta biết, và có thể nói cho mình thì anh ta đã nói từ lâu rồi. Có một lần, La Tập cởi dây an toàn đi tới trước cửa khoang máy bay, định bụng nhìn ra ngoài xem, dù anh biết rõ sau khi trời tối thì chẳng thấy gì, nhưng Sử Cường vẫn đi theo, kéo tấm che cửa sổ lại, bảo rằng chẳng có gì mà xem cả.

“Chúng ta nói chuyện một lúc nữa rồi đi ngủ, được không?” Sử Cường nói, đồng thời rút bao thuốc lá, nhưng gã nhanh chóng nhớ ra đang ở trên máy bay, bèn cất đi.

“Ngủ? Xem chừng chúng ta phải bay rất lâu nhỉ?”

“Nghĩ làm gì, máy bay có giường, sao chúng ta không hưởng thụ cho sướng đời đi chứ.”

“Các anh chỉ phụ trách đưa tôi đến địa điểm chỉ định thôi, phải không?”

“Cậu cằn nhằn cái gì chứ, bọn tôi còn phải quay về nữa đây này!” Sử Cường nhe răng ra cười, lấy làm đắc ý với câu nói của mình, có vẻ như niềm vui của gã là dùng lối bông đùa tàn khốc ấy giày vò người khác.

Song, sau đó gã lại trở nên hơi nghiêm túc, “Về chuyến đi này của cậu, tôi cũng chẳng biết nhiều hơn cậu là mấy, với lại cũng không đến lượt tôi nói gì với cậu đâu. Yên tâm đi, sẽ có người giải thích rõ tất cả mọi chuyện cho cậu hiểu.”

“Tôi suy đoán từ nãy đến giờ, chỉ nghĩ ra một đáp án khả dĩ.”

“Nói thử xem nào, xem có giống suy đoán của tôi không.”

“Cô ấy chắc là một người bình thường thôi, vậy thì chỉ có khả năng quan hệ xã hội hoặc gia đình của cô ấy không phải tầm thường.” La Tập không biết gia đình cô, cũng như mấy người tình trước, kể cả họ có nói thì anh cũng chẳng tài nào nhớ nổi vì không hứng thú.

“Ai cơ, à, cái cô người tình một tuần của cậu ấy hả? Đừng nghĩ về cô ta nữa thì hơn, đằng nào cậu cũng có để ý đâu. Mà thôi, nghĩ cũng được, cứ như cậu nói đi, thử lần lượt đối chiếu họ tên và gương mặt với các nhân vật lớn xem nào?”

La Tập thầm đối chiếu trong đầu một lúc, không nghĩ ra ai cả.

“Thầy giáo La này, anh có biết gạt người khác không?” Sử Cường hỏi, đến lúc này, La Tập đã phát hiện ra một quy luật: lúc nói đùa Sử Cường gọi mình là chú em, còn khi hơi nghiêm túc một chút, sẽ gọi là thầy giáo La.

“Tôi cần phải gạt ai chứ?”

“Tất nhiên là cần rồi… Vậy để tôi dạy cậu cách gạt người nhé, tất nhiên tôi cũng không phải có nghề lắm đâu, công việc của tôi nặng về chống lừa đảo và vạch trần các trò bịp bợm hơn. Thế này vậy, tôi sẽ giảng giải cho cậu vài kỹ xảo cơ bản trong thẩm vấn, sau này có thể cậu sẽ dùng đến, lúc ấy biết người biết ta cũng dễ đối phó hơn một chút. Tất nhiên, chỉ là những thứ cơ bản nhất, thường dùng nhất thôi, những thứ phức tạp thì nhất thời cũng không thể nói hết được. Đầu tiên là cách lịch sự nhất, cũng là cách đơn giản nhất: lập danh sách, tức là lập một danh sách các câu hỏi có liên quan đến vụ án, càng nhiều câu hỏi càng tốt, những câu xa tít mù tắp cũng cứ liệt kê vào, sau đó trộn những câu hỏi quan trọng lẫn trong đấy, rồi lần lượt hỏi, ghi lại câu trả lời của đối tượng thẩm vấn, sau đó lại hỏi lại từ đầu một lần nữa, cũng ghi lại câu trả lời, nếu cần có thể hỏi đi hỏi lại rất nhiều lần, cuối cùng đối chiếu biên bản những lần này với nhau. Nếu đối tượng nói dối, thì mỗi lần đáp án cho những câu hỏi giống nhau sẽ có điểm khác nhau. Đừng khinh biện pháp này đơn giản, về cơ bản, những người chưa được huấn luyện phản gián sẽ không vượt qua được đâu. Để đối phó với chiêu lập danh sách này, biện pháp đáng tin cậy nhất chính là giữ im lặng.”

Sử Cường mải nói, bất giác lại móc bao thuốc ra, nhưng nhớ ra trên máy bay không được hút thuốc, bèn cất đi.

“Anh hỏi thử xem, đây là chuyên cơ, chắc có thể hút thuốc đấy.” La Tập nói.

Sử Cường đang nói hăng say, hơi bực mình khi La Tập ngắt lời mình, La Tập kinh ngạc nhận ra, dường như gã thực sự rất nghiêm túc, hoặc không thì đùa cũng dai quá rồi. Sử Cường nhấn cái nút màu đỏ của thiết bị đàm thoại bên cạnh ghế sô pha, hỏi xem được hút thuốc không, quả nhiên Tiểu Trương trả lời cứ thoải mái. Vậy là hai người liền lấy thuốc ra phì phèo hút.

“Chiêu tiếp theo là vừa đấm vừa xoa. Cậu với được gạt tàn không, cố định đấy, phải giật lên, được rồi. Chiêu này gọi là mặt đen mặt trắng. Kỹ xảo thẩm vấn này cần có nhiều người phối hợp, hơi phức tạp một chút. Đầu tiên là mặt đen ra trước, thông thường có hai người trở lên. Bọn họ sẽ rất hung hăng với cậu, có thể dùng lời lẽ, mà cũng có thể là động cả tay chân, nói tóm lại là rất dữ tợn. Đây cũng là sách lược cả đấy, không chỉ khiến cậu nảy sinh sợ hãi, mà quan trọng hơn là kích thích cảm giác cô độc bên trong cậu, khiến cậu cảm thấy cả thế giới ngoài lũ sói đang muốn ăn tươi nuốt sống cậu ra thì chẳng còn gì nữa. Bấy giờ, mặt trắng sẽ ra tay, chắc chắn chỉ có một người, vả lại một trăm phần trăm là phải mặt mũi hiền từ đôn hậu, hắn sẽ ngăn bọn mặt đen lại, nói rằng cậu ấy cũng là một con người, cũng có quyền con người, sao các anh có thể đối xử với cậu ấy như thế? Lũ mặt đen vặc lại, bảo anh đi đi, đừng ảnh hưởng đến công việc của tụi tôi. Mặt trắng vẫn kiên trì, nói các anh không được làm như vậy! Lũ mặt đen lại bảo, đã biết là anh không làm được chuyện này rồi, không làm được thì phắn đi cho xong! Mặt trắng bèn đưa cả thân mình che chắn cho cậu: tôi phải bảo vệ quyền lợi của cậu ấy, bảo vệ sự công chính của pháp luật! Lũ mặt đen sẽ bảo, cứ đợi đấy, ngày mai anh sẽ khốn nạn thôi! Sau đó, bọn chúng tức tối hậm hực bỏ đi. Khi chỉ còn lại hai người, mặt trắng sẽ lau mồ hôi, lau máu cho cậu, bảo cậu đừng sợ, có tôi ở đây, bọn họ không dám làm gì đâu, dù tôi gặp phải hậu quả gì, nhất định cũng sẽ bảo vệ quyền lợi của cậu! Cậu không muốn nói thì đừng nói, cậu có quyền im lặng! Tiếp sau đấy thế nào thì cậu cũng có thể nghĩ được rồi đấy, khi đó hắn liền trở thành người thân duy nhất của cậu trên thế giới này rồi, trước sự dụ dỗ của hắn, cậu sẽ không im lặng đâu… Chiêu này đối phó với phần tử trí thức là có tác dụng nhất, nhưng không giống với chiêu lập danh sách lúc trước, chỉ cần cậu biết rồi thì nó thất bại ngay. Tất nhiên, những chiêu trò tôi vừa nói thông thường đều không dùng đơn lẻ, một cuộc thẩm vấn thực sự là cả một công trình lớn, là sự tổng hợp của nhiều loại kỹ xảo…”

Sử Cường càng nói càng hào hứng, cơ hồ muốn giằng khỏi dây an toàn đứng bật dậy, nhưng La Tập nghe mà như rơi vào trong hố băng, nỗi tuyệt vọng và sợ hãi một lần nữa tóm chặt lấy anh, Sử Cường để ý thấy điều này, bèn ngừng câu chuyện lại.

“Được rồi, được rồi, không nói chuyện thẩm vấn nữa, tuy rằng những kiến thức này về sau có thể cậu sẽ dùng đến, nhưng nhất thời cũng không thể tiếp nhận hết được. Với lại, tôi vốn định dạy cho cậu cách gạt người như thế nào thôi, chú ý một điểm: nếu lòng dạ cậu thật sự sâu xa, thì nhất thiết không được thể hiện điều đó ra ngoài. Không giống như trong phim đâu, những người mưu kế sâu xa thực sự chẳng bao giờ mặt mũi sầm sì làm bộ làm tịch sâu xa cả, họ hoàn toàn không thể hiện ra là mình đang dùng đầu óc, trông bề ngoài đều rất hòa nhã, rất trong sáng, có người thì lại tỏ ra thô tục, suốt ngày lải nhải, có người thì hì hì hà hà chẳng bao giờ nghiêm túc… mấu chốt trong mấu chốt là để người khác đừng coi cậu ra gì, khiến đối phương coi thường cậu, khinh rẻ cậu, cảm thấy cậu không phải là trở ngại, chỉ như cái chổi ở góc tường, có cũng được mà không cũng được, cảnh giới cao nhất là khiến bọn chúng hoàn toàn không chú ý đến cậu, coi như cậu không tồn tại, cho đến khoảnh khắc chết trong tay cậu thì mới sực tỉnh ra.”

“Tôi có cần thiết, hay có thể nói là có cơ hội trở thành người như thế không?” La Tập rốt cuộc cũng chen vào một câu.

“Vẫn là câu nói kia: chuyện này tôi biết cũng chẳng nhiều hơn cậu, nhưng tôi có dự cảm. Cậu nhất định phải trở thành một người như thế, thầy giáo La à, nhất định!” Sử Cường đột nhiên trở nên kích động, một tay gã chụp lấy vai La Tập, chụp rất mạnh, khiến La Tập đau nhói.

Hai người im lặng, nhìn mấy làn khói xanh vấn vít bay lên, cuối cùng bị hút vào một tấm lưới ô vuông trên trần.

“Thôi, đi ngủ đi.” Sử Cường dụi tắt điếu thuốc vào gạt tàn, cười cười lắc đầu: “Không ngờ lại đem mấy chuyện này ra nói với cậu, sau này nghĩ lại đừng có cười tôi đấy nhé.”

Vào phòng ngủ, La Tập cởi áo chống đạn ra chui vào trong túi ngủ an toàn, Sử Cường giúp anh buộc túi ngủ vào móc an toàn cố định trên giường, đồng thời đặt lên tủ đầu giường một cái lọ nhỏ.

“Thuốc an thần, không ngủ được thì uống một viên, tôi định lấy rượu nhưng mà họ bảo không có.”

Kế đó, gã dặn dò La Tập trước khi xuống giường hoạt động lâu thì nhất thiết phải báo cho cơ trưởng, đoạn đi ra ngoài.

“Cảnh sát Sử.” La Tập gọi.

Sử Cường đứng ở cửa ngoảnh đầu lại: “Giờ tôi đã không còn là cảnh sát nữa rồi, chuyện này không có cảnh sát tham gia đâu, họ đều gọi tôi là Đại Sử.”

“Được rồi, Đại Sử, lúc nãy khi chúng ta nói chuyện, tôi để ý đến một câu nói của anh, hoặc có thể nói là cách anh phản ứng với một câu nói của tôi cũng được: khi tôi nói ‘cô ấy’, anh nhất thời không nhớ ra người tôi nói đến là ai, điều này chứng tỏ, trong sự kiện này, cô ấy không đóng vai trò quan trọng gì cả."

“Cậu là một trong những người bình tĩnh nhất mà tôi từng gặp đấy.”

“Sự bình tĩnh này là do cái tính yếu thế của tôi mà ra đấy, trên đời này hiếm có thứ gì khiến tôi để ý lắm.”

“Nói gì thì nói, tôi chưa gặp người nào có thể bình tĩnh như vậy trong hoàn cảnh này đâu. Đừng để ý những thứ tôi nói lúc trước, con người tôi ấy mà, cũng chỉ biết lấy người khác ra tìm trò vui như thế thôi.”

“Anh muốn tìm một sự việc nào đấy để khóa chặt sự chú ý của tôi vào đó, hòng thuận lợi hoàn thành sứ mệnh của mình.”

“Nếu đã khiến cậu nghĩ ngợi lung tung thì cho tôi xin lỗi.”

“Vậy anh nói xem, giờ tôi nên nghĩ theo chiều hướng nào?"

“Theo kinh nghiệm của tôi, theo hướng nào cũng lệch lạc cả, giờ chỉ nên ngủ thôi.”

Sử Cường đã đi khỏi, sau khi cánh cửa đóng lại, chỉ một ngọn đèn nhỏ màu đỏ trên đầu giường là còn sáng, căn phòng trở nên tối om. Âm thanh nền là tiếng động cơ ù ù bây giờ mới nổi rõ, tràn lan khắp mọi nơi, tựa hồ bầu trời đêm vô tận chỉ cách gian phòng này có một bức vách đang ngâm nga vậy.

Sau đó, La Tập cảm thấy đây không phải là ảo giác, hình như thực sự có một phần trong âm thanh này đến từ nơi nào đó rất xa xôi bên ngoài. Anh tháo móc túi ngủ ra, bò dậy, đẩy mở tấm che ô cửa phía trên đầu giường.

Phía ngoài, biển mây thấm đẫm ánh trăng, trắng bạc một mảng. La Tập nhanh chóng nhận ra, bên trên biển mây, vẫn còn thứ gì đó cũng đang tỏa ra ánh bạc, đó là bốn đường thẳng tắp, trông cực kỳ nổi bật trên nền trời đêm.

Chúng đang vươn dài với tốc độ ngang bằng vận tốc máy bay chở anh, phần đuôi nhạt dần đến khi tan vào màn đêm, trông như bốn thanh kiếm bạc đang bay phía trên biển mây. La Tập lại nhìn phần đầu bốn tia sáng bạc ấy, phát hiện bốn vật thể lấp lóa ánh kim loại, vệt màu bạc chính là do chúng tuôn ra… đó là bốn chiếc máy bay tiêm kích, có thể tưởng tượng, phía bên kia máy bay này cũng có bốn chiếc nữa.

La Tập đóng tấm che lại, chui vào túi ngủ, nhắm chặt hai mắt, cố gắng thả lỏng tinh thần, không phải muốn ngủ, mà là tìm cách tỉnh lại khỏi cơn mộng này.

Đêm khuya, buổi họp công tác của không gian quân vẫn đang tiếp diễn.

Chương Bắc Hải đẩy cuốn sổ công tác và tập hồ sơ trên mặt bàn ra, nhổm người đứng dậy, đảo mắt quan sát một lượt các sĩ quan đã lộ vẻ mệt mỏi trong hội trường, đoạn quay sang phía Thường Vĩ Tư.

“Thủ trưởng, trước khi báo cáo công tác, tôi muốn trình bày ý kiến của mình một chút. Tôi cho rằng lãnh đạo quân chủng vẫn chưa coi trọng đúng mức công tác chính trị tư tưởng đối với quân nhân, ví dụ như trong buổi họp này, trong sáu cơ quan đã thành lập, cơ quan chính trị được xếp báo cáo công tác sau cùng.”

“Ý kiến này tôi tiếp thu.” Thường Vĩ Tư gật đầu, “Chính ủy quân chủng vẫn chưa nhậm chức, tôi phải kiêm nhiệm quản lý cả hai mặt chính trị và công tác, hiện giờ, các công việc đều vừa mới triển khai, về phương diện này quả thực khó mà chú ý nhiều, công việc chủ yếu vẫn phải nhờ các đồng chí - những người trực tiếp phụ trách.”

“Thủ trưởng, tôi cho rằng tình trạng này rất nguy hiểm.” Câu nói này thu hút sự chú ý của mấy vị sĩ quan khác, Chương Bắc Hải nói tiếp, “Tôi nói hơi thẳng, mong thủ trưởng bỏ qua cho, một là vì đã họp cả ngày trời, giờ mọi người đều đã mệt, không nói vậy thì chẳng ai nghe cả.” Có mấy người bật cười lên, những người dự họp khác vẫn chìm trong cảm giác mệt mỏi.

“Quan trọng hơn là, giờ trong lòng tôi quả thực rất sốt ruột. Trận chiến mà chúng ta đang phải đối mặt đây, sự chênh lệch về lực lượng giữa ta và địch là lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh của loài người, bởi vậy, tôi cho rằng, trong một khoảng thời gian tương đối dài, nguy cơ lớn nhất đe dọa không gian quân chính là chủ nghĩa thất bại. Nguy cơ này có nhấn mạnh đến đâu cũng chưa đủ, hậu quả gây ra nếu chủ nghĩa thất bại lan tràn, tuyệt đối không chỉ dừng ở lòng quân không ổn định, mà có thể sẽ dẫn đến sụp đổ toàn diện lực lượng vũ trang không gian của chúng ta đó.”

“Đồng ý.” Thường Vĩ Tư lại gật đầu, “Chủ nghĩa thất bại là kẻ địch lớn nhất hiện nay, quân ủy cũng đã có nhận thức sâu sắc về điểm này, vì vậy công tác chính trị tư tưởng trong quân chủng phải gánh vác một sứ mệnh lớn lao, mà một khi đội ngũ cơ sở của không gian quân được hình thành, công tác sẽ càng thêm phức tạp, độ khó cũng lớn hơn bội phần.”

Chương Bắc Hải mở sổ công tác ra. “Tiếp theo tôi xin báo cáo công tác. Quân chủng không gian mới được thành lập, về phương diện công tác chính trị tư tưởng trong quân, công việc chủ yếu mà chúng ta đã làm là điều tra tìm hiểu tình trạng tư tưởng chung của các chỉ huy và chiến sĩ. Do trước mắt, số lượng cán bộ nhân viên của quân chủng mới còn tương đối ít, các cấp hành chính ít, cơ cấu đơn giản, nên việc điều tra chủ yếu thông qua tọa đàm và giao lưu cá nhân, đồng thời xây dựng diễn đàn tương ứng trên mạng nội bộ. Kết quả điều tra rất đáng lo ngại, tư tưởng thất bại chủ nghĩa đang tồn tại khá phổ biến trong quân nhân, vả lại còn có xu thế lan rộng nhanh chóng. Sợ địch như sợ hổ, thiếu lòng tin đối với tương lai cuộc chiến, đó là tâm thái của một số không ít các đồng chí."

“Nguồn gốc tư tưởng của chủ nghĩa thất bại, chủ yếu là sự sùng bái công nghệ một cách mù quáng, coi nhẹ hoặc bỏ qua tác dụng của tinh thần và tính tích cực chủ động của con người trong chiến tranh, đây cũng là do trào lưu tư tưởng dùng công nghệ để chiến thắng và lý thuyết suy tôn vũ khí mới xuất hiện mấy năm gần đây trong quân đội, hiện đang lan rộng và phát triển trong nội bộ không gian quân, trào lưu tư tưởng này thể hiện đặc biệt nổi bật ở các sĩ quan có học thức cao. Chủ nghĩa thất bại trong quân chủ yếu được biểu hiện dưới các hình thức sau đây":

“Một, coi sứ mệnh của mình trong không gian quân như một nghề nghiệp bình thường, trong công việc tuy có tận tâm tận sức, nghiêm túc chịu trách nhiệm, nhưng thiếu lòng nhiệt tình và cảm giác sứ mệnh, nghi ngờ ý nghĩa tối hậu của công việc mình đang làm."

“Hai, tiêu cực chờ đợi, cho rằng thắng bại của cuộc chiến tranh này là do các kỹ sư và nhà khoa học quyết định, rằng trước khi các nghiên cứu cơ sở và nghiên cứu công nghệ mấu chốt có được đột phá quan trọng, quân chủng không gian chỉ là lâu đài trên cát, vì vậy không nắm rõ được trọng điểm công việc trước mắt, thỏa mãn với các công tác mang tính sự vụ trong việc xây dựng quân chủng, thiếu sự sáng tạo."

“Ba, có ảo tưởng không thực tế, yêu cầu được áp dụng công nghệ ngủ đông cho mình để vượt qua bốn thế kỷ, trực tiếp tham gia vào trận quyết chiến cuối cùng. Trước mắt, đã có mấy đồng chí trẻ bày tỏ nguyện vọng này, có người đã chính thức đệ đơn. Nhìn bề ngoài, đây là tâm thái tích cực khao khát lao lên tuyến đầu cuộc chiến, nhưng thực chất lại là một biểu hiện khác của chủ nghĩa thất bại, thiếu lòng tin vào thắng lợi, ngờ vực ý nghĩa của các công tác trong hiện tại, bởi vậy mà danh dự quân nhân liền trở thành cột trụ duy nhất cho công việc và cuộc đời họ."

“Bốn, trái ngược với biểu hiện trên, là nảy sinh ngờ vực cả với danh dự người lính, cho rằng chuẩn mực đạo đức truyền thống của quân đội đã không còn thích hợp với cuộc chiến này nữa, chiến đấu đến cùng là vô nghĩa, cho rằng tiền đề để có danh dự người lính là phải có người chứng kiến, mà một khi trận chiến này thất bại, trong vũ trụ sẽ không còn nhân loại nữa, vậy thì bản thân danh dự ấy cũng mất đi ý nghĩa rồi. Tuy rằng chỉ một số ít người có suy nghĩ này, nhưng tư tưởng phủ nhận sạch trơn giá trị tối hậu của lực lượng vũ trang không gian này là vô cùng có hại.”

Nói tới đây, Chương Bắc Hải đưa mắt nhìn quanh hội trường, nhận ra những lời này đã thu hút được chú ý của một vài người, nhưng vẫn không quét sạch được bầu không khí mệt mỏi bao trùm cả gian phòng. Tuy vậy, anh có lòng tin những lời tiếp theo sẽ thay đổi tình trạng này.

“Sau đây, tôi muốn lấy một ví dụ cụ thể, ở đồng chí này, chủ nghĩa thất bại có biểu hiện rất điển hình, tôi muốn nói đến thượng tá Ngô Nhạc.”

Chương Bắc Hải đưa tay chỉ về phía Ngô Nhạc ở phía đối diện bàn họp.

Sự mệt mỏi trong hội trường lập tức bị quét bay, tất cả những người có mặt đều kích động, họ căng thẳng nhìn Chương Bắc Hải, rồi lại nhìn Ngô Nhạc, Ngô Nhạc tỏ ra rất bình tĩnh, nhìn Chương Bắc Hải với ánh mắt tĩnh lặng.

“Tôi và đồng chí Ngô Nhạc là cộng sự với nhau một thời gian dài trong hải quân, hiểu nhau rất rõ. Anh ấy rất say mê công nghệ, là một thuyền trưởng kiểu công nghệ, hoặc có thể nói là một thuyền trưởng kỹ sư cũng không ngoa. Đây vốn không phải là chuyện xấu, nhưng thật đáng tiếc, trong tư tưởng quân sự, anh ấy lại quá ỷ lại vào công nghệ. Tuy không nói rõ, nhưng trong tiềm thức anh ấy vẫn luôn cho rằng công nghệ tiên tiến là yếu tố chủ yếu, thậm chí duy nhất quyết định sức chiến đấu của quân đội, đồng thời coi nhẹ vai trò của yếu tố con người trong chiến tranh, đặc biệt là chưa nhận thức đầy đủ được ưu thế riêng có mà quân đội ta đã hình thành trong điều kiện lịch sử gian khổ. Khi biết được nguy cơ Tam Thể, anh ấy đã mất đi niềm tin với tương lai, sau khi gia nhập không gian quân, nỗi tuyệt vọng này lại càng lộ rõ hơn. Tư tưởng thất bại chủ nghĩa của đồng chí Ngô Nhạc đã nặng như vậy, thâm căn cố đế như vậy, chúng ta không còn hy vọng khiến anh ấy phấn chấn trở lại được nữa. Cần phải sớm thực hiện các biện pháp mạnh mẽ, có hiệu quả để kiềm chế sự phát triển của chủ nghĩa thất bại trong quân, vì vậy, tôi cho rằng đồng chí Ngô Nhạc đã không còn thích hợp để công tác trong quân chủng không gian nữa.”

Mọi người đều dồn ánh mắt về phía Ngô Nhạc, lúc này, gã đang nhìn quân hiệu không gian quân trên chiếc mũ đặt trên bàn họp, vẻ mặt vẫn rất bình tĩnh.

Trong quá trình phát biểu, Chương Bắc Hải từ đầu chí cuối đều không nhìn về phía Ngô Nhạc một lần nào. Anh nói tiếp: “Mong thủ trưởng, đồng chí Ngô Nhạc và mọi người hiểu cho, những lời này của tôi chỉ xuất phát từ nỗi lo lắng đối với tình trạng tư tưởng hiện tại của các chỉ huy và chiến sĩ, đương nhiên, cũng là muốn cùng đồng chí Ngô Nhạc trao đổi mặt đối mặt một cách công khai và thẳng thắn.”

Ngô Nhạc giơ tay xin được lên tiếng, sau khi Thường Vĩ Tư gật đầu, gã nói: “Những gì đồng chí Chương Bắc Hải nói về tình trạng tư tưởng của tôi đều chính xác, tôi thừa nhận kết luận của anh ấy: mình không còn thích hợp phục vụ trong không gian quân nữa, tôi xin được nghe theo sự sắp xếp của tổ chức.”

Bầu không khí trong hội trường bỗng trở nên căng thẳng, có mấy sĩ quan nhìn vào cuốn sổ công tác trước mặt Chương Bắc Hải, bắt đầu suy đoán xem trong đó còn có thông tin gì về người nào nữa không.

Một đại tá không quân đứng dậy nói: “Đồng chí Chương Bắc Hải, đây là buổi họp công tác bình thường, những vấn đề liên quan đến cá nhân như vậy, anh nên thông qua các kênh thông thường để phản ánh với tổ chức, công khai nói ở đây thế này có thích hợp không?”

Lời này của ông ta lập tức nhận được sự phụ họa của đa số sĩ quan.

Chương Bắc Hải nói: “Tôi biết, những phát ngôn vừa rồi của tôi trái với nguyên tắc của tổ chức, bản thân tôi sẵn sàng chịu mọi trách nhiệm, nhưng tôi cho rằng, dù dùng phương thức nào, cũng phải khiến chúng ta ý thức được tính nghiêm trọng của tình hình trước mắt.”

Thường Vĩ Tư giơ tay lên ngăn không cho nhiều người khác lên tiếng: “Trước tiên, cần phải tán dương tinh thần trách nhiệm và ý thức cảnh giác trước nguy cơ mà đồng chí Chương Bắc Hải thể hiện trong công tác. Sự tồn tại của chủ nghĩa thất bại trong quân đội của chúng ta là sự thực, chúng ta cần phải đối diện với nó một cách lý trí, chỉ cần sự chênh lệch một trời một vực về công nghệ giữa quân ta và quân địch vẫn còn tồn tại, thì chủ nghĩa thất bại sẽ không biến mất, chỉ dựa vào phương pháp làm việc đơn giản thì không thể giải quyết vấn đề được. Đây là công việc dài hơi và tỉ mỉ, cần phải trao đổi và giao lưu nhiều hơn nữa. Ngoài ra, tôi cũng đồng ý với ý kiến của một đồng chí vừa đưa ra: các vấn đề liên quan đến tư tưởng cá nhân, chủ yếu nên giải quyết qua trao đổi và giao lưu. Nếu nhất thiết phải phản ánh, thì vẫn nên thông qua các kênh thông thường của tổ chức.”

Rất nhiều sĩ quan trong phòng họp đều thở phào nhẹ nhõm, ít nhất là trong cuộc họp này, Chương Bắc Hải sẽ không nhắc đến họ nữa.

La Tập tưởng tượng ra đêm tối vô tận phía trên tầng mây bên ngoài, khó nhọc sắp xếp lại các dòng suy nghĩ trong đầu. Bất giác, suy nghĩ của anh tập trung vào cô, tiếng nói nụ cười của cô xuất hiện trong bóng tối mịt mùng, một nỗi bi thương trước nay chưa từng có ào ạt tấn công vào tâm trí La Tập, tiếp theo cảm giác khinh bỉ chính mình ập đến, kiểu khinh ghét bản thân này trước đây đã nhiều lần xuất hiện, nhưng chưa bao giờ mãnh liệt như lần này. Tại sao đến giờ mày mới nghĩ đến cô ấy? Từ đầu, trước cái chết của cô ấy, ngoài kinh ngạc và sợ hãi ra, mày chỉ nghĩ đến cách thoát thân cho mình, cho tới giờ khi phát hiện toàn bộ sự việc này không liên can nhiều đến cô ấy, mày mới sẻ chút lòng thương hại còn quý hơn cả vàng kia cho cô ấy, mày là cái thứ gì vậy?

Nhưng chẳng còn cách nào khác, mình chính là loại người như vậy đấy.

Máy bay khẽ trồi lên hụp xuống trong dòng khí lưu, La Tập nằm trên giường mà có cảm giác như đang nằm trong nôi. Anh biết, hồi mới lọt lòng mình đã từng nằm nôi, hôm ấy, ở trong căn phòng dưới tầng hầm nhà bố mẹ, anh trông thấy một chiếc giường trẻ con phủ đầy bụi, bên dưới giường là khung gỗ cong có lắp chiếc nôi sơ sinh. Lúc này, anh nhắm nghiền mắt lại tưởng tượng ra hai con người đang khẽ khàng đưa nôi cho mình, đồng thời tự vấn: từ lúc mày ra khỏi cái nôi ấy đến bây giờ, ngoại trừ hai con người đó, mày đã thực sự quan tâm đến ai chưa? Trong tâm hồn mày đã bao giờ thực sự dành ra một vị trí nhỏ bé, nhưng vĩnh hằng cho một ai đó hay chưa?

Có rồi, đã từng có. Một lần, cõi lòng La Tập đã bị tình yêu hoàn toàn chiếm cứ, nhưng đó lại là một trải nghiệm không thể nào tưởng tượng nổi.

Mọi thứ đều do Bạch Dung khơi ra, cô là một tác giả viết tiểu thuyết dành cho giới trẻ, tuy chỉ nghiệp dư nhưng đã có một chút danh tiếng, ít nhất thì tiền nhuận bút cũng nhiều hơn tiền lương. Trong tất cả những người khác giới mà anh quen biết, thời gian qua lại với Bạch Dung là dài nhất, cuối cùng thậm chí đã suy tính đến hôn nhân. Tình cảm giữa hai người họ thuộc loại tương đối bình thường và hay gặp, không đến mức khắc cốt ghi tâm, nhưng họ cho rằng người kia thích hợp với mình, ở bên nhau rất thoải mái vui vẻ, mặc dù cả hai đều có cảm giác sợ hãi hôn nhân, nhưng họ cũng cho rằng, phải thử một lần mới gọi là có trách nhiệm.

Theo yêu cầu của Bạch Dung, La Tập đã đọc hết tất cả tác phẩm của cô.

Tuy rằng không thể nói là thưởng thức, nhưng anh thấy cũng không đến nỗi hành hạ người đọc như các tiểu thuyết cùng loại mà anh từng liếc qua mấy lần. Văn phong của Bạch Dung rất hay, trong nét thanh lệ lại có một sự giản dị và chín chắn mà những tác giả nữ giống như cô không có được.

Nhưng nội dung những tiểu thuyết đó không tương xứng với giọng văn, đọc chúng, La Tập cảm tưởng như đang nhìn những giọt sương trong lùm cỏ, đơn thuần và trong veo, chỉ nhờ phản xạ và khúc xạ ánh sáng rực rỡ xung quanh mới thể hiện được cá tính của mình, chúng lăn qua lăn lại trên lá cỏ, khi đụng phải nhau thì hòa làm một, rồi lại tách ra khi không may rơi xuống, Mặt trời lên, chỉ nháy mắt những hạt sương ấy sẽ biến mất. Mỗi lần đọc hết một cuốn sách của Bạch Dung, ngoài ấn tượng đối với giọng văn đẹp đẽ của cô, trong đầu La Tập chỉ còn lại một câu hỏi: đám người mỗi ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ yêu đương này sống bằng cái gì nhỉ?

“Em thật sự tin trong đời thực có kiểu tình yêu mà em viết ra đấy hả?” Có một lần, La Tập hỏi.

“Có chứ.”

“Em từng trông thấy, hay là đã từng gặp?”

Bạch Dung ôm cổ La Tập, ra vẻ thần bí nói vào tai anh: “Dù sao cũng là có, em nói cho anh biết, có đấy!”

Có lần, La Tập đưa ra ý kiến với tiểu thuyết mà Bạch Dung đang viết, thậm chí còn tự mình giúp cô sửa lại.

“Hình như anh còn có tài viết văn hơn cả em ấy, anh không sửa giúp em tình tiết, mà sửa nhân vật, sửa nhân vật là khó nhất đấy, hơn nữa mỗi lần chỉnh sửa, anh đều như ‘vẽ rồng điểm mắt’ cho những hình tượng đó vậy, khả năng sáng tạo hình tượng văn học của anh thuộc loại hàng đầu đó.”

“Đùa cái gì chứ, anh xuất thân ngành thiên văn học đó.”

“Vương Tiểu Ba[19] cũng học toán vậy.”

[19] Vương Tiểu Ba (1952-1997) là nhà văn của dòng văn học ngoại biên Trung Quốc đương đại. Sáng tác của ông giàu sức tưởng tượng, đôi phần hoang đường. Với giọng văn giễu cợt, ông hài hước tái hiện hiện thực đời sống xã hội, thông qua đó thể hiện tham vọng quyền lực và khát khao dục vọng.

Sinh nhật Bạch Dung năm ngoái, cô yêu cầu La Tập một món quà sinh nhật.

“Anh có thể viết cho em một cuốn tiểu thuyết được không?”

“Một cuốn?”

“Ừ… Ít nhất năm mươi nghìn chữ nhé.”

“Lấy em làm nhân vật chính hả?”

“Không, em từng xem một triển lãm tranh rất thú vị, toàn là tác phẩm của họa sĩ nam, vẽ người phụ nữ đẹp nhất trong tưởng tượng của họ. Nhân vật chính cuốn tiểu thuyết này của anh chính là cô gái đẹp nhất trong lòng anh, anh cần phải hoàn toàn thoát ly hiện thực để sáng tạo ra một thiên sứ như thế, điểm duy nhất có thể dựa vào chính là tưởng tượng hoàn mỹ nhất của anh về phái nữ.”

Cho đến tận bây giờ, La Tập cũng không biết yêu cầu này của Bạch Dung rốt cuộc có ý đồ gì, có lẽ chính bản thân cô cũng không biết, giờ nhớ lại, vẻ mặt cô lúc ấy trông hơi ranh mãnh, lại có nét gì đó giống như do dự.

Vậy là, La Tập bắt đầu cấu tứ ra nhân vật ấy. Trước tiên, anh tưởng tượng ra dung mạo của cô, sau đó thiết kế trang phục cho cô, kế đó tưởng tượng ra môi trường nơi cô sống và những người ở xung quanh cô, cuối cùng thì đặt cô vào trong môi trường ấy, để cô hoạt động và nói năng. Để cô sống trong đó. Rất nhanh, việc này trở nên nhạt nhẽo vô vị, anh kể với Bạch Dung về khó khăn mình gặp phải.

“Cô ấy giống như một con rối, mỗi động tác, mỗi câu nói đều là tưởng tượng của anh, thiếu sức sống.”

Bạch Dung nói: “Phương pháp của anh không đúng, đó là anh đang làm văn chứ không phải sáng tạo ra hình tượng văn học. Phải biết là, hành vi của một nhân vật văn học trong mười phút, có thể là phản ánh những gì cô ấy trải qua trong mười năm. Anh đừng chỉ giới hạn trong tình tiết tiểu thuyết, phải tưởng tượng ra toàn bộ cuộc đời cô ấy, còn thứ viết thành câu chữ, chẳng qua chỉ là phần ngọn tảng băng chìm mà thôi.” Vậy là La Tập bắt tay làm theo lời Bạch Dung nói, vứt sạch những nội dung mình đã viết, tưởng tượng ra trọn vẹn cuộc đời nhân vật chính, tưởng tượng từng chi tiết trong cuộc đời cô. Anh tưởng tượng ra cô nằm trong vòng tay mẹ uống sữa, cái miệng mút mạnh, phát ra những tiếng chùn chụt thỏa mãn; tưởng tượng ra cô đang chậm rãi bước đi trong mưa, đột nhiên thu ô lại, nhấm nháp cảm giác tiếp xúc với từng sợi mưa mong manh; tưởng tượng cô đuổi theo một quả bóng màu đỏ lăn tròn trên mặt đất, mới chạy được một bước đã ngã nhào, nhìn theo quả bóng lăn xa dần mà khóc òa lên, hoàn toàn không ý thức được rằng vừa rồi mình đã sải chân bước bước đầu tiên trong đời; tưởng tượng ngày đầu tiên cô vào tiểu học, lẻ loi ngồi ở hàng thứ ba trong lớp học xa lạ, nhìn ra cửa ra vào và cửa sổ đều không thấy bố mẹ đâu nữa, đúng lúc sắp sửa khóc òa thì chợt nhận ra bàn bên cạnh là bạn học cùng trường mẫu giáo, liền vui sướng reo lên; tưởng tượng đêm đầu tiên ở trường đại học, cô nằm giường tầng trên trong ký túc xá, nhìn bóng cây mà ánh đèn đường hắt lên trần nhà… La Tập tưởng tượng ra từng món ăn mà cô ưa thích, tưởng tượng ra màu sắc và kiểu dáng từng bộ đồ trong tủ quần áo của cô, tưởng tượng ra món đồ trang trí nhỏ đeo vào điện thoại di động của cô, tưởng tượng cuốn sách cô đọc, những ca khúc trong máy MP4 của cô, những trang web cô hay vào, những bộ phim cô thích xem, nhưng chưa bao giờ tưởng tượng cô dùng đồ trang điểm gì, cô không cần đến đồ trang điểm… La Tập tựa như một người sáng tạo nằm bên ngoài thời gian, cùng lúc dệt nên cuộc đời cô ở những không gian thời gian khác nhau, dần dần, anh bắt đầu hứng thú với sự sáng tạo này, càng làm càng không biết mệt mỏi.

Một hôm trong thư viện, La Tập tưởng tượng cô đang đứng trước dãy giá sách đằng xa đọc sách, anh đã chọn cho cô bộ đồ mà anh thích nhất, chỉ để thân hình mảnh mai của cô thêm rõ nét trong ấn tượng của mình. Đột nhiên, cô ngẩng đầu lên khỏi cuốn sách, từ xa xa nhìn về phía anh, mỉm cười với anh.

La Tập lấy làm ngạc nhiên, mình đâu để cho cô ấy cười? Nhưng nụ cười ấy đã lưu lại trong ký ức, tựa như nước đọng ngấm trên băng, mãi mãi không thể xóa nhòa đi được.

Biến chuyển thật sự xảy ra vào đêm hôm sau. Tối hôm đó, gió tuyết mịt mùng, nhiệt độ giảm xuống đột ngột, trong ký túc xá ấm áp, La Tập nghe tiếng gió gầm thét cuồng nộ bên ngoài át hết mọi âm thanh khác của thành phố, những bông tuyết đập vào ô cửa kính nghe lạo xạo như cát, nhìn ra ngoài cũng chỉ thấy một vùng bụi tuyết mờ mịt. Lúc này, thành phố dường như không còn tồn tại nữa, nhà ký túc của giáo viên tựa như bị cô lập giữa cánh đồng tuyết mênh mông vô tận. La Tập nằm lại xuống giường, trước khi chìm vào mộng mị, đột nhiên một ý nghĩ thoáng qua trong đầu: thời tiết quỷ quái này, nếu cô ấy đang đi bên ngoài thì lạnh chừng nào nhỉ. Kế đó, anh lại tự an ủi: không sao, mày không để cô ấy ở bên ngoài thì cô ấy sẽ không ở bên ngoài. Nhưng lần này, anh lại tưởng tượng thất bại, cô vẫn bước đi trong gió tuyết ngoài kia, tựa như một khóm cỏ nhỏ có thể bị gió lạnh thổi bay bất cứ lúc nào. Cô mặc chiếc áo khoác màu trắng ấy, quấn khăn quàng cổ màu đỏ ấy, trong bụi tuyết tung bay chỉ loáng thoáng trông thấy chiếc khăn đỏ, tựa như ngọn lửa nhỏ đang bập bùng giãy giụa trong gió tuyết.

La Tập không sao ngủ được nữa, anh nhổm dậy, sau đó lại khoác áo ra chỗ sô pha ngồi, vốn định hút thuốc, nhưng chợt nhớ ra cô ghét mùi thuốc lá, anh bèn pha một cốc cà phê chầm chậm nhâm nhi. Anh phải đợi cô, đêm lạnh và gió tuyết bên ngoài làm tim anh cồn cào, đây là lần đầu tiên anh lo lắng cho một người như thế, nhớ nhung một người như thế.

Đúng vào khoảnh khắc nỗi nhớ trong anh bùng cháy lên như ngọn lửa, cô nhẹ nhàng bước vào, thân hình nhỏ nhắn bao bọc trong lớp khí lạnh bên ngoài, trong lạnh lẽo lại có một luồng hơi thở của mùa xuân; hoa tuyết bám trên tóc mái cô nhanh chóng tan thành những hạt nước long lanh. Cô cởi khăn quàng màu đỏ, đưa hai tay lên miệng thổi phù phù. Anh nắm chặt lấy đôi bàn tay mảnh khảnh đó, sưởi ấm bàn tay mềm mại lạnh băng, cô xúc động nhìn anh, nói ra lời hỏi han mà anh vốn định hỏi cô trước: “Anh vẫn khỏe chứ?”

Anh chỉ biết vụng về gật đầu, giúp cô cởi áo khoác. “Nhanh vào sưởi ấm đi.” Anh đỡ đôi vai mềm mại của cô, dẫn cô đến trước lò sưởi.

“Ấm thật đấy, tốt quá…” Cô ngồi trên tấm thảm trước lò sưởi âm tường, ngắm nhìn ngọn lửa, mỉm cười hạnh phúc.

Mẹ nó chứ, mình bị làm sao vậy? La Tập đứng giữa phòng ký túc xá trống không, tự nói với chính mình. Thực ra, tùy tiện viết bừa năm mươi nghìn chữ, in ra giấy chất lượng cao, dùng photoshop thiết kế một cái bìa ngoài và bìa trong thật hoa lệ, rồi đóng lại bằng máy đóng sách chuyên dụng, cuối cùng mang đến chỗ gói quà ở siêu thị gói lại, đến hôm sinh nhật tặng cho Bạch Dung chẳng phải là xong xuôi rồi sao? Cần gì phải đắm chìm vào sâu đến mức ấy? Lúc này, anh kinh ngạc nhận ra, hai mắt mình đã ướt rượt. Ngay sau đó, anh lại thêm một phen kinh ngạc: lò sưởi âm tường?

Mình có lò sưởi âm tường ở chỗ quái quỷ nào vậy? Sao mình lại nghĩ đến lò sưởi âm tường? Nhưng rồi La Tập nhanh chóng hiểu ra, thứ anh muốn không phải là lò sưởi âm tường, mà là ánh lửa trong lò sưởi, người con gái trong ánh lửa ấy là đẹp nhất. Anh hồi tưởng lại cảnh cô ngồi trước lò sưởi lúc nãy…

À không! Đừng nghĩ đến cô ấy nữa, thế này sẽ dẫn đến tai họa mất! Ngủ đi thôi!

Ngoài dự đoán của La Tập, đêm đó anh không mơ thấy cô, anh ngủ rất ngon, cảm giác chiếc giường đơn như một con thuyền nhỏ bồng bềnh trên mặt biển màu hoa hồng. Sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, anh thấy như mình vừa có một cuộc sống mới, cảm thấy mình tựa như ngọn nến phủ bụi nhiều năm, tối qua đã được đốm lửa nhỏ trong gió tuyết kia thắp lên. Anh hưng phấn đi trên con đường dẫn tới khu lớp học, bầu trời xám xịt sau trận tuyết, nhưng anh lại thấy còn trong xanh hơn cả lúc trời quang không một gợn mây; hai hàng bạch dương bên đường không có chút tuyết đọng nào, trụi lông lốc chỉ thẳng lên bầu không giá lạnh, nhưng trong cảm giác của anh, chúng còn tràn trề sức sống hơn cả giữa tiết xuân.

La Tập bước lên bục giảng, đúng như anh mong muốn, cô lại xuất hiện, ngồi ở hàng cuối giảng đường bậc thang, cả khu vực ấy trống trơn chỉ có mình cô, cách những sinh viên ngồi trước một khoảng khá xa. Chiếc áo khoác màu trắng tinh khiết và khăn quàng cổ màu đỏ đặt trên chỗ ngồi bên cạnh, cô chỉ mặc áo len cổ lọ màu vàng nhạt. Cô không cúi đầu lật giở giáo trình giống các sinh viên khác, mà lại hướng về phía anh nở nụ cười tựa như vầng dương mới mọc sau trận tuyết.

La Tập trở nên căng thẳng, nhịp tim đập nhanh, buộc phải đi ra ngoài qua cửa ngách của giảng đường, đứng giữa bầu không khí lạnh ngoài ban công để trấn tĩnh lại. Anh chỉ mới gặp phải trạng thái này đúng hai lần bảo vệ luận án tiến sĩ. Kế đó, La Tập gắng hết sức thể hiện mình lúc giảng bài, viện dẫn kinh sử, lời giảng hùng hồn, khiến cho giảng đường rộ lên tiếng vỗ tay hiếm có. Cô không vỗ tay hùa theo, mà chỉ mỉm cười nhìn anh gật đầu.

Hết giờ học, La Tập và cô sánh vai đi trên con đường phủ bóng cây mà chẳng có bóng cây kia, anh có thể nghe thấy tiếng lạo xạo khi đôi giày màu xanh của cô giẫm lên nền tuyết. Hai hàng bạch dương mùa đông lặng lẽ lắng nghe cuộc chuyện trò trong lòng của họ.

“Anh giảng bài hay quá, nhưng em chẳng hiểu mấy.”

“Em không học ngành này đúng không?”

“Ừm, không.”

“Em hay đi nghe bài giảng của ngành khác thế này à?”

“Chỉ mấy hôm nay thôi, thường tùy ý vào một giảng đường nào đấy ngồi một lúc. Em vừa tốt nghiệp, sắp phải rời khỏi nơi này rồi, đột nhiên cảm thấy nơi này thật tốt, em rất sợ bên ngoài…”

Ba bốn ngày sau đó, La Tập ngày nào cũng dành hầu hết thời gian ở bên cô. Trong mắt người khác, thời gian anh ở một mình lại nhiều hơn, thích đi bộ một mình, chuyện này cũng dễ giải thích với Bạch Dung: anh đang cấu tứ món quà sinh nhật cho cô, mà thực sự, đấy cũng hoàn toàn là sự thực.

Đêm giao thừa, La Tập mua một chai rượu vang mà trước nay anh chưa từng uống, sau khi về ký túc xá, anh tắt đèn điện đi, châm lên mấy ngọn nến trên bàn uống trà trước ghế sô pha, khi ba ngọn nến đều sáng lên, cô liền lặng lẽ xuất hiện, ngồi bên cạnh anh.

“Ồ, anh xem…” Cô chỉ vào chai rượu vang, vui như trẻ con.

“Sao hả?”

“Anh sang bên này nhìn đi, ngọn nến chiếu từ phía đối diện lại, trông rượu này đẹp thật.”

Rượu vang thấm đẫm ánh nến, hiện lên một thứ sắc đỏ sậm long lanh chỉ có ở trong cảnh mộng.

“Trông như vầng Mặt trời đã chết.” La Tập nói.

“Đừng nghĩ thế mà,” cô lại lộ ra vẻ chân thành, tha thiết khiến La Tập phải rung động, “em cảm thấy nó giống như là… như là đôi mắt của ráng chiều vậy.”

“Sao em không nói là đôi mắt của ban mai?”

“Em thích ráng chiều hơn.”

“Tại sao?”

“Khi ráng chiều biến mất có thể ngắm sao, sau khi bình minh tan biến, chỉ còn lại…”

“Chỉ còn lại hiện thực trần trụi dưới ánh mặt trời.”

“Đúng, đúng vậy.”

Họ nói rất nhiều chuyện, chuyện gì cũng nói, những chủ đề vụn vặt nhất họ cũng có tiếng nói chung, cho đến khi La Tập uống hết cả chai “đôi mắt của ráng chiều” kia mới thôi.

La Tập váng vất nằm trên giường, nhìn mấy ngọn nến sắp cháy hết trên bàn trà, cô gái trong ánh nến đã biến mất, nhưng La Tập không lo lắng, chỉ cần anh muốn, cô sẽ xuất hiện bất cứ lúc nào.

Đúng lúc này, tiếng gõ cửa vang lên, La Tập biết đó là tiếng gõ cửa trong hiện thực, không liên can gì đến cô, bèn mặc kệ. Cánh cửa bị đẩy bật ra, người đi vào là Bạch Dung. Cô bật đèn điện lên, như thể vừa mở tung thế giới hiện thực xám xịt. Cô nhìn cái bàn trà cắm nến, rồi ngồi xuống đầu giường La Tập, khẽ thở dài: “Vẫn còn đỡ.”

“Đỡ cái gì?” La Tập giơ tay lên chắn ánh đèn điện chói mắt.

“Anh vẫn chưa nhập tâm đến mức chuẩn bị cho cô ấy một ly rượu nữa.”

La Tập che mắt, không nói gì, Bạch Dung gạt tay anh ra, nhìn anh chăm chú, hỏi: “Cô ấy sống rồi, đúng không?”

La Tập gật đầu, trở mình ngồi dậy: “Dung, lúc trước anh luôn cho rằng, nhân vật trong tiểu thuyết bị tác giả điều khiển, tác giả khiến cô ấy như thế nào thì cô ấy sẽ như thế đó, tác giả bảo cô ấy làm gì thì cô ấy sẽ làm điều đó, giống như Thượng Đế với chúng ta vậy.”

“Sai rồi!” Bạch Dung cũng đứng dậy, đi qua đi lại trong phòng. “Giờ anh đã biết mình sai rồi, đây chính là sự khác nhau giữa một tay viết bình thường và một nhà văn. Quá trình tạo ra hình tượng văn học khi lên đến trạng thái tối cao, trong tâm tưởng của nhà văn, nhân vật trong tiểu thuyết đã có sự sống, nhà văn không thể nào khống chế được nhân vật ấy, thậm chí còn không thể dự đoán được hành vi tiếp theo của họ, mà chỉ biết tò mò đi theo, quan sát những phần nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống của họ, giống như kẻ cuồng nhìn trộm, rồi ghi chép lại, vậy là trở thành kinh điển.”

“Thì ra sáng tác văn học là một công việc biến thái như thế.”

“Ít nhất thì từ Shakespeare đến Balzac đến Tolstoy đều là như vậy, những hình tượng kinh điển mà họ sáng tạo cũng được sinh ra từ tử cung tư tưởng của họ như thế đấy. Nhưng ngày nay nhà văn đã mất đi khả năng sáng tạo này, thứ sinh ra trong tâm tưởng họ toàn là những mảnh vỡ tàn khuyết và quái thai, sinh mệnh ngắn ngủi của chúng chỉ biểu hiện qua những cơn co giật tối nghĩa khó hiểu, bọn họ đem những mảnh vỡ đó gom lại, bỏ vào trong túi, dán lên những cái nhãn kiểu như hậu hiện đại này, giải cấu trúc này, tượng trưng này, phi lý này… rồi bán ra ngoài.”

“Ý em là, anh đã trở thành nhà văn kinh điển?”

“Cái đó thì không phải, tâm trí anh chỉ hoài thai ra một hình tượng, mà còn là loại dễ nhất; còn những nhà văn kinh điển kia, trong tâm trí họ có thể sinh ra hàng trăm hàng nghìn hình tượng như vậy, để hình thành nên một bức tranh thời đại, nhưng đó là việc chỉ có siêu nhân mới làm được thôi. Có điều, anh làm được đến mức này cũng không dễ dàng gì rồi, em vốn tưởng là anh không làm được cơ.”

“Em đã làm được chưa?”

“Cũng chỉ có một lần.” Bạch Dung trả lời ngắn gọn, sau đó mau chóng chuyển chủ đề câu chuyện, ôm lấy cổ La Tập nói: “Thôi bỏ đi, em không cần món quà sinh nhật đó nữa, anh cũng quay lại với cuộc sống bình thường đi, được không?”

“Nếu tất cả những thứ này cứ tiếp diễn thì sẽ như thế nào?"

Bạch Dung nhìn chằm chằm vào La Tập săm soi mấy giây, đoạn buông anh ra, mỉm cười lắc đầu: “Em biết là muộn rồi mà.” Nói xong, cô liền cầm túi xách để trên giường bỏ đi.

Lúc này, anh nghe thấy bên ngoài có người đang đếm ngược “bốn, ba, hai, một”, kế đó, bên phía khu giảng đường bấy giờ vẫn văng vẳng tiếng nhạc chợt bùng lên một trận cười vui vẻ, trên sân vận động có người đang đốt pháo hoa, liếc nhìn đồng hồ, La Tập biết giây cuối cùng của năm ấy vừa mới trôi qua.

“Ngày mai được nghỉ, chúng mình đi chơi không?” La Tập nằm ngửa trên giường hỏi, anh biết cô đã xuất hiện bên cái lò sưởi âm tường không hề tồn tại kia.

“Không dẫn chị ấy đi cùng à?” Cô chỉ vào cánh cửa vẫn đang mở hé, ngây thơ hỏi.

“Không, chỉ hai chúng ta thôi. Em muốn đi đâu?”

Cô thẫn thờ nhìn ngọn lửa nhảy nhót trong lò sưởi, nói: “Đi đâu cũng chẳng quan trọng, em thấy lúc đi ở trên đường, cảm giác rất thích.”

“Vậy thì chúng ta cứ đi loăng quăng, đi tới đâu thì tới đó nhé?”

“Hay lắm.”

Sáng sớm hôm sau, La Tập lái chiếc Accord của anh ra khỏi sân trường, đi về phía Tây, anh chọn hướng này đơn giản chỉ vì không muốn phiền phức đi xuyên qua cả thành phố. Lần đầu tiên trong đời, anh cảm nhận được sự tự do tuyệt diệu của chuyến đi không có điểm đích. Khi nhà cửa ngoài cửa xe dần thưa thớt, đồng ruộng bắt đầu xuất hiện, La Tập mở hé cửa sổ xe, để gió lạnh mùa đông len vào một chút, anh cảm thấy mái tóc dài của cô bị gió thổi bay lên, từng sợi từng sợi cọ vào má bên phải mình, thấy ngưa ngứa.

“Nhìn kìa, bên kia có núi…” Cô chỉ tay về phía xa xa.

“Hôm nay tầm nhìn xa rất tốt, đấy là núi Thái Hàng, chạy song song với đường quốc lộ này, sau đó vòng ra mé này, chặn ở hướng Tây, lúc đó đường chạy thẳng vào trong núi, anh nghĩ bây giờ chúng ta đang ở…”

“Không, đừng nói là ở đâu! Một khi biết mình đang ở đâu, thế giới liền trở nên nhỏ như một tấm bản đồ mất rồi; không biết mình ở đâu, cảm giác thế giới này mới thật rộng lớn ấy.”

“Được thôi, vậy chúng ta sẽ cố gắng lạc đường nhé.” La Tập nói, rẽ vào một đường nhánh vắng xe hơn, đi chưa được bao xa thì lại rẽ bừa vào một con đường khác. Lúc này, hai bên đường chỉ còn cánh đồng mênh mông trải dài ngút tầm mắt, có những mảng tuyết đọng lớn, diện tích khu vực có tuyết và không có tuyết gần như tương đương nhau, chẳng thấy chút màu xanh nào, nhưng ánh mặt trời rất rực rỡ.

“Cảnh sắc miền Bắc chính cống đấy.” La Tập nói.

“Lần đầu tiên em cảm thấy, mặt đất không có màu xanh cũng có thể rất đẹp.”

“Màu xanh đang vùi trong đồng ruộng kia kìa, đến lúc đầu xuân, trời vẫn còn rất lạnh, tiểu mạch sẽ nảy mầm, khi ấy ở đây sẽ thành một vùng xanh mướt, em thử tưởng tượng mà xem, cả một vùng rộng lớn thế này…”

“Không cần màu xanh nữa, giờ đã đẹp lắm rồi, thật đấy, anh nhìn xem, mặt đất có giống một con bò sữa lớn đang nằm ngủ dưới ánh mặt trời không?”

“Gì hả?” La Tập ngạc nhiên nhìn cô, rồi lại nhìn mặt đất lốm đốm những khoang tuyết đọng ở hai bên xe, “Ồ, đúng là hơi giống… anh bảo này, em thích nhất là mùa nào?”

“Mùa thu.” 

“Sao không phải là mùa xuân?”

“Mùa xuân… quá nhiều cảm giác chen chúc dồn dập, mệt mỏi lắm, mùa thu thích biết bao nhiêu.”

La Tập dừng xe, cùng cô bước tới mép ruộng, ngắm nhìn mấy con chim sẻ đang kiếm ăn dưới đất, đến khi họ bước lại thật gần chúng mới bay lên ngọn cây ở phía xa xa. Kế đó, họ đi xuống một lòng sông gần như đã cạn khô, chỉ còn một dòng chảy nhỏ ở chính giữa lòng sông, nhưng xét cho cùng vẫn là một con sông phương Bắc, họ nhặt những hòn sỏi lạnh như băng trong lòng sông ném vào dòng nước, nhìn thứ nước màu vàng đục bắn từ những hố bị ném thủng hiện ra trên lớp băng mỏng. Họ ghé qua một thị trấn nhỏ, loanh quanh một lúc lâu trong chợ phiên, cô ngồi xổm trước một sạp bán cá vàng không đi nữa, dưới ánh mặt trời, những con cá vàng trong bể cá thủy tinh hình tròn trông như đốm lửa đang chuyển động, La Tập mua cho cô hai con, đựng trong túi nylon đầy nước đặt ở ghế sau xe. Họ đi vào một ngôi làng, nhưng không có cảm giác tìm về làng quê lắm, nhà cửa đều rất mới, có mấy nhà trước cửa còn có ô tô đậu, đường chính trải xi măng rộng rãi, quần áo mọi người cũng không khác gì trên thành phố, có mấy cô gái còn ăn mặc rất thời thượng, đến cả lũ chó trên đường cũng đều là loại ký sinh trùng lông dài chân ngắn, hệt như trong thành phố. Nhưng sân khấu kịch lớn ở đầu làng lại rất thú vị, họ lấy làm ngạc nhiên sao một ngôi làng nhỏ thế này lại dựng sân khấu kịch cao như thế. Sân khấu trống không, La Tập tốn khá nhiều công sức mới leo lên được, đứng đối diện với khán giả duy nhất ở bên dưới là cô, hát bài “Cây thùy dương”. Buổi trưa, họ ăn cơm ở một thị trấn nhỏ khác, mùi vị thức ăn ở đây cũng không khác trong thành phố cho lắm, chỉ là phần ăn nhiều gần gấp đôi. Sau bữa cơm, trên một chiếc ghế băng phía trước tòa nhà ủy ban nhân dân thị trấn, họ ngồi gật gà gật gù trong ánh nắng ấm áp một lát, rồi lại lái xe đi lang thang.

Bất giác, họ phát hiện con đường đang chạy vào trong núi, hình dạng núi ở đây chẳng có gì đặc biệt, không có khe sâu vực thẳm, thảm thực vật cũng cằn cỗi, chỉ có cỏ khô xác mọc ra trong những kẽ đá màu xám và những bụi cây gai. Mấy trăm triệu năm trước, những ngọn núi đứng đến mệt nhoài này đã nằm xuống, lặng lẽ đắm chìm vào trong ánh mặt trời và thời gian, đồng thời khiến cho ai đi bên trong cũng cảm thấy mình trở nên lờ đờ uể oải hệt như ngọn núi này vậy. “Núi ở đây giống như mấy ông bà già ngồi ở đầu làng phơi nắng ấy.” Cô nói, nhưng họ đi qua mấy ngôi làng rồi mà không gặp ông bà già nào, chẳng có ai thong dong và nhàn nhã hơn ngọn núi này cả. Không chỉ một lần, chiếc xe bị chặn lại khi có đàn cừu đi ngang qua đường cái, bên đường cũng đã xuất hiện ngôi làng giống như họ tưởng tượng… Có nhà hầm, và cây hồng, cây hạch đào, trên nóc những ngôi nhà bằng đá chất đống lõi ngô đã tách hạt, cả lũ chó cũng vừa to vừa hung dữ.

Ở trong vùng núi đó, họ đi rồi lại dừng, dừng rồi lại đi, bất giác đã mất cả buổi chiều, mặt trời ngả về Tây, con đường cái sớm đã ẩn vào bóng tối.

La Tập lái xe theo con đường đất gập ghềnh leo lên một triền núi cao vẫn còn ánh tịch dương rọi chiếu, họ quyết định coi đây là điểm cuối chuyến du hành, sau khi ngắm Mặt trời lặn xong sẽ trở về. Mái tóc dài của cô khẽ tung bay trong gió chiều, tựa hồ đang ra sức tóm lấy tia sáng rực rỡ cuối cùng của vầng dương.

Xe vừa trở lại đường quốc lộ thì phải dừng, trục sau hỏng, anh đành phải gọi cho dịch vụ cứu hộ. La Tập đợi một lúc lâu, mới hỏi thăm được tài xế một chiếc xe tải nhỏ ngang qua xem đây là nơi nào, may là chỗ này còn có sóng điện thoại di động, người ở trạm cứu hộ nghe anh nói địa danh xong, bảo rằng xe cứu hộ ít nhất phải bốn năm tiếng đồng hồ nữa mới đến được.

Mặt trời lặn, nhiệt độ vùng núi nhanh chóng giảm xuống, khi xung quanh bắt đầu mờ nhạt trong sắc trời nhá nhem, La Tập gom một ôm thân cây ngô ở ruộng gần đó lại, đốt lên đống lửa.

“Ấm thật đấy, thích quá!” Cô nhìn đống lửa, vui vẻ như lúc ở trước lò sưởi âm tường đêm hôm nọ. La Tập lại một lần nữa ngây ngẩn trước dáng vẻ của cô trong ánh lửa, anh bị nhấn chìm trong một thứ cảm xúc dịu dàng bao lâu nay chưa từng có, cảm giác mình cũng giống như đống lửa kia, sống chỉ với một mục đích duy nhất là đem lại hơi ấm cho cô.

“Ở đây có sói không nhỉ?” Cô nhìn bóng tối càng lúc càng dày đặc xung quanh, hỏi.

“Không có đâu, đây là vùng Hoa Bắc, trong nội địa, nhìn hoang lương thế này thôi chứ thực ra là một trong những khu vực mật độ dân số cao nhất đấy, em nhìn con đường này mà xem, cứ bình quân hai phút lại có một chiếc xe chạy qua.”

“Em hy vọng anh sẽ nói là có sói đấy.” Cô nhoẻn miệng cười ngọt ngào, nhìn những tia lửa bắn lên phía các vì sao trên bầu trời đêm.

“Được thôi, có sói đấy, nhưng có anh ở đây rồi.”

Sau đó, họ không nói chuyện gì thêm nữa, chỉ lặng lẽ ngồi bên đống lửa, thỉnh thoảng lại bỏ thêm một ôm thân ngô vào để giữ cho lửa cháy tiếp.

Không biết bao lâu sau, điện thoại La Tập đổ chuông, là Bạch Dung gọi tới.

“Ở bên cạnh cô ấy à?” Bạch Dung khẽ hỏi.

“Không, có một mình anh thôi.” La Tập vừa nói vừa ngẩng đầu lên, anh không nói dối. Đúng là anh đang ở một mình, bên một đống lửa ven đường quốc lộ trong núi Thái Hàng, xung quanh chỉ có đá núi lúc ẩn lúc hiện trong ánh lửa, trên đầu chỉ có bầu trời chi chít sao.

“Em biết anh chỉ có một mình, nhưng anh đang ở bên cô ấy.”

“… Ừ.” La Tập thấp giọng nói, nhìn sang bên cạnh. Cô đang cầm thân cây ngô bỏ vào đống lửa, nụ cười của cô cùng ngọn lửa vừa bốc lên soi sáng bừng không gian xung quanh.

“Giờ hẳn là anh đã tin, thứ tình yêu mà em viết trong tiểu thuyết có tồn tại đúng không?”

“Đúng, anh tin rồi.”

La Tập nói dứt bốn chữ đó, lập tức ý thức được khoảng cách giữa mình và Bạch Dung cũng xa xôi như hiện thực này vậy, họ trầm mặc một lúc lâu, trong lúc đó, những làn sóng điện mỏng manh vẫn xuyên qua rặng núi trập trùng trong đêm, duy trì mối liên hệ cuối cùng giữa hai người.

“Em cũng có một anh ấy như thế, phải không?” La Tập hỏi.

“Vâng, từ lâu lắm rồi.”

“Giờ anh ấy ở đâu?”

La Tập nghe thấy Bạch Dung cười khẽ một tiếng: “Còn có thể ở đâu được nữa?”

La Tập cũng bật cười: “Đúng vậy, còn có thể ở đâu được nữa…”

“Được rồi, ngủ sớm nhé, tạm biệt.” Bạch Dung nói dứt lời bèn dập máy, sợi dây mong manh vượt qua đêm đen thăm thẳm kia đã đứt lìa, hai người ở hai đầu sợi dây đều thoáng chút ngậm ngùi, song cũng chỉ có vậy mà thôi.

“Bên ngoài lạnh quá, vào xe ngủ một lúc được không?” La Tập nói với cô.

Cô lắc đầu nhè nhẹ, “Em muốn ở đây với anh, anh thích nhìn em dưới ánh lửa, phải không?”

Nửa đêm, xe cứu hộ từ Thạch Gia Trang mới đến nơi, hai người thợ trông thấy La Tập ngồi bên đống lửa đều hết sức ngạc nhiên: “Anh à, anh giỏi chịu lạnh thật đấy, động cơ không bị hỏng, ngồi trong xe bật máy sưởi lên không phải ấm hơn hay sao?”

Sửa xe xong, La Tập lập tức chạy hết tốc lực trở về, lao ra khỏi vùng núi trong màn đêm, trở lại với đồng bằng mênh mông. Anh đến Thạch Gia Trang vào tờ mờ sáng, lúc về Bắc Kinh đã là mười giờ sáng rồi.

La Tập không về trường, mà lái xe đi thẳng đến khám bác sĩ tâm lý.

“Có lẽ anh cần điều chỉnh lại một chút, nhưng không phải chuyện to tát gì.” Nghe hết câu chuyện dài của La Tập, bác sĩ bảo.

“Không phải chuyện to tát?” La Tập trợn đôi mắt vằn đầy tia máu lên, “Tôi yêu điên cuồng một nhân vật hư cấu trong cuốn tiểu thuyết mà mình đang cấu tứ ra, sống cùng cô ấy, đi du lịch cùng cô ấy, thậm chí còn vì cô ấy mà chia tay với bạn gái thực sự của mình, anh còn bảo là không có chuyện gì to tát?”

Bác sĩ mỉm cười độ lượng.

“Anh biết không? Tôi đã trao tình yêu sâu đậm nhất của mình cho một ảo ảnh.”

“Có phải anh cho rằng, đối tượng mà người khác yêu đều thực sự tồn tại hay không?”

“Chuyện này còn phải nghi vấn sao?”

“Không, đối tượng yêu của hầu hết mọi người cũng chỉ tồn tại trong tưởng tượng của chính họ thôi. Người mà họ yêu không phải là anh ấy (cô ấy) trong hiện thực, mà chỉ là một anh ấy (cô ấy) nào đó trong tâm tưởng, anh ấy (cô ấy) trong hiện thực chỉ là một phiên bản mô phỏng của người tình trong mộng, sớm muộn họ cũng sẽ phát hiện ra người tình trong mộng ấy và phiên bản mô phỏng kia có sự khác biệt, nếu thích ứng được với sự khác biệt này, họ sẽ đến được với nhau, trường hợp không thể thích ứng thì sẽ chia tay, đơn giản vậy đó. Anh khác với hầu hết những người còn lại ở chỗ: anh không cần phiên bản mô phỏng.”

“Lẽ nào đây không phải là một loại bệnh?”

“Chỉ giống như bạn gái anh đã chỉ ra đó thôi, anh có năng khiếu văn chương rất cao, nếu anh coi năng khiếu này như là một dạng bệnh thì cũng được.”

“Nhưng sức tưởng tượng đạt đến mức độ này cũng hơi quá rồi nhỉ?”

“Sức tưởng tượng thì chẳng bao giờ gọi là quá cả, đặc biệt là tưởng tượng về tình yêu.”

“Vậy sau này tôi phải làm thế nào? Phải làm sao mới quên được cô ấy?”

“Không thể nào, anh không thể nào quên được cô ấy, đừng cố làm gì, sẽ gây ra rất nhiều tác dụng phụ, thậm chí dẫn đến rối loạn tâm thần, cứ thuận theo tự nhiên là được. Tôi nhấn mạnh thêm một lần nữa: đừng cố quên cô ấy đi, không có tác dụng gì đâu, nhưng cùng với thời gian, ảnh hưởng của cô ấy lên cuộc sống của anh sẽ càng lúc càng nhỏ. Thực ra, anh rất may mắn đấy, dù cô ấy có tồn tại trong hiện thực hay không, có thể yêu đã là rất may mắn rồi.”

Đây là trải nghiệm tình yêu sâu đậm nhất của La Tập, mà tình yêu này, mỗi người đàn ông chỉ có được một lần trong đời. Sau này, La Tập lại bắt đầu cuộc sống hững hờ chẳng để tâm vào chuyện gì như trước, giống như chiếc Accord mà anh lái lúc họ đi chơi với nhau, đi tới đâu hay tới đó.

Đúng như lời bác sĩ tâm lý kia đã nói, ảnh hưởng của cô lên cuộc sống của anh càng ngày càng nhỏ, khi anh ở bên một người phụ nữ trong hiện thực, cô sẽ không xuất hiện, về sau này, dù anh ở một mình, cô cũng rất hiếm khi xuất hiện. Nhưng La Tập biết, mảnh đất tĩnh lặng nhất trong tâm tưởng mình đã thuộc về cô mất rồi, cô sẽ ở đó, bầu bạn với anh suốt đời. Thậm chí, anh còn có thể nhìn được rõ ràng thế giới mà cô đang ở, đó là một cánh đồng tuyết vắng lặng, bầu trời ở đó lúc nào cũng có trăng và sao bàng bạc, nhưng tuyết vẫn không ngừng rơi, cánh đồng tuyết trắng muốt như đường cát trắng, yên tĩnh đến độ dường như nghe được cả tiếng những bông hoa tuyết rơi trên đó. Cô ở trong một căn nhà gỗ nhỏ xinh đẹp giữa cánh đồng tuyết ấy. Nàng Eva mà La Tập đã dùng khúc xương sườn tưởng tượng của mình để tạo ra ngồi trước lò sưởi cổ kính, lặng lẽ nhìn ngọn lửa đang nhảy múa.

Lúc này đây, trên chuyến bay hung hiểm khó lường này, La Tập cảm thấy cô độc, anh muốn cô đến bầu bạn với mình, muốn cùng cô suy đoán xem ở cuối hành trình này sẽ có gì, song cô lại chẳng hề xuất hiện. Ở nơi xa xăm trong thế giới nội tâm kia, La Tập trông thấy cô vẫn yên lặng ngồi trước lò sưởi, cô sẽ không cảm thấy tịch mịch, vì cô biết thế giới của mình ở nơi nào.

La Tập vươn tay lấy lọ thuốc ở đầu giường, định uống một viên an thần ép mình vào giấc ngủ, đúng vào khoảnh khắc trước khi ngón tay anh chạm vào, lọ thuốc đã từ trên tủ đầu giường bay vọt lên, theo đó là cả quần áo La Tập vứt trên ghế, chúng bay thẳng lên trần nhà, ở đó chừng hai giây rồi lại rơi xuống. La Tập cảm thấy cơ thể mình cũng rời khỏi giường, nhưng vì túi ngủ đã buộc cố định nên anh không bay vọt lên. Sau khi lọ thuốc và quần áo rơi xuống, La Tập cũng cảm thấy cơ thể mình rơi mạnh xuống mặt giường, có mấy giây người anh cảm giác như bị vật nặng đè lên, không sao nhúc nhích nổi. Trọng lực hết mất đi lại tăng lên đột ngột khiến anh choáng váng mặt mày, nhưng hiện tượng này chỉ kéo dài chưa đến mười giây, rồi tất cả lại nhanh chóng trở lại bình thường.

La Tập nghe thấy ngoài cửa có tiếng bước chân giẫm lên thảm lạo xạo, mấy người đang đi đi lại lại, cánh cửa mở ra, Sử Cường thò đầu vào: “La Tập, không sao chứ?” Nghe La Tập trả lời không sao, gã cũng không đi vào mà đóng cửa lại luôn, La Tập nghe thấy ngoài cửa vọng vào tiếng nói chuyện rì rầm.

“Hình như là việc đổi phiên đội bay hộ tống có chút hiểu lầm thôi, không có gì cả đâu.”

“Lúc nãy cấp trên gọi điện lại nói cái gì đấy?” Đây là giọng Sử Cường.

“Bảo là một tiếng rưỡi nữa, đội bay hộ tống cần tiếp xăng trên không, bảo chúng ta đừng hoảng loạn.”

“Trong kế hoạch không có chuyện này à?”

“Chậc, đừng nhắc nữa, vừa nãy mới rối loạn một chút, đã có bảy máy bay hộ tống cắt thùng xăng phụ đi rồi[20].”

[20] Máy bay tiêm kích khi vào trạng thái chiến đấu trên không, phải cắt bỏ thùng xăng phụ để giảm bớt trọng lượng. (Chú thích của bản tiếng Trung.)

“Việc quái gì mà phải cuống hết cả lên thế? Thôi bỏ đi, các cậu đi ngủ một lúc đi, đừng căng thẳng quá như thế.”

“Tình trạng này, ai mà ngủ được chứ!”

“Để một người canh chừng là được rồi, tiêu hao sức lực như vậy có làm được gì đâu? Mặc kệ cấp trên có nhấn mạnh nó quan trọng thế nào, tôi cũng có cách nhìn riêng đối với công tác bảo vệ an toàn: chỉ cần những điều phải nghĩ đến đã nghĩ rồi, những điều phải làm đều đã làm được, trong cả quá trình nếu thật sự có xảy ra chuyện gì thì cũng mặc xác nó, chẳng ai làm được gì đâu, có đúng không? Đừng làm khó mình mãi như thế.”

Nghe thấy cụm từ “đổi phiên đội bay hộ tống”, La Tập bèn nhổm người dậy mở tấm chắn cửa sổ máy bay nhìn ra ngoài, vẫn là biển mây mờ mịt, Mặt trăng đã ngả về phía chân bầu trời đêm. Anh trông thấy vệt khói đuôi đội máy bay tiêm kích, lúc này đã tăng lên đến sáu chiếc. La Tập nhìn thật kỹ sáu chiếc máy bay nhỏ ở đầu những vệt khói kia, phát hiện hình dạng chúng không giống bốn chiếc máy bay anh nhìn thấy trước đó.

Cửa phòng ngủ lại mở ra, Sử Cường thò nửa người vào nói: “Thầy giáo La, vấn đề nhỏ thôi, đừng lo lắng, từ giờ sẽ không có gì nữa đâu, ngủ tiếp đi.”

“Vẫn còn thời gian ngủ à? Bay mấy tiếng đồng hồ rồi.”

“Còn phải bay mấy tiếng nữa cơ, cậu cứ ngủ đi.” Sử Cường dứt lời liền đóng cửa lại quay đi.

La Tập trở mình, xuống giường, nhặt lọ thuốc lên, phát hiện tay Đại Sử này cũng thật tinh tế, bên trong chỉ có đúng một viên thuốc. Anh uống thuốc, nhìn ngọn đèn nhỏ màu đỏ bên dưới cửa sổ khoang máy bay, tưởng tượng nó thành ngọn lửa trong lò sưởi âm tường, dần dần ngủ thiếp đi.

Lúc Sử Cường đánh thức La Tập, anh đã ngủ được hơn sáu tiếng không mộng mị, cảm giác thật dễ chịu.

“Sắp đến nơi rồi, dậy chuẩn bị thôi.”

La Tập vào phòng vệ sinh đánh răng rửa mặt, sau đó quay lại phòng làm việc ăn qua loa bữa sáng, rồi cảm giác máy bay bắt đầu giảm độ cao.

Chừng hơn chục phút sau, chiếc chuyên cơ đã bay liền mười lăm giờ êm ái hạ cánh.

Sử Cường bảo La Tập đợi trong phòng làm việc, còn mình thì ra ngoài trước. Rất nhanh sau đó, gã dẫn theo một người đi vào, gương mặt phương Tây, vóc người cao lớn, quần áo chỉnh tề, trông như một quan chức cao cấp.

“Tiến sĩ La Tập phải không?” Vị quan chức đó nhìn La Tập, cẩn thận hỏi. Sau khi nhận ra Sử Cường gặp khó khăn với tiếng Anh, ông ta bèn dùng thứ tiếng Trung lơ lớ hỏi lại lần nữa.

“Anh ta là La Tập.” Sử Cường trả lời, sau đó giới thiệu vắn tắt với La Tập, “Đây là ông Kent, ông ấy đến đón cậu.”

“Hân hạnh.” Kent hơi khom người nói.

Lúc bắt tay, La Tập có cảm giác người này rất lão luyện, che giấu mọi thứ đằng sau điệu bộ lịch thiệp lễ độ, nhưng thứ ẩn giấu đó vẫn bị ánh mắt ông ta để lộ ra ngoài. La Tập lấy làm nghi hoặc, ánh mắt đó như thể đang nhìn vào ma quỷ, cũng như thể đang ngắm nhìn thiên sứ, vừa giống ánh mắt nhìn đầu đạn hạt nhân, lại cũng giống ánh mắt nhìn một viên đá quý to ngang đầu đạn ấy… Trong những thông điệp phức tạp truyền đạt qua ánh mắt đó, La Tập chỉ nhận biết được một điều: thời khắc này, cực kỳ quan trọng đối với cuộc đời con người này.

Kent nói với Sử Cường: “Các anh làm tốt lắm, phần việc của các anh là gọn ghẽ nhất đấy, những người khác ít nhiều đều có phiền phức trong quá trình đến đây.”

“Chúng tôi làm theo chỉ thị của cấp trên, luôn tuân theo nguyên tắc giảm bớt các khâu hết mức có thể.” Sử Cường nói.

“Tuyệt đối chính xác, trong hoàn cảnh hiện tại, cắt giảm bớt các khâu là an toàn nhất, sau này chúng tôi cũng sẽ tuân theo nguyên tắc này, chúng ta đi thẳng đến hội trường nhé.”

“Hội nghị lúc nào thì bắt đầu?”

“Một tiếng nữa.”

“Lịch sát thế cơ à?”

“Thời gian hội nghị xếp lịch dựa theo thời gian người được chọn cuối

cùng đến nơi.”

“Làm vậy được đấy. Thế, chúng tôi có thể bàn giao được chưa?”

“Chưa, an toàn của vị này vẫn do các anh phụ trách, tôi đã nói rồi, các

anh là nhóm làm tốt nhất mà.”

Sử Cường lặng im khoảng hai giây, đưa mắt nhìn La Tập, khẽ gật đầu:

“Hai hôm trước, khi đến đây tìm hiểu tình hình, nhân viên của chúng tôi

gặp phải rất nhiều phiền phức khi hành động.”

“Tôi đảm bảo chuyện này từ giờ sẽ không xảy ra nữa, cảnh sát và quân

đội địa phương sẽ hết sức phối hợp với các anh.

“Được rồi,” Kent liếc nhìn hai người họ, nói. “Chúng ta có thể đi được rồi.”

Lúc ra khỏi cửa khoang máy bay, La Tập thấy ngoài trời vẫn tối đen, nhớ lại thời điểm cất cánh, anh đại khái đã biết được mình đang ở vị trí nào trên Trái đất. Sương mù rất dày, ánh đèn chiếu vào màn sương tạo thành một mảng vàng ảm đạm, mọi thứ trước mắt tựa hồ đang lặp lại tình cảnh lúc máy bay sắp cất cánh: trên không có trực thăng tuần tra, trong màn sương chỉ lờ mờ trông thấy những cái bóng có đèn sáng; xung quanh máy bay nhanh chóng quây kín một vòng xe quân sự và binh lính, bọn họ đều quay mặt ra ngoài, mấy sĩ quan tay cầm máy bộ đàm đang tụ lại một chỗ bàn bạc gì đó, thỉnh thoảng lại ngẩng đầu nhìn về phía cầu thang bên này. La Tập nghe thấy phía trên đầu vang lên những âm thanh rít gào đủ rởn hết gai ốc, thậm chí cả Kent trầm ổn như thế cũng phải bịt chặt tai lại, ngẩng đầu lên nhìn, vừa khéo trông thấy một hàng những điểm sáng mơ hồ bay vụt qua trên tầng trời thấp, đó là đội máy bay tiêm kích hộ tống, vẫn đang đảo lượn bên trên, vệt đuôi vạch ra trong không trung một vòng tròn lớn lờ mờ giữa màn sương mù vẫn nhìn thấy được, tựa hồ như một người khổng lồ vũ trụ đang cầm viên phấn đánh dấu chọn mảnh này của thế giới vậy.

Bốn người bọn La Tập lên một chiếc xe con đợi sẵn ở chân cầu thang, chiếc xe này hiển nhiên cũng đã được gia cố chống đạn, xe nhanh chóng chuyển bánh. Màn che cửa sổ trên xe đều đóng, nhưng dựa trên ánh đèn bên ngoài, La Tập biết họ đang kẹp giữa một đội xe. Dọc đường, ai nấy đều trầm mặc, La Tập biết, anh đang đi về đích đến cuối cùng chẳng biết là ở đâu kia. Trong cảm giác, đoạn đường này rất dài, nhưng thực ra họ chỉ đi có hơn bốn mươi phút.

Khi Kent nói đã đến nơi, La Tập để ý nhìn qua màn che cửa sổ xe, trông thấy một hình thù, vì có ánh đèn đều đặn của tòa kiến trúc đằng sau thứ đó, anh mới thấy đường nét của nó in trên màn cửa sổ. La Tập không nhận lầm được, vì hình dạng của nó quá rõ ràng, đồng thời cũng quá đặc biệt: đó là một khẩu súng lục ổ quay khổng lồ, nhưng nòng súng đã bị thắt lại thành cái nút. Trừ phi trên thế giới này còn bức điêu khắc thứ hai nào giống như thế, La Tập giờ đã biết mình đang ở nơi nào.

Vừa xuống xe, La Tập đã bị một đám người vây kín, trông bộ dạng giống như nhân viên bảo vệ, người nào người nấy đều cao lớn vạm vỡ, phần lớn đeo kính đen dù đang giữa đêm tối. La Tập chưa kịp nhìn rõ xung quanh, đã bị đám người này hộ tống đi về phía trước. Trong vòng vây chặt như nêm của họ, hai chân anh cơ hồ không chạm tới mặt đất, xung quanh tĩnh lặng như tờ, chỉ có tiếng bước chân lạo xạo của mọi người. Đúng lúc bầu không khí căng thẳng kỳ dị này khiến thần kinh La Tập sắp rã đến nơi, mấy gã cốt đột đứng trước mặt anh bỗng tránh ra, phía trước sáng bừng lên, kế đó, những người còn lại cũng dừng bước, chỉ để anh và Sử Cường cùng Kent đi tiếp. Họ đi vào trong một đại sảnh lớn, yên tĩnh, ở đây rất trống trải, những người duy nhất có mặt là mấy tay vệ sĩ mặc đồ đen cầm bộ đàm, hễ họ đi qua ai, người đó lại thấp giọng nói một câu vào bộ đàm. Ba người đi qua một ban công lơ lửng trên không, đập vào mắt là một tấm kính sắc màu rực rỡ, bên trên phủ kín những đường nét phức tạp, lẫn giữa những đường vân ấy là hình ảnh người và động vật biến hình. Họ rẽ phải, đi vào một gian phòng không lớn lắm. Kent đóng cửa lại, rồi cùng Sử Cường nhìn nhau cười, bộ dạng hai người như thể vừa trút được gánh nặng.

La Tập đưa mắt quan sát xung quanh, thấy đây là một căn phòng có phần nào kỳ dị. Choán trọn bức tường bên kia phòng là một bức tranh trừu tượng gồm toàn các hình học bốn màu vàng đen trắng xanh, những hình này đặt chồng lên nhau một cách tùy tiện không theo quy luật nào, tất cả lại nằm trên một mảng màu xanh lam tựa như biển cả mênh mông. Kỳ lạ nhất là một tảng đá lớn hình hộp chữ nhật ở chính giữa phòng, hứng ánh sáng từ mấy chiếc đèn tụ quang không sáng lắm. Quan sát kỹ, La Tập thấy trên tảng đá có những đường vân màu gỉ sét. Bức tranh trừu tượng và tảng đá hình hộp là hai món đồ duy nhất ở đây, ngoài ra, trong phòng không còn thứ gì khác.

“Tiến sĩ La Tập, anh có cần thay trang phục không?” Kent hỏi La Tập bằng tiếng Anh.

“Ông ta bảo gì đấy?” Sử Cường hỏi, sau khi nghe La Tập dịch lại, Sử Cường kiên quyết lắc đầu, “Không được, cứ mặc bộ này thôi.”

“Ừm, dù sao cũng là hội nghị cấp cao.” Kent lấy làm khó xử, nói bằng tiếng Trung.

“Không được.” Sử Cường lại lắc đầu lần nữa.

“Các cơ quan truyền thông không được tham dự, chỉ có đại biểu các nước, hẳn là tương đối an toàn.”

“Tôi bảo là không được, nếu tôi không hiểu sai, hiện giờ, sự an toàn của anh ta đang do tôi phụ trách.”

“Được rồi, đây chỉ là chuyện nhỏ.” Kent thỏa hiệp.

“Ông cũng phải giải thích qua một chút với anh ta đi chứ.” Sử Cường nghiêng nghiêng đầu về phía La Tập.

“Tôi không được ủy quyền giải thích bất cứ chuyện gì.”

“Tùy tiện nói vài câu cũng được mà.” Sử Cường cười cười.

Kent quay sang nhìn La Tập, sắc mặt bỗng trở nên căng thẳng nặng nề, thậm chí ông ta còn vô thức chỉnh lại cà vạt. Đến giờ, La Tập mới nhận ra, trước đó Kent luôn tránh nhìn thẳng vào mắt mình. Anh còn phát hiện, lúc này Sử Cường cũng dường như biến thành một con người khác, nụ cười ngây ngây giễu nhại lúc nào cũng thường trực trên mặt gã giờ đã biến mất, thay vào đó là vẻ trang nghiêm, đồng thời còn đứng thẳng nghiêm ngắn, nhìn Kent chằm chằm. Đến giờ, La Tập đã biết lúc trước Sử Cường nói thật: gã thật sự không biết mình đưa La Tập đến đây để làm gì.

Kent nói: “Tiến sĩ La Tập, tôi chỉ có thể nói thế này: anh sắp tham gia một hội nghị quan trọng, trong hội nghị sẽ công bố một chuyện rất quan trọng. Ngoài ra, trong hội nghị này, anh không cần phải làm gì hết.”

Sau đó, ba người đều im lặng, căn phòng tĩnh mịch như tờ, La Tập nghe thấy rõ mồn một tiếng tim mình đang đập. Về sau này, anh mới biết, phòng này gọi là phòng Trầm tư, tảng đá nặng sáu tấn đó là quặng sắt có độ tinh khiết cao, tượng trưng cho sự vĩnh hằng và sức mạnh. Đây là món quà của Thụy Điển trao tặng. Nhưng lúc này đây, La Tập không muốn trầm tư, mà đang cố gắng không nghĩ đến bất cứ chuyện gì, bởi hiện giờ, anh đã thật sự tin lời Sử Cường nói: nghĩ thế nào cũng đều chệch choạc cả mà thôi. Để khỏi phải nghĩ, anh bắt đầu đếm các hình trên bức tranh trừu tượng kia.

Cửa mở ra, một người thò đầu vào ra hiệu với Kent, ông ta quay sang nói với La Tập và Sử Cường: “Phải vào trong đó rồi, không ai biết tiến sĩ La Tập cả, tôi đi vào với anh ấy là được rồi, như vậy sẽ không gây ra náo động.”

Sử Cường gật đầu, vẫy tay cười cười với La Tập: “Tôi đợi cậu bên ngoài.” La Tập chợt thấy ấm lòng, thời khắc này, Sử Cường đã trở thành chỗ dựa tinh thần duy nhất của anh.

Tiếp sau đó, La Tập đi theo Kent ra khỏi phòng Trầm tư, tiến vào hội trường lớn của Liên Hiệp Quốc.

Bên trong hội trường đã ngồi kín người, tiếng trò chuyện vang lên râm ran khắp nơi, Kent dẫn La Tập men theo lối đi giữa các hàng ghế, thoạt đầu không ai chú ý đến họ, tới khi họ đến sát phía trước, mới khiến cho mấy người ngoảnh đầu lại liếc nhìn. Kent sắp xếp cho La Tập ngồi ở ghế sát lối đi hàng ghế thứ năm, còn mình lại tiếp tục đi tới, ngồi ở rìa hàng ghế thứ hai.

La Tập ngẩng đầu lên quan sát cái nơi anh từng trông thấy vô số lần trên ti vi này, cảm giác mình hoàn toàn không hiểu nổi ý tưởng của người thiết kế. Chính diện phía trước là bức tường lớn màu vàng có gắn huy hiệu của Liên Hiệp Quốc, làm nền cho bục chủ tịch, nếu nhìn lên từ góc nhọn, trông nó giống như một vách đá cheo leo có thể sụp đổ bất cứ lúc nào; vòm trần của hội trường được thiết kế trông như bầu trời sao, nhưng lại tách rời bức tường lớn màu vàng bên dưới, hoàn toàn không giúp bức tường kia có cảm giác vững chãi hơn, ngược lại còn sản sinh ra áp lực nặng nề từ trên cao đè xuống, tăng thêm sự bất ổn định của bức tường. Toàn bộ khung cảnh này đem đến cảm giác bức bách, tựa hồ có thể đổ sập bất cứ lúc nào. Giờ nghĩ lại, dường như mười một vị kiến trúc sư thiết kế nên nơi này từ giữa thế kỷ trước đã đưa ra lời tiên tri chuẩn xác cho hoàn cảnh của nhân loại ngày nay.

La Tập thu ánh mắt lại, nghe cuộc đối thoại của hai người ngồi bên cạnh, tiếng Anh của họ đều rất chuẩn, không biết là người nước nào.

“… Anh thật sự tin vào ảnh hưởng của cá nhân đối với lịch sử à?”

“Chuyện này ấy hả, tôi thấy đây là vấn đề chẳng thể chứng minh được là đúng mà cũng chẳng thể chứng minh được là sai. Trừ phi thời gian lặp lại lần nữa, để chúng ta giết chết vài vị vĩ nhân, rồi xem lịch sử sẽ đi theo chiều hướng nào. Tất nhiên, cũng không thể loại trừ khả năng những con đê mà những nhân vật lớn ấy đắp nên, cùng những con sông mà họ đào ra ấy, thực sự quyết định hướng đi của lịch sử.”

“Nhưng cũng có khả năng những nhân vật lớn mà anh nói ấy chẳng qua chỉ là các vận động viên bơi lội trên con sông dài lịch sử, họ đã lập nên kỷ lục thế giới, giành được sự ngợi ca và danh tiếng, đồng thời vì vậy mà lưu tên mình vào sử sách, nhưng thực ra chẳng liên quan gì đến dòng chảy của con sông dài kia cả… Chậc, sự việc đã đến nông nỗi này rồi, nghĩ mấy chuyện như vậy có ý nghĩa gì không chứ?”

“Vấn đề là trong toàn bộ quá trình quyết định sách lược, từ đầu chí cuối không ai đứng ở góc độ này mà suy nghĩ cả, các nước đều xoắn xuýt vào những chuyện kiểu như cân đối những người được chọn, quyền sử dụng tài nguyên…”

Hội trường trở nên yên tĩnh, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Say đang đi lên bục chủ tịch, bà là nữ chính trị gia xinh đẹp thứ ba mà Philippines đóng góp cho thế giới, sau các bà Aquino[21], Arroyo[22], cũng là vị Tổng thư ký đương chức trong cả hai giai đoạn trước và sau khủng hoảng. Chỉ có điều, nếu bỏ phiếu muộn một chút, chắc chắn bà sẽ không trúng cử, khi loài người phải đối mặt với mối nguy Tam Thể, hình ảnh người phụ nữ châu Á rõ ràng không có được cảm giác mạnh mẽ mà thế giới này đang chờ đợi.

[21] Maria Corazon “Cory” Cojuangco Aquino (1933-2009) là tổng thống thứ 11 của Philippines và là một nhà hoạt động dân chủ, hòa bình, nữ quyền, và mộ đạo nổi tiếng thế giới. Bà giữ chức vụ tổng thống từ năm 1986 đến 1992. Bà là nữ tổng thống đầu tiên của Philippines nói riêng và của cả châu Á nói chung.

[22] Gloria Macaraeg Macapagal-Arroyo là tổng thống thứ 14 của Philippines. Bà là nữ chính khách thứ hai trở thành nguyên thủ quốc gia sau Tổng thống Corazon Aquino.

Lúc này, thân hình nhỏ nhắn của bà đang ở ngay dưới bức vách dựng đứng như thể sắp sập kia, toát lên vẻ nhỏ bé yếu ớt và bất lực. Giữa đoạn đường bà Say bước lên bục chủ tịch, Kent đứng dậy chặn bà lại, thì thầm nói mấy câu gì đó bên tai, bà Tổng thư ký liếc mắt xuống phía dưới, gật đầu, đoạn tiếp tục bước lên.

La Tập có thể khẳng định, bà Say nhìn về phía mình đang ngồi.

Trên bục chủ tịch, bà Tổng thư ký đưa mắt nhìn quanh hội trường một vòng, rồi nói: “Kỳ họp thứ 19 của Hội đồng phòng ngự toàn cầu giờ đi vào nội dung cuối cùng của chương trình nghị sự: công bố danh sách người được chọn cuối cùng cho vai trò Người Diện Bích, đồng thời tuyên bố bắt đầu kế hoạch Diện Bích."

“Trước khi đi vào chương trình chính thức, tôi thấy cần phải tóm lược lại kế hoạch Diện Bích một lần."

“Thời điểm nguy cơ Tam Thể xuất hiện, các nước ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc trước đây đã tiến hành họp bàn khẩn cấp, đồng thời đưa ra những suy nghĩ ban đầu về kế hoạch Diện Bích."

“Các nước đều chú ý đến một sự thực rằng: sau khi hai Hạt trí tuệ đầu tiên xuất hiện, càng lúc càng có thêm chứng cứ cho thấy rằng, có nhiều Hạt trí tuệ hơn nữa đang không ngừng đến Hệ Mặt trời, xâm nhập Trái đất, quá trình này đến nay vẫn đang tiếp diễn. Vì vậy, đối với kẻ địch, Trái đất hiện nay đã là một thế giới hoàn toàn trong suốt, trước mắt bọn chúng, tất thảy mọi thứ trên thế giới này đều như một cuốn sách mở toang, bất cứ lúc nào cũng có thể đọc được, loài người đã chẳng còn một bí mật nào nữa."

“Hiện nay, cộng đồng quốc tế đã khởi động kế hoạch phòng ngự chính, nhưng bất kể là chiến lược tổng thể hay những chi tiết nhỏ nhặt nhất về công nghệ hay quân sự, đều hoàn toàn lồ lộ trong tầm mắt kẻ thù, con mắt của Hạt trí tuệ có ở tất cả các phòng họp, các tủ hồ sơ, trong ổ cứng và bộ nhớ của tất cả các máy tính. Một kế hoạch, một phương án, một sắp xếp, dù lớn dù nhỏ, chỉ cần xuất hiện trên Trái đất này, là sẽ đồng thời hiển thị ra ở bộ chỉ huy của kẻ thù cách chúng ta bốn năm ánh sáng, bất cứ hình thức trao đổi nội bộ nào của loài người cũng sẽ dẫn đến tiết lộ bí mật."

“Chúng ta cần chú ý đến một sự thực nữa: trình độ chiến lược và mưu kế chiến thuật không hề tỷ lệ thuận với tiến bộ công nghệ. Đã có thông tin tình báo chuẩn xác cho thấy, người Tam Thể trao đổi thông tin trực tiếp bằng tư duy trong suốt, điều này khiến cho họ cực kỳ kém phát triển về phương diện mưu kế, ngụy trang và lừa gạt, cũng khiến cho nền văn minh nhân loại có một ưu thế to lớn đối với kẻ thù này, chúng ta tuyệt đối không thể đánh mất ưu thế đó. Bởi vậy, những người lập ra kế hoạch Diện Bích cho rằng, ngoài kế hoạch phòng thủ chính, cần phải song song tiến hành một vài kế hoạch chiến lược khác, hoàn toàn bí mật với kẻ thù. Ban đầu đã từng nghĩ đến nhiều phương án khác nhau, song đến cuối cùng, họ xác định chỉ có kế hoạch Diện Bích là khả thi."

“Cần phải đính chính lại một điểm mà tôi mới nói khi nãy: cho đến thời điểm hiện tại, loài người vẫn có bí mật, bí mật của chúng ta nằm ở thế giới nội tâm của mỗi người. Hạt trí tuệ có thể hiểu được ngôn ngữ của loài người, có thể đọc với tốc độ cao các văn bản in và các thông tin lưu trữ trong các loại phương tiện máy tính, nhưng chúng không thể nào đọc được suy nghĩ của con người, vì vậy, chỉ cần không trao đổi với thế giới bên ngoài, mỗi người chúng ta đều là bí mật vĩnh hằng đối với Hạt trí tuệ, đây chính là cơ sở của kế hoạch Diện Bích."

“Trung tâm của kế hoạch Diện Bích, là chọn ra một nhóm người lãnh đạo và quyết định các kế hoạch chiến lược, họ hoàn toàn chỉ dựa vào suy nghĩ của mình để quyết định kế hoạch chiến lược, không tiến hành trao đổi dưới bất cứ hình thức nào với thế giới bên ngoài, tư tưởng chiến lược thực sự, các bước hoàn thành và mục đích cuối cùng của kế hoạch… tất cả đều cất giấu trong bộ não của họ, chúng tôi gọi họ là Người Diện Bích, tên gọi dành cho những nhà trầm tư mặc tưởng phương Đông cổ đại này rất thích hợp phản ánh đặc điểm công việc của họ. Trong quá trình lãnh đạo thực hiện những kế hoạch chiến lược này, những tư tưởng và hành vi mà Người Diện Bích thể hiện với thế giới bên ngoài có thể là giả tạo hoàn toàn, là ngụy trang, nhằm gây hiểu nhầm và lừa gạt, được tính toán tinh vi. Đối tượng mà Người Diện Bích cần gây hiểu nhầm và lừa gạt là toàn bộ thế giới, bao gồm cả kẻ thù lẫn người phe mình, cuối cùng sẽ xây dựng nên một mê cung khổng lồ phức tạp đầy những ảo tưởng, khiến cho kẻ thù đánh mất khả năng phán đoán chính xác trong mê cung ấy, gắng sức đẩy lùi thời điểm chúng xác định được ý đồ chiến lược thực của phe ta."

“Người Diện Bích sẽ được trao rất nhiều quyền lực, có thể điều động và sử dụng một phần tài nguyên chiến tranh đã có của Trái đất. Trong quá trình thực hiện kế hoạch chiến lược, Người Diện Bích không cần phải đưa ra bất kỳ lời giải thích nào cho hành vi và mệnh lệnh của mình, cho dù hành vi ấy có khó hiểu đến mức nào đi chăng nữa. Hành vi của Người Diện Bích sẽ do Hội đồng phòng ngự toàn cầu của Liên Hiệp Quốc giám sát và kiểm soát, đây cũng là cơ quan duy nhất có quyền phủ quyết cuối cùng đối với các mệnh lệnh của Người Diện Bích dựa theo Đạo luật Người Diện Bích của Liên Hiệp Quốc."

“Để đảm bảo duy trì kế hoạch Diện Bích, tất cả Người Diện Bích sẽ sử dụng công nghệ ngủ đông để vượt thời gian, cho đến thời đại của trận quyết chiến cuối cùng, trong khoảng thời gian này, thức dậy vào lúc nào và trong tình huống nào, mỗi lần thức dậy kéo dài bao lâu, thảy đều do Người Diện Bích tự quyết định. Trong thời gian bốn thế kỷ từ đây về sau, Đạo luật Người Diện Bích của Liên Hiệp Quốc sẽ là luật quốc tế có giá trị ngang với Hiến chương Liên Hiệp Quốc, đạo luật này cùng với các đạo luật tương ứng do các quốc gia định ra, sẽ đảm bảo cho việc thực hiện kế hoạch chiến lược của Người Diện Bích."

“Sứ mệnh mà Người Diện Bích phải gánh vác sẽ là sứ mệnh khó khăn nhất trong lịch sử loài người, họ là những kẻ độc hành thực sự, sẽ phải hoàn toàn đóng kín tâm tư trước toàn bộ thế giới, thậm chí là toàn bộ vũ trụ này, đối tượng duy nhất mà họ có thể giãi bày và trao đổi, chỗ dựa duy nhất về mặt tinh thần của họ, chỉ có bản thân họ mà thôi. Họ sẽ gánh trên vai sứ mệnh vĩ đại này, cô độc đi qua những tháng năm dài đằng đẵng, tới đây, tôi xin được thay mặt xã hội loài người bày tỏ lòng kính trọng sâu sắc dành cho những con người đó."

“Tiếp theo đây, được sự ủy quyền của Liên Hiệp Quốc, tôi sẽ công bố tên bốn Người Diện Bích mà Hội đồng phòng ngự toàn cầu cuối cùng đã chọn ra…”

La Tập bị bài phát biểu của bà Tổng thư ký thu hút, giống như tất cả những người tham gia hội nghị này, anh nín thở chờ đợi danh sách ấy được công bố, muốn biết người nào sẽ gánh vác lấy sứ mệnh không thể tin nổi ấy, nhất thời, anh đã quên hết thảy vận mệnh của mình, bởi lẽ, so với thời khắc mang tính lịch sử này, dù có xảy ra chuyện gì với anh thì cũng nhỏ bé vô cùng, chẳng đáng được nhắc đến.

“Người Diện Bích thứ nhất: Frederick Tyler.”

Bà Tổng thư ký vừa dứt lời, Tyler liền đứng lên từ hàng ghế đầu, ung dung bước lên bục chủ tịch, đứng đối diện với toàn thể hội trường, nét mặt không biểu lộ cảm xúc, không có tiếng vỗ tay, tất cả mọi người đều chỉ im lặng tập trung ánh mắt vào Người Diện Bích đầu tiên. Tyler có thân hình cao gầy, đeo kính gọng to, hình ảnh ấy từ lâu đã quen thuộc với cả thế giới.

Ông ta vừa mới rời khỏi chức vụ Bộ trưởng quốc phòng Mỹ, đây là một nhân vật có ảnh hưởng sâu sắc đối với chiến lược quốc gia của nước Mỹ.

Tư tưởng của ông ta được thể hiện tập trung trong một tác phẩm tên là Sự thật về công nghệ, Tyler cho rằng, người rốt cuộc được hưởng lợi từ công nghệ sẽ là các quốc gia nhỏ. Các nước lớn không tiếc sức phát triển công nghệ, trên thực tế chính là đã đặt nền móng cho các nước nhỏ đi tới nắm bá quyền thế giới. Vì lẽ, cùng với sự phát triển của công nghệ, ưu thế về dân số và tài nguyên mà các nước lớn sở hữu sẽ không còn quan trọng nữa, mà công nghệ đối với các nước nhỏ chính là một đòn bẩy có thể dịch chuyển cả Trái đất. Một trong những hệ quả của công nghệ hạt nhân chính là khiến một quốc gia nhỏ dân số chỉ mấy triệu người có thể trở thành mối đe dọa thực chất đối với nước lớn dân số hơn trăm triệu người, một điều gần như không thể xảy ra trước khi công nghệ hạt nhân xuất hiện. Một luận điểm quan trọng của Tyler là: Ưu thế của nước lớn, kỳ thực, chỉ là ưu thế thực sự trong thời đại công nghệ kém phát triển, sự phát triển nhanh như tên bắn của công nghệ sẽ làm yếu đi ưu thế của các nước lớn, đồng thời nâng cao sức mạnh chiến lược của những nước nhỏ, có khả năng còn khiến cho một số quốc gia nhỏ đột nhiên trỗi dậy, giành lấy quyền bá chủ thế giới giống như Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha năm nào. Tư tưởng của Tyler, không nghi ngờ gì nữa, đã đặt ra cơ sở lý thuyết cho chiến lược chống khủng bố toàn cầu của nước Mỹ. Tyler không chỉ là một nhà lý luận chiến lược, mà còn là một con người của hành động, sự quả cảm và nhìn xa trông rộng của ông ta thể hiện trong nhiều lần xử lý các khủng hoảng lớn đã giành được sự tán dương rộng khắp. Vì vậy, dù xét về chiều sâu tư tưởng hay năng lực lãnh đạo, Tyler đều hoàn toàn xứng đáng trở thành một Người Diện Bích.

“Người Diện Bích thứ hai: Manuel Rey Díaz.”

Khi người đàn ông Nam Mỹ với làn da nâu, vóc người cường tráng, ánh mắt quật cường ấy bước lên bục chủ tịch, La Tập hết sức ngạc nhiên, bản thân việc người này có thể xuất hiện ở Liên Hiệp Quốc vào thời điểm này đã là một chuyện rất không bình thường rồi. Nhưng nghĩ lại, La Tập cảm thấy cũng hợp lý hợp tình, thậm chí anh còn lấy làm ngạc nhiên tại sao vừa nãy mình không nghĩ đến ông ta. Rey Díaz là tổng thống đương nhiệm của Venezuela, ông ta đã lãnh đạo đất nước mình chứng thực một cách hoàn mỹ lý thuyết về nước nhỏ trỗi dậy của Tyler. Kế thừa Hugo Chavez, Rey Díaz tiếp tục cuộc Cách mạng Bolivar mà người tiền nhiệm bắt đầu vào năm 1999. Trong thế giới ngày nay, khi chủ nghĩa tư bản và nền kinh tế thị trường đã trở thành xu thế chính, ông ta vẫn tiếp tục thúc đẩy thứ mà Chavez gọi là “chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21” ở Venezuela trên cơ sở bài học kinh nghiệm từ các phong trào xã hội chủ nghĩa quốc tế hồi thế kỷ trước, không ngờ đã giành được thành công to lớn, khiến thực lực của nước ông trong các lĩnh vực nhanh chóng được nâng cao. Trong một thời gian ngắn, Venezuela đã trở thành vùng đất tượng trưng cho sự bình đẳng công chính và phồn vinh được cả thế giới để mắt, các nước Nam Mỹ đều đua nhau học theo. Cứ vậy, chủ nghĩa xã hội đã trở thành ngọn lửa lan khắp thảo nguyên ở Nam Mỹ. Rey Díaz không chỉ kế thừa tư tưởng xã hội chủ nghĩa của Chavez, mà còn kế thừa cả khuynh hướng chống Mỹ mạnh mẽ của ông này, khiến cho nước Mỹ ý thức được rằng, nếu để mặc cho ông ta phát triển, châu Mỹ La Tinh vốn là sân sau của mình rất có thể sẽ trở thành Liên Xô thứ hai. Khi một vụ việc bất ngờ do hiểu lầm xảy ra, tạo cho một cái cớ nghìn năm khó gặp, Mỹ đã lập tức phát động tấn công toàn diện Venezuela, với ý đồ dựa theo mô hình Iraq mà triệt để lật đổ chính quyền của Rey Díaz. Nhưng cuộc chiến này đã chấm dứt đà bách chiến bách thắng của các nước lớn phương Tây đối với nước nhỏ thuộc Thế giới thứ ba kéo dài từ thời chiến tranh lạnh đến giờ. Khi quân Mỹ tiến vào Venezuela, chỉ thấy binh lính chính quy của nước này đã biến mất, toàn bộ lục quân được chia ra thành các nhóm du kích theo đơn vị tiểu đội, ẩn nấp lẫn trong dân chúng, với mục tiêu tác chiến duy nhất là tiêu hao lực lượng của kẻ địch. Tư tưởng tác chiến cơ bản của Rey Díaz được xây dựng trên một quan niệm rõ ràng: vũ khí công nghệ cao hiện nay chủ yếu dùng để đối phó với các mục tiêu dạng điểm, có tính tập trung cao, còn với mục tiêu dàn trải trên diện rộng, hiệu năng của chúng không cao bằng vũ khí truyền thống, cộng với hạn chế về giá thành và số lượng, về cơ bản, chúng rất khó phát huy tác dụng. Rey Díaz còn là một thiên tài trong việc chi tiền ít cho công nghệ phát triển. Đầu thế kỷ này, để công chúng cảnh giác hơn với khủng bố, từng có một kỹ sư người Úc chế tạo ra một quả tên lửa hành trình chỉ mất năm nghìn đô la Mỹ. Đến tay Rey Díaz, ông ta cho sản xuất số lượng lớn khiến giá thành giảm xuống chỉ còn ba nghìn đô la Mỹ, tổng cộng đã sản xuất hơn hai trăm nghìn quả tên lửa hành trình như vậy để trang bị cho mấy nghìn tiểu đội du kích. Những quả tên lửa này tuy đều dùng linh kiện rẻ tiền trên thị trường nhưng cũng đầy đủ tính năng, có cả radar có độ chính xác cao và tính năng định vị toàn cầu, trong phạm vi năm ki lô mét, độ sai lệch mục tiêu không quá năm mét. Cả cuộc chiến, tuy rằng chỉ có chưa đến 10% số tên lửa bắn trúng mục tiêu, nhưng cũng gây ra cho kẻ địch thương vong khổng lồ. Trong chiến tranh, Rey Díaz còn sử dụng rộng rãi nhiều loại thiết bị công nghệ cao nhưng lại có thể sản xuất số lượng lớn khác nữa, ví dụ như đạn bắn tỉa có kíp kích nổ ở cự ly gần, vân vân, cũng giành được rất nhiều chiến tích huy hoàng, chỉ một thời gian ngắn, thương vong 116 của quân Mỹ trong chiến tranh Venezuela đã đạt đến con số ngang với chiến tranh Việt Nam, khiến họ buộc phải rút lui trong thất bại. Rey Díaz cũng vì thế mà trở thành một anh hùng lấy yếu thắng mạnh trong thế kỷ 21.


Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play

trướctiếp