Tam Thể 2 - Khu Rừng Đen Tối

II.1.3


10 tháng

trướctiếp

Yamasuki Keiko tỉnh giấc giữa đêm khuya, phát hiện bên cạnh mình trống trơn, chẳng những vậy phía giường bên đó đã lạnh ngắt. Bà nhổm dậy khoác áo đi ra cửa phòng, như mọi lần, vừa liếc mắt đã thấy bóng dáng chồng mình ở khóm trúc trong sân vườn. Họ có nhà ở cả Anh và Nhật Bản, nhưng Hines thích ngôi nhà ở Nhật hơn, ông ta nói ánh trăng phương Đông giúp mình tĩnh tâm được. Đêm nay không có trăng, cả khóm trúc và bóng Hines đều không có cảm giác lập thể, mà trông như một hình cắt giấy màu đen treo lơ lửng dưới ánh sao.

Hines nghe thấy tiếng bước chân Yamasuki Keiko, nhưng không quay đầu lại. Thật kỳ lạ, giày Keiko đi ở Anh và Nhật Bản đều giống như nhau, dù ở quê nhà bà cũng không bao giờ đi guốc gỗ, nhưng chỉ ở đây, Hines mới nghe thấy tiếng bước chân bà, ở Anh thì không.

“Anh yêu, anh đã mất ngủ mấy hôm rồi.” Yamasuki Keiko nói, dù giọng bà rất khẽ, lũ côn trùng mùa hạ trong khóm trúc vẫn ngưng bặt tiếng kêu, bầu không khí tĩnh lặng như nước bao trùm lên tất thảy, bà nghe thấy chồng mình thở dài.

“Keiko, anh không làm được, anh không nghĩ ra, anh thật sự không nghĩ ra cái gì cả.”

“Chẳng ai nghĩ ra được đâu, em cảm thấy kế hoạch có thể giành được thắng lợi cuối cùng ấy hoàn toàn không tồn tại.” Yamasuki Keiko nói, bà lại bước lên trước hai bước, nhưng vẫn đứng cách Hines mấy cây trúc xanh, khóm trúc này là nơi họ suy nghĩ, hầu hết sáng kiến cho những nghiên cứu lúc trước đều xuất hiện ở đây, thông thường họ sẽ không có những cử chỉ thân mật ở chốn đất thánh này, mà ở nơi dường như tràn ngập bầu không khí triết học phương Đông ấy, hai vợ chồng luôn kính nhau như khách, “Bill, anh cần phải thả lỏng bản thân, dốc hết sức làm tốt nhất là được rồi.”

Hines xoay người lại, nhưng gương mặt vẫn khuất trong bóng tối khóm trúc, “Sao được chứ, mỗi một bước nhỏ của anh, đều tiêu tốn rất nhiều tài nguyên.”

“Vậy tại sao lại không như thế chứ,” Yamasuki Keiko tiếp lời rất nhanh, rõ ràng bà đã nghĩ đến vấn đề này từ trước, “lựa chọn phương hướng ấy, cho dù cuối cùng không thành công, trong quá trình thực hiện chúng ta cũng đã làm được một điều có ích.”

“Keiko, đây chính là điều anh vừa nghĩ lúc nãy, anh quyết định rồi: cho dù mình không nghĩ ra được kế hoạch đó, anh sẽ giúp người khác nghĩ ra nó.”

“Người khác mà anh nói là ai? Những Người Diện Bích khác à?”

“Không, bọn họ đều không hơn anh bao nhiêu, anh muốn nói đến đời sau của chúng ta cơ. Keiko, em đã bao giờ nghĩ đến điều này chưa: tiến hóa tự nhiên của sinh vật muốn thấy hiệu quả rõ rệt thì ít nhất cần khoảng hai mươi nghìn năm, mà văn minh nhân loại mới chỉ có năm nghìn năm lịch sử, văn minh công nghệ hiện đại thì chỉ có hai trăm năm lịch sử, vì vậy, thứ chúng ta đang nghiên cứu trong khoa học hiện đại vẫn chỉ là não bộ của người nguyên thủy mà thôi.”

“Anh muốn lợi dụng công nghệ để đẩy nhanh tốc độ tiến hóa của não người à?”

“Em biết đấy, trước giờ chúng ta vẫn nghiên cứu não bộ, điều cần thiết hiện nay là càng phải đầu tư thêm sức người sức của vào để tiếp tục, mở rộng nghiên cứu này đến quy mô lớn như là xây dựng hệ thống phòng ngự Trái đất vậy, cố gắng từ một đến hai thế kỷ, có lẽ cuối cùng sẽ nâng cao được trí lực loài người, khiến cho trình độ khoa học của con cháu chúng ta có thể đột phá được khỏi ách giam cầm của Hạt trí tuệ.”

“Đối với chuyên ngành của chúng ta, từ trí lực này có hơi sáo rỗng, cụ thể anh muốn chỉ…”

“Trí lực mà anh nói đến mang nghĩa rất rộng, ngoài năng lực suy luận logic như ý nghĩa truyền thống của nó, còn bao gồm cả năng lực học hỏi, năng lực sáng tạo cũng như tưởng tượng, năng lực giữ được sức sống và sự linh hoạt của tư duy trong quá trình tích lũy tri thức và kinh nghiệm suốt đời người, và còn thể lực tư duy, tức là bộ não có thể suy nghĩ liên tục trong một thời gian dài mà không biết mệt mỏi… thậm chí còn có thể nghĩ đến khả năng hủy bỏ luôn nhu cầu ngủ…”

“Làm thế nào, anh đã có ý tưởng đại khái chưa?”

“Vân chưa, giờ thì vẫn chưa có. Có lẽ có thể trực tiếp kết nối bộ não với máy tính, khiến cho máy tính với khả năng tính toán khổng lồ trở thành thiết bị khuếch đại trí lực của con người; cũng có thể liên kết trực tiếp não người với nhau, kết hợp tư duy của nhiều người làm một; rồi còn di truyền ký ức nữa… Nhưng dù cuối cùng có những cách nào để nâng cao trí lực của con người đi nữa, việc đầu tiên cần làm lúc này chính là tìm hiểu bản chất cơ chế tư duy của bộ não người.”

“Đây chính là lĩnh vực của chúng ta.”

“Chúng ta cứ tiếp tục sự nghiệp của mình, giống như trước đây, chỉ khác là giờ chúng ta có thể điều động một nguồn tài nguyên khổng lồ để thực hiện việc này!”

“Anh yêu, em thật sự rất vui, em vui quá! Chỉ là, trong vai trò Người Diện Bích, kế hoạch này của anh, quá…”

“Quá gián tiếp, phải không? Nhưng Keiko ơi, em thử nghĩ xem, mọi thứ trong nền văn minh nhân loại này rốt cuộc đều quy về bản thân loài người, chúng ta bắt đầu từ việc nâng cấp bản thân loài người, đây chẳng phải chính là một kế hoạch rất nhìn xa trông rộng hay sao? Vả lại, ngoài chuyện này, anh còn có thể làm được gì nữa?”

“Bill, chuyện này thật sự quá tốt rồi!”

“Hãy thử nghĩ xem, biến khoa học nghiên cứu não bộ và nghiên cứu tư duy thành một công trình cấp độ toàn thế giới, lại có khoản đầu tư khổng lồ mà trước đây chúng ta không thể tưởng tượng ra nổi, liệu mất bao lâu thì có thể thành công?”

“Một thế kỷ chắc là được rồi.”

“Hãy bi quan hơn một chút, tính là hai thế kỷ đi, nếu như vậy, loài người sở hữu trí lực vượt trội vẫn còn thời gian hai thế kỷ, nếu dùng một thế kỷ để phát triển khoa học cơ bản, rồi dùng một thế kỷ nữa để hoàn thành việc chuyển hóa lý thuyết thành công nghệ…”

“Kể cả là thất bại, chúng ta cũng đã làm việc sớm muộn gì cũng phải làm.”

“Keiko, hãy cùng anh đến với ngày tận thế đi.” Hines lẩm bẩm nói.

“Được, Bill, thứ chúng ta có chính là thời gian mà.”

Lũ côn trùng mùa hạ trong vườn hình như đã quen với sự có mặt của họ, lại cất lên những tiếng kêu du dương. Lúc này, một làn gió nhẹ thổi qua khóm trúc, khiến những vì sao trên bầu trời đêm lấp la lấp lánh giữa tán lá, làm người ta có cảm giác bản hợp xướng của bầy côn trùng kia phát ra từ những vì sao xa xôi ấy.

Hội nghị lắng nghe ý kiến Người Diện Bích lần thứ nhất của Hội đồng phòng ngự toàn cầu PDC đã diễn ra được ba ngày. Ba Người Diện Bích Tyler, Rey Díaz và Hines lần lượt trình bày kế hoạch giai đoạn đầu tiên của mình trước hội nghị, đại biểu các quốc gia ủy viên thường trực PDC đã tiến hành thảo luận sơ bộ những kế hoạch này.

Trong phòng họp của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc khi xưa, đại biểu các quốc gia ủy viên thường trực ngồi quanh bàn tròn lớn, còn ba Người Diện Bích thì ngồi bên bàn hình chữ nhật ở chính giữa, họ là Tyler, Rey Díaz và Hines.

“Hôm nay La Tập vẫn không đến à?” Đại biểu Mỹ lấy làm bất mãn hỏi.

“Anh ta không đến.” Chủ tịch luân phiên của PDC, Garanin nói, “Anh ta tuyên bố, ẩn cư và không tham gia Hội nghị lắng nghe ý kiến của PDC, là một phần trong kế hoạch của mình.”

Nghe những lời này, các đại biểu dự họp liền rầm rì bàn tán, có người lộ vẻ giận dữ, có người lại nở nụ cười không rõ hàm ý gì.

“Người này là một thằng rác rưởi lười nhác!” Rey Díaz nói.

“Vậy thì ông là cái gì?” Tyler ngẩng đầu lên hỏi.

Hines cũng nói: “Tôi ngược lại còn muốn bày tỏ sự kính trọng đối với tiến sĩ La Tập, anh ta là người hiểu rõ bản thân, biết rõ năng lực của mình đến đâu, vì vậy mới không muốn lãng phí nguồn lực một cách vô nghĩa.”

Ông ta vừa nói, vừa lễ độ quay sang phía Rey Díaz, “Tôi cho rằng ông Rey Díaz cũng nên học tập điều này từ anh ta.”

Ai cũng nhìn ra được, Tyler và Hines không phải đang biện hộ cho La Tập, mà chẳng qua là họ thù địch với Rey Díaz hơn với La Tập mà thôi.

Garanin cầm búa gỗ gõ xuống mặt bàn: “Trước tiên, những lời của Người Diện Bích Rey Díaz là không thích đáng, xin nhắc nhở ông chú ý tôn trọng những Người Diện Bích khác; đồng thời, cũng yêu cầu Người Diện Bích Tyler và Hines chú ý, ngôn từ của hai người trên hội nghị cũng không được ổn thỏa đâu.”

Hines nói: “Ngài chủ tịch, những gì mà Người Diện Bích Rey Díaz thể hiện ra trong kế hoạch của ông ta, chỉ là sự thô bạo của bọn võ biền. Sau Iran và Bắc Triều Tiên, đất nước của ông ta cũng bị Liên Hiệp Quốc trừng phạt vì phát triển vũ khí hạt nhân, khiến ông ta có một thứ tình cảm méo mó đối với bom hạt nhân; kế hoạch sử dụng vũ khí dùng phản ứng nhiệt hạch của hạt nhân đại nguyên tử của ông Tyler và kế hoạch dùng bom nhiệt hạch cỡ siêu lớn của ông Rey Díaz không có khác gì nhau về bản chất, đều khiến chúng ta phải thất vọng cả. Ngay từ đầu, hai kế hoạch trực tiếp này đã lộ hết hướng đi chiến lược rồi, không hề thể hiện ưu thế về mặt mưu kế chiến lược của Người Diện Bích.”

Tyler phản kích: “Ông Hines, kế hoạch của ông lại càng giống như một ảo tưởng ngây ngô hơn.”

Sau khi Hội nghị lắng nghe ý kiến kết thúc, những Người Diện Bích đi tới phòng Trầm tư, đây là nơi họ ưa thích nhất trong trụ sở Liên Hiệp Quốc, giờ nghĩ lại, căn phòng nhỏ được thiết kế nhằm mục đích yên tĩnh suy nghĩ này thật giống như để dành riêng cho Người Diện Bích bọn họ vậy. Tụ tập ở đây, họ đều lặng lẽ chờ đợi, cảm nhận những dòng tư duy vĩnh viễn không thể trao đổi với nhau trước cuộc chiến ngày tận thế. Khối quặng sắt kia lặng lẽ nằm giữa bọn họ, tựa hồ đang hấp thu và hội tụ tư tưởng của họ, cũng tựa hồ đang lặng lẽ làm chứng cho điều gì đó.

Hines thấp giọng hỏi: “Các ông có nghe nói đến chuyện Người Phá Tường không?”

Tyler gật đầu, “Vừa công bố trên trang mạng công khai của bọn chúng, CIA cũng đã chứng thực.”

Những Người Diện Bích lại chìm vào trầm mặc, họ đang tưởng tượng ra hình ảnh Người Phá Tường của mình, sau này, hình ảnh ấy sẽ xuất hiện vô số lần trong những cơn ác mộng của họ, mà cái ngày Người Phá Tường nào thực sự xuất hiện, rất có khả năng sẽ chính là ngày tàn của Người Diện Bích đó.

***

Khi Sử Hiểu Minh thấy cha mình bước vào, anh ta sợ hãi nhích về phía góc tường, nhưng Sử Cường chỉ lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh anh ta.

“Đừng sợ, lần này bố không đánh mà cũng không mắng mày đâu, bố đã không còn hơi sức đâu mà làm thế nữa rồi.” Vừa nói, gã vừa lấy ra một bao thuốc, rút hai điếu, đưa một điếu cho con trai, Sử Hiểu Minh do dự một lúc rồi mới nhận lấy. Hai bố con châm thuốc, lẳng lặng hút một hồi, Sử Cường mới nói: “Bố có nhiệm vụ, sắp tới sẽ lại phải ra nước ngoài rồi.”

“Vậy bệnh của bố thì sao?” Sử Hiểu Minh ngẩng đầu lên trong làn khói thuốc, lo lắng nhìn cha mình.

“Nói chuyện của mày trước đã.”

Sử Hiểu Minh lộ ánh mắt van nài: “Bố, vụ này xử nặng lắm…”

“Nếu mày phạm phải chuyện khác, bố còn có thể chạy chọt cho, nhưng chuyện này thì không được. Minh à, cả bố và mày đều đã là người trưởng thành, chúng ta phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.”

Sử Hiểu Minh tuyệt vọng cúi gằm mặt xuống, chỉ biết hút thuốc.

Sử Cường nói: “Tội của mày cũng có một nửa là do bố, từ nhỏ đến lớn, bố chẳng lo gì được cho mày. Ngày ngày đều về nhà rất muộn, mệt rũ chỉ kịp uống chén rượu rồi lăn ra ngủ luôn, chưa bao giờ bố đi họp phụ huynh cho mày một lần, cũng chẳng bao giờ nói chuyện tử tế với mày… Vẫn là cái câu nói đó: chúng ta tự mình làm thì tự mình phải chịu thôi.”

Sử Hiểu Minh rơm rớm nước mắt, dụi đi dụi lại đầu thuốc vào mép giường, tựa hồ đang dập tắt nửa cuộc đời về sau của chính mình.

“Trong đó cũng giống như khóa học bồi dưỡng dành cho tội phạm thôi, vào đấy rồi đừng mong cải tạo được cái gì, đừng hùa theo bọn trong đấy là được rồi, cũng phải học được cách tự bảo vệ mình.” Sử Cường để một túi nylon lên giường, bên trong có hai tút thuốc lá, “Còn cần thứ gì thì mẹ mày sẽ mang tới.”

Sử Cường ra đến cửa, lại xoay người nói với con trai: “Minh à, bố con mình có lẽ sẽ còn gặp lại nhau, lúc đó có khi mày già hơn bố rồi, đến lúc ấy mày sẽ hiểu được tâm tình của bố lúc này.”

Sử Hiểu Minh nhìn cha mình đi ra khỏi trại tạm giam qua cái ô nhỏ trên cửa. Bóng Sử Cường nhìn từ phía sau trông đã già nua lắm rồi.

Lúc này, giữa cái thời đại mọi thứ đều căng thẳng, La Tập lại trở thành người nhàn tản nhất thế giới. Anh chậm rãi tản bộ ven bờ hồ, bơi thuyền trong hồ, mang nấm hái được và cá câu được cho đầu bếp chế biến thành các món ăn ngon; anh thong dong đọc số sách phong phú cất giữ trong thư phòng, đọc chán rồi thì ra ngoài đánh golf với đám vệ sĩ; anh còn cưỡi ngựa men theo con đường nhỏ giữa thảo nguyên và rừng rậm, chạy về phía núi tuyết, nhưng chưa bao giờ đến dưới chân núi. Ngày ngày, anh ngồi trên băng ghế dài bên bờ hồ, nhìn bóng núi tuyết phản chiếu xuống mặt hồ, chẳng nghĩ gì hoặc nghĩ đến mọi thứ, thoáng cái là một ngày đã qua đi.

Mấy hôm nay, La Tập luôn ở một mình, hoàn toàn không có bất cứ liên lạc gì với thế giới bên ngoài. Kent cũng có phòng làm việc nhỏ riêng trong trang viên, nhưng rất hiếm khi đến làm phiền anh. La Tập nói chuyện với viên sĩ quan phụ trách an ninh đúng một lần, yêu cầu những binh sĩ bảo vệ ấy đừng có đeo bám đằng xa trong lúc mình tản bộ, nếu nhất thiết phải đi theo thì hãy cố gắng đừng để anh trông thấy.

La Tập có cảm giác mình giống như con thuyền nhỏ đã hạ buồm trên mặt hồ kia, cứ lẳng lặng dập dềnh, không biết đỗ vào đâu, cũng chẳng quan tâm rồi sẽ trôi về hướng nào. Có lúc, nghĩ về cuộc sống trước đây, anh ngạc nhiên nhận ra, chỉ qua mấy ngày ngắn ngủi không ngờ nửa cuộc đời trước đây đã thành ra xa cách tựa như từ kiếp nảo kiếp nào, đồng thời, anh cũng rất hài lòng với trạng thái này.

La Tập rất hứng thú với hầm rượu trong trang viên, anh biết trong những cái chai bụi bặm được xếp gọn gàng ngay ngắn trên giá trong hầm đều là các loại rượu thượng hạng. Anh uống trong phòng khách, uống trong phòng đọc sách, có lúc còn uống trên con thuyền nhỏ, nhưng chưa bao giờ uống quá nhiều, chỉ đủ để rơi vào trạng thái nửa say nửa tỉnh, khi ấy, anh sẽ lấy chiếc tẩu cán dài người chủ trước để lại ra phun khói nhả mây.

Mặc dù từng có một trận mưa, trong phòng khách hơi ẩm và lạnh, nhưng La Tập vẫn không cho đốt lò sưởi lên, anh bảo, vẫn chưa đến lúc.

Ở đây, anh chưa từng lên mạng, nhưng thỉnh thoảng cũng xem ti vi, hễ thấy tin tức thời sự là nhất loạt bỏ qua, chỉ xem những chương trình không liên quan đến thời cuộc, thậm chí là không liên quan gì đến thời đại, tuy rằng những nội dung như vậy trên ti vi càng lúc càng ít, nhưng dư âm của thời đại vàng vẫn còn, nên vẫn có thể tìm được.

Một đêm nọ, một chai rượu nhìn nhãn thì có vẻ là cognac ba mươi lăm năm tuổi khiến anh ngà ngà ngất ngưởng, anh cầm điều khiển từ xa nhảy qua mấy kênh tin tức trên chiếc ti vi HD, nhưng rồi nhanh chóng bị một chương trình tin tức tiếng Anh thu hút. Ấy là việc trục vớt một con tàu đắm từ giữa thế kỷ 17, con tàu ba cột buồm ấy đi từ Rotterdam đến Faridabad ở Ấn Độ và bị đắm ở Cape Horn. Trong các vật phẩm mà thợ lặn vớt ra được từ con tàu đắm, có một thùng rượu vang vẫn còn nguyên vẹn niêm phong, theo các chuyên gia suy đoán, rượu ở trong đó giờ vẫn uống được, vả lại trải qua hơn ba trăm năm ủ dưới đáy biển, mùi vị thứ rượu ấy có thể sẽ ngon không gì sánh được. La Tập thu lại hầu như toàn bộ đoạn tin này, sau đó gọi Kent tới.

“Tôi muốn thùng rượu này, đi đấu giá nó về đây.” Anh nói với Kent.

Kent lập tức đi liên hệ, hai tiếng sau ông ta quay lại báo với La Tập rằng thùng rượu ấy dự kiến giá sẽ rất cao, giá khởi điểm có lẽ đã khoảng ba trăm nghìn euro rồi.

“Tí tiền lẻ ấy thì có là gì đối với kế hoạch Diện Bích chứ, đi mua đi, đây là một phần trong kế hoạch.”

Như vậy, sau “nụ cười với Người Diện Bích”, kế hoạch Diện Bích lại đẻ ra một thành ngữ mới. Phàm là chuyện gì biết rõ là hoang đường vớ vẩn nhưng lại không thể không đi làm, sẽ được gọi là “một phần trong kế hoạch Diện Bích”, hay gọi tắt là “một phần trong kế hoạch”.

Hai ngày sau, thùng rượu ấy đã được chuyển tới phòng khách của biệt thự, trên vỏ thùng kiểu dáng cổ xưa bám đầy hà. La Tập lấy trong hầm rượu ra một cái vòi kim loại có đầu mũi khoan xoắn ốc chuyên dùng để lấy rượu khỏi thùng gỗ, cẩn thận khoan vào vách thùng, rót ra ly rượu đầu tiên, màu rượu xanh biếc đầy quyến rũ. Anh ngửi một hơi, rồi đưa ly rượu lên sát miệng.

“Tiến sĩ, đây cũng là một phần trong kế hoạch à?” Kent hờ hững hỏi.

“Đúng thế, đây là một phần trong kế hoạch.” La Tập nói xong, đang định uống rượu, nhưng lại đưa mắt nhìn những người đang có mặt tại đó, “Các anh ra ngoài hết đi.”

Mấy người bọn Kent đều đứng bất động.

“Bảo các anh ra ngoài cũng là một phần trong kế hoạch, mời!” La Tập trợn mắt lên nói với bọn họ, Kent khe khẽ lắc đầu, đoạn dẫn những người khác đi ra.

La Tập uống ngụm rượu đầu tiên, cố gắng thuyết phục bản thân rằng mình đang nếm thử nước tiên, nhưng rốt cuộc vẫn không có dũng khí uống thêm ngụm thứ hai.

Nhưng ngụm rượu nhỏ ấy cũng không buông tha cho anh, đêm đó anh không ngừng miệng nôn trôn tháo, đến khi nôn ra cả dịch mật có màu hệt như màu rượu kia, cuối cùng cả người mềm nhũn ra không bò dậy nổi. Sau đấy, bác sĩ và các chuyên gia mở nắp thùng rượu đó ra mới biết, vách bên trong thùng gỗ có một tấm nhãn bằng đồng rất lớn, thời đó quả thực là có thói quen làm nhãn hiệu bên trong thùng. Trong những tháng năm dài đằng đẵng, đồng và rượu vốn dĩ không có tác động lẫn nhau lại nảy sinh phản ứng, không biết đã thành ra thứ gì hòa tan trong rượu… Lúc thùng rượu ấy được khiêng đi, La Tập nhận thấy Kent lộ ra vẻ khoái trá.

La Tập rũ ra nằm vật trên giường, nhìn dịch truyền trong bình chảy xuống từng giọt từng giọt một, cảm giác cô độc dữ dội chưa từng thấy bao trùm lấy anh, anh biết, sự nhàn tản mấy ngày nay chẳng qua chỉ là giai đoạn không trọng lực trên đường rơi xuống vực thẳm cô độc mà thôi, giờ thì anh đã chạm đáy rồi.

Nhưng La Tập sớm đã liệu trước thời khắc này, anh đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ, chỉ đợi một người đến đây, sẽ có thể khởi động bước tiếp theo của kế hoạch. Anh đang đợi Sử Cường.

Tyler cầm ô đứng giữa màn mưa bụi lâm thâm trên đảo Kagoshima, sau lưng ông ta là Inoue Koichi, sĩ quan phụ trách Cục phòng vệ[31]. Inoue Koichi mang ô nhưng không mở ra, đứng cách Tyler chừng hai mét, hai ngày hôm nay, dù về cơ thể hay tư tưởng, ông ta luôn giữ một khoảng cách nhất định với Người Diện Bích. Nơi này là Nhà kỷ niệm Đội đặc công Thần Phong, trước mặt họ là bức tượng một đội viên đặc công, bên cạnh có một chiến đấu cơ màu trắng mang số hiệu 502. Nước mưa phủ lên bề mặt bức tượng và chiếc máy bay một quầng ánh sáng, khiến cả hai toát lên một thứ sức sống hư ảo.

[31] Là tổ chức vũ trang phòng thủ Nhật Bản, đến năm 2007 mới nâng cấp thành Bộ quốc phòng Nhật Bản.

“Chẳng lẽ kiến nghị của tôi còn không có cả đất để thảo luận sao?” Tyler hỏi.

“Tôi khuyên ông tốt nhất đừng nói đến chuyện này trước mặt giới truyền thông, sẽ phiền phức lắm đấy.” Giọng Inoue Koichi lạnh băng như nước mưa.

“Đến thời điểm này rồi mà vẫn còn nhạy cảm thế à?”

“Nhạy cảm không phải là lịch sử, mà là kiến nghị của ông, khôi phục lại Đội đặc công Thần Phong, tại sao không làm ở Mỹ hay ở nơi nào khác? Cả thế giới này chẳng lẽ chỉ có người Nhật là có tinh thần cảm tử thôi sao?”

Tyler gập ô lại. Inoue Koichi bước lại gần ông ta thêm một chút. Tuy Tyler không né tránh, nhưng xung quanh ông ta dường như có một thứ trường lực ngăn cản Inoue Koichi tiếp tục áp sát: “Tôi chưa bao giờ nói Đội đặc công Thần Phong trong tương lai sẽ chỉ có người Nhật Bản, đây là một đội quân quốc tế, nhưng nước ông là vùng đất khởi nguyên của nó, bắt tay khôi phục nó từ đây chẳng phải là rất tự nhiên ư?”

“Trong chiến tranh không gian, phương thức tấn công này thực sự có ý nghĩa sao? Phải biết rằng, hiệu quả tác chiến của đội Thần Phong năm đó là rất có hạn, không thể xoay chuyển được cục diện của chiến tranh.”

“Ngài chỉ huy, lực lượng vũ trang không gian mà tôi xây dựng sử dụng sét hòn làm vũ khí, sét hòn sử dụng hạt nhân đại nguyên tử, điều khiển bắn ra bằng điện từ, tốc độ khi vừa bắn rất chậm, muốn đạt đến tốc độ của tên lửa không gian thì đường bắn cần phải có độ dài mấy chục thậm chí hơn trăm cây số, chuyện này không thể thực hiện được; đồng thời, sét hòn khi đã bắn ra lại không có trí thông minh như tên lửa tự hành, không thể cơ động đột phá hiệu quả hệ thống đánh chặn và hệ thống chắn của kẻ địch, vì vậy cần phải đến gần mục tiêu mới tấn công, đây chính là ý nghĩa tác chiến của đội đặc công mới. Không phải yêu cầu người ta lái phi thuyền đâm thẳng vào mục tiêu của kẻ địch, tuy tất nhiên, trong tình huống này, tỷ lệ tử vong cũng không thấp hơn việc ấy là bao nhiêu.”

“Tại sao nhất thiết phải sử dụng con người? Máy tính không thể điều khiển phi thuyền áp sát mục tiêu rồi tấn công sao?"

Câu hỏi này dường như đã mở đường cho Tyler, ông ta trở nên hưng phấn: “Vấn đề chính là ở đây! Trên các chiến đấu cơ hiện nay, máy tính chưa thể thay thế bộ não con người, việc chế tạo ra máy tính thế hệ mới, bao gồm cả máy tính lượng tử, phải dựa vào sự tiến bộ của vật lý cơ bản, mà vật lý thì đã bị Hạt trí tuệ khóa chết rồi. Vì vậy, bốn trăm năm sau, trí thông minh của máy tính cũng vẫn rất có hạn, không thể không có con người điều khiển vũ khí… thực ra, hiện nay khôi phục lại Đội đặc công Thần Phong cũng chỉ có ý nghĩa về mặt tinh thần và niềm tin, trong mười thế hệ tới, sẽ không có ai phải cảm tử cả, nhưng việc xây dựng tinh thần và niềm tin nhất thiết phải bắt đầu ngay từ bây giờ!”

Inoue Koichi quay người lại, lần đầu tiên mặt đối mặt với Tyler, mái tóc ẩm ướt dính bết lên trán, nước mưa chảy trên mặt ông ta tựa như nước mắt: “Cách làm này hoàn toàn đi ngược lại quy tắc đạo đức cơ bản của xã hội hiện đại: sinh mạng con người đặt cao hơn hết thảy, quốc gia và chính phủ không thể yêu cầu bất cứ cá nhân nào đảm nhiệm sứ mệnh tự sát được. Tôi vẫn còn nhớ láng máng trong truyện Truyền thuyết anh hùng Ngân Hà [32], nhân vật Dương Uy Lợi từng nói một câu thế này: nước nhà hưng thịnh hay suy tàn, tất cả đều quyết định trong trận chiến này, nhưng so với quyền và tự do của cá nhân, thì đó chỉ là một điều thật nhỏ mọn, các vị cứ cố gắng hết sức là được rồi.”

[32] Ginga Eiyū Densetsu, là bộ tiểu thuyết khoa học viễn tưởng nổi tiếng của tác giả Yoshiki Tanaka, Yang Wen-li (Dương Uy Lợi) là một nhân vật chính trong tiểu thuyết này.

Tyler thở dài: “Ông biết không? Các người đã bỏ đi thứ quý giá nhất của mình rồi.” Nói dứt lời, ông ta mở ô đánh soạt một tiếng, quay người giận dữ bỏ đi. Đi một mạch ra đến chỗ cổng nhà kỷ niệm, ông ta mới ngoảnh đầu lại nhìn, Inoue Koichi vẫn dầm mưa đứng trước bức tượng.

Tyler đi giữa làn gió biển và màn mưa, trong đầu chốc chốc lại vẳng lên một câu nói, đó là câu ông ta vừa đọc được trong bức di thư trưng bày tại phòng triển lãm, của một đội viên Thần Phong viết cho mẹ mình trước khi xuất kích: “Mẹ ơi, con sẽ biến thành đom đóm.”

“Thực tế khó hơn nhiều so với tưởng tượng.” Allen nói với Rey Díaz, họ đang đứng trước một tấm bia hình tháp làm bằng đá núi lửa màu đen, đây là cột mốc đánh dấu điểm nổ quả bom nguyên tử đầu tiên của loài người.

“Kết cấu của nó thực sự khác đến thế sao?” Rey Díaz hỏi.

“Hoàn toàn khác hẳn bom nguyên tử hiện nay, xây dựng mô hình toán học cho nó có thể phức tạp gấp hơn trăm lần hiện tại, đây là một công trình khổng lồ.”

“Cần tôi làm gì?”

“Cosmo ở trong ban tham mưu của ông đúng không? Cho ông ta đến phòng thí nghiệm của tôi.”

“William Cosmo?”

“Đúng là ông ta đấy.”

“Nhưng mà ông ta là một, là một…”

“Nhà vật lý thiên văn, một chuyên gia có uy tín chuyên nghiên cứu hằng tinh.”

“Vậy ông cần ông ta làm gì?”

“Đây chính là điều hôm nay tôi muốn nói với ông. Trong ấn tượng của ông, bom hạt nhân kích hoạt xong là nổ tung, nhưng trên thực tế thì quá trình đó giống như sự cháy vậy, đương lượng càng lớn, quá trình cháy càng dài. Ví dụ như khi một quả bom hạt nhân có sức công phá 20 megaton bùng nổ, quả cầu lửa có thể kéo dài chừng hơn 20 giây; mà quả bom siêu lớn chúng tôi đang thiết kế đây, giả sử như là 200 megaton đi, vậy thì quả cầu lửa nó tạo ra có thể cháy chừng vài phút, ông nghĩ thử xem, nó giống như cái gì?”

“Một Mặt trời nhỏ.”

“Rất chính xác! Kết cấu phản ứng nhiệt hạch của nó rất giống với một ngôi sao, và nó tái hiện quá trình tiến hóa của một ngôi sao trong thời gian cực kỳ ngắn ngủi. Vì vậy, mô hình toán học mà chúng tôi phải xây dựng, về bản chất chính là mô hình của một ngôi sao.”

Trước mặt họ, hoang mạc của bãi thử tên lửa White Sands trải dài mênh mông, lúc này đương là thời điểm ngay trước bình minh, cả hoang mạc tối đen như mực, không nhìn rõ thứ gì. Lúc nhìn thấy khung cảnh này, hai người đều bất giác nhớ đến cảnh tượng nền trong trò chơi Tam Thể.

“Tôi thực sự rất phấn khích, ông Rey Díaz, xin hãy thứ lỗi cho sự thiếu nhiệt tình lúc ban đầu của chúng tôi, giờ nhìn lại, ý nghĩa của công trình nghiên cứu này đã vượt xa bản thân việc chế tạo ra một quả bom hạt nhân siêu lớn rồi, ông có biết chúng ta đang làm gì không? Chúng ta đang sáng tạo ra một ngôi sao mô phỏng đấy!”

Rey Díaz lắc đầu, tựa hồ như không đồng tình: “Chuyện này thì can hệ gì đến việc phòng thủ Trái đất?”

“Đừng có lúc nào cũng giới hạn suy nghĩ ở việc phòng thủ Trái đất, dẫu sao tôi và các đồng nghiệp ở phòng thí nghiệm vẫn là các nhà khoa học. Vả lại, chuyện này cũng không phải là hoàn toàn không có ý nghĩa thực tế, chỉ cần nhập vào các tham số thích hợp, đây sẽ biến thành mô hình của Mặt trời! Ông thử nghĩ mà xem, có một Mặt trời trong ổ cứng máy tính, thế nào cũng có tác dụng. Có một thiên thể khổng lồ gần chúng ta đến thế, mà chúng ta lại lợi dụng được quá ít, nhờ mô hình này, có lẽ sẽ còn có nhiều phát hiện mới hơn.”

Rey Díaz nói: “Ứng dụng của Mặt trời lần trước đã dồn loài người vào bước đường cùng, cũng khiến cho ông và tôi có duyên đứng với nhau ở đây đấy.”

“Nhưng phát hiện mới lại có khả năng khiến loài người thoát khỏi cảnh ngộ khốn cùng này, vì vậy hôm nay tôi mới mời ông đến đây ngắm Mặt trời mọc.”

Lúc này, vầng dương buổi sớm nhô phần đỉnh sáng lóa lên khỏi đường chân trời, hoang mạc trở nên rõ nét như hình ảnh dần hiển thị trên màn hình, Rey Díaz nhìn thấy, trên vùng đất năm xưa ngọn lửa địa ngục bùng cháy, nay đã có những bụi cỏ dại lưa thưa.

“Ta đang biến thành cái chết, thành kẻ hủy diệt các thế giới.” Allen buột miệng nói.

“Gì hả?!” Rey Díaz vụt ngoảnh đầu lại nhìn Allen, vẻ mặt tựa như có người vừa nổ súng sau lưng ông ta vậy.

“Đây là câu Oppenheimer nói lúc trông thấy quả bom nguyên tử đầu tiên phát nổ, hình như là trích dẫn từ trong sử thi Bhagavad Gita của Ấn Độ.”

Vầng sáng ở phương Đông nhanh chóng lớn dần lên, đem ánh sáng trùm xuống thế giới, tựa như quăng một tấm lưới màu vàng khổng lồ. Chính vầng Mặt trời này là đích đến mà Diệp Văn Khiết xoay ăng ten Hồng Ngạn nhắm vào buổi sáng năm ấy; và trước nữa, ở nơi đây, cũng chính vầng Mặt trời này đã chiếu sáng đám bụi khói sót lại sau vụ nổ bom nguyên tử đầu tiên; đây cũng chính là vầng Mặt trời mà vượn người cổ đại của triệu năm trước và các loài khủng long của trăm triệu năm trước nhìn thấy bằng đôi mắt đờ đẫn; sớm hơn thế nữa, thứ ánh sáng lờ mờ mông lung từ mặt biển đi vào mà tế bào có sự sống đầu tiên trong đại dương nguyên thủy cảm nhận được, cũng là do vầng Mặt trời này phát ra.

Allen nói tiếp: “Lúc ấy, một người tên là Bainbridge đã tiếp lời Oppenheimer bằng một câu hoàn toàn không có ý thơ chút nào: ‘Giờ thì chúng ta đều thành lũ chó đẻ cả rồi.’”

“Ông đang nói gì vậy?” Rey Díaz hỏi, ông ta đang nhìn vầng dương dâng lên, hơi thở trở nên gấp gáp.

“Tôi đang cảm ơn ông, ông Rey Díaz, vì từ nay trở đi, chúng tôi không phải là lũ chó đẻ nữa rồi.”

Phương Đông, Mặt trời từ từ dâng lên với vẻ trang nghiêm vượt trên tất thảy, tựa hồ đang tuyên bố với thế giới này, ngoài ta ra, tất cả đều chỉ là bóng câu qua cửa mà thôi.

“Ông sao vậy, ông Rey Díaz?” Allen thấy Rey Díaz quỳ gục xuống, chống một tay xuống đất và bắt đầu nôn mửa, nhưng không nôn ra được thứ gì. Gương mặt ông ta bỗng tái nhợt, đẫm mồ hôi lạnh, bàn tay ông ta đè lên bụi gai, nhưng Rey Díaz đã không còn đủ sức nhấc tránh đi nữa.

“Đi, vào trong xe.” Rey Díaz yếu ớt nói, đầu ông ta ngoảnh đi khỏi hướng Mặt trời mọc, bàn tay còn lại giơ ra phía trước, muốn che bớt ánh mặt trời. Lúc này, ông ta đã không còn sức lực mà đứng dậy nổi nữa, Allen toan đỡ ông ta dậy, nhưng không sao đỡ nổi tấm thân lực lưỡng của Rey Díaz. “Cho xe đến đây…” Rey Díaz thở hổn hển, đồng thời rụt bàn tay che ánh mặt trời lại bịt chặt hai mắt. Lúc lái xe đến bên cạnh, Allen phát hiện ra Rey Díaz đã tê liệt ngã lăn ra đất, Allen phải rất khó nhọc mới đẩy được ông ta lên băng ghế sau. “Kính râm, tôi cần kính râm…” Rey Díaz nửa ngồi nửa nằm trên ghế, hai tay quơ loạn trong không trung, Allen vội vàng tìm cặp kính râm trên táp lô đưa cho ông ta. Sau khi đeo kính lên, Rey Díaz dường như đã thở bình ổn hơn một chút, “Tôi không sao đâu, chúng ta trở về đi, nhanh lên.” Rey Díaz yếu ớt nói.

“Rốt cuộc ông bị sao vậy? Khó chịu ở chỗ nào?”

“Hình như là vì Mặt trời.”

“Chuyện này… ông bắt đầu có triệu chứng này từ bao giờ vậy?”

“Vừa nãy.”

Từ đó trở đi, Rey Díaz mắc phải chứng bệnh sợ Mặt trời kỳ quái ấy, hễ trông thấy Mặt trời, cả tinh thần lẫn thân thể ông ta đều rơi vào trạng thái gần như suy sụp.

“Ngồi máy bay lâu quá hả? Trông anh uể oải lắm.” Trông thấy Sử Cường vừa mới đến, La Tập nói.

“Thì đó, làm gì được thoải mái như cái lần trước chúng ta đi.” Sử Cường nói, đồng thời đảo mắt quan sát khung cảnh xung quanh.

“Chỗ này được đấy nhỉ.”

“Không ổn.” Sử Cường lắc đầu, “Ba mặt có rừng cây, muốn ẩn nấp để tiếp cận biệt thự rất dễ dàng; còn cả cái hồ này nữa, gần khu nhà ở như vậy, khó mà đề phòng người xuống nước từ khu rừng phía bờ hồ bên kia; có điều, bãi cỏ ở xung quanh này lại rất tốt, dành ra một khoảng không gian thoáng rộng.”

“Anh không thể lãng mạn một chút được à?”

“Chú em, tôi đến đây làm việc đấy ạ.”

“Tôi đang định giao cho anh một công việc lãng mạn đây.” La Tập dẫn Sử Cường vào phòng khách, Sử Cường lại quan sát sơ qua một lượt, sự hào hoa và thanh lịch của nơi này dường như không để lại cho gã ấn tượng gì cả. La Tập cầm chiếc ly thủy tinh chân cao rót rượu cho Sử Cường, nhưng gã xua tay từ chối.

“Đây là brandy đã ủ ba mươi năm đấy.”

“Giờ tôi không thể uống rượu được rồi… Nói cái công việc lãng mạn của cậu đi xem nào.”

La Tập nhấp một ngụm rượu, ngồi xuống bên cạnh Sử Cường: “Đại Sử à, tôi muốn nhờ anh một việc này. Trong công việc trước đây của anh, thường phải tìm kiếm một người nào đó trên phạm vi toàn quốc, thậm chí là toàn thế giới đúng không?”

“Ừ.”

“Anh là chuyên gia hả?”

“Tìm người ấy à? Tất nhiên rồi.”

“Vậy thì tốt, giúp tôi tìm một người, một cô gái khoảng hai mươi tuổi, đây là một phần trong kế hoạch.”

“Quốc tịch, họ tên, địa chỉ?”

“Đều không có, thậm chí khả năng cô ấy có mặt trên thế gian này cũng rất nhỏ.”

Sử Cường trố mắt nhìn La Tập, dừng lại mấy giây rồi mới nói: “Mơ thấy hả?”

La Tập gật đầu: “Coi như là một giấc mộng cũng được.”

Sử Cường cũng gật đầu, nói ra hai chữ mà La Tập không ngờ đến: “Còn đỡ.”

“Cái gì?”

“Tôi bảo là còn đỡ, như vậy ít nhất anh cũng biết cô ta trông thế nào.”

“Cô ấy là một, ừm, cô gái phương Đông, chậc, cứ giả định là người Trung Quốc đi.” La Tập nói, lấy giấy bút ra vẽ, “Mặt cô ấy, trông thế này này; mũi thế này, miệng thế này, chậc, tôi không biết vẽ, mắt… khốn thật, sao tôi vẽ được mắt cô ấy chứ, có phải các anh có một thứ, phần mềm thì phải, có thể mở ra một khuôn mặt, rồi dựa theo miêu tả của nhân chứng mà điều chỉnh mắt mũi miệng gì gì đó, cuối cùng sẽ có chính xác chân dung người mà nhân chứng đã trông thấy không?”

“Có, trong máy tính xách tay của tôi cũng có cài.”

“Vậy anh lấy ra đi, chúng ta vẽ luôn!”

Sử Cường duỗi người trên ghế sô pha, lấy tư thế thật thoải mái: “Không cần đâu, cậu cũng không cần vẽ nữa, nói tiếp đi, chuyện tướng mạo tạm gác sang một bên, trước tiên nói xem cô ấy là người thế nào.”

Bên trong La Tập dường như có thứ gì được đốt cháy, anh đứng dậy, bất an đi đi lại lại trước lò sưởi: “Cô ấy… nói thế nào nhỉ? Cô ấy đến với thế giới này, giống như là một đóa bách hợp mọc lên giữa đống rác rưởi, thật là… thật là thuần khiết mong manh, mọi thứ xung quanh đều không thể khiến cô ấy nhuốm bẩn, nhưng đều làm tổn thương cô ấy, đúng thế, mọi thứ xung quanh đều có thể khiến cô ấy tổn thương! Phản ứng đầu tiên khi anh gặp cô ấy chính là muốn bảo vệ cô ấy… à không, muốn che chở cho cô ấy, để cô ấy không bị cái hiện thực dã man thô bạo này làm tổn thương, vì điều này, anh sẵn lòng trả bất cứ giá nào! Cô ấy… Cô ấy thật là… Chậc, anh xem đấy, sao tôi lại nói năng vụng về thế này chứ nhỉ, không nói rõ ràng được gì cả.”

“Đều thế cả thôi,” Sử Cường cười cười gật đầu, nụ cười thoạt nhìn có vẻ ngây ngô của gã giờ đây trong mắt La Tập lại tràn đầy trí tuệ, cũng khiến anh cảm thấy rất thoải mái, “có điều, cậu nói vậy cũng rõ ràng lắm rồi.”

“Được, vậy tôi nói tiếp nhé, cô ấy… nhưng, nhưng tôi biết nói thế nào bây giờ nhỉ? Miêu tả thế nào cũng không thể hiện ra được cô gái trong lòng tôi ấy.” La Tập rối rít, tựa hồ như muốn móc tim mình ra cho Sử Cường xem vậy.

Sử Cường xua xua tay, bảo La Tập bình tĩnh lại: “Được rồi, nói về chuyện cậu và cô ấy sống chung đi, càng chi tiết càng tốt.”

La Tập kinh ngạc trợn tròn mắt lên: “Sống chung… Với cô ấy? Sao anh biết?”

Sử Cường bật cười khành khạch, đồng thời đưa mắt ngó quanh quất: “Ở nơi thế này, chắc là phải có xì gà loại ngon ngon chứ?”

“Có, có đây!” La Tập vội vàng lấy trên nóc lò sưởi xuống một cái hộp gỗ tinh xảo, lấy ra một điếu Davidoff to tướng, rồi dùng một dụng cụ cắt xì gà còn tinh xảo hơn, có kiểu dáng như cái máy chém nhỏ, cắt phần đầu đi đưa cho Sử Cường, đoạn dùng que châm xì gà bằng gỗ tùng, châm thuốc cho gã ta.

Sử Cường hút một hơi, hài lòng gật đầu: “Nói đi.”

Trái ngược hẳn với bộ dạng ấp a ấp úng vừa nãy, La Tập bắt đầu thao thao bất tuyệt. Anh kể lại chuyện lần đầu tiên cô xuất hiện trong thư viện, kể lại chuyện anh và cô gặp lại nhau trước cái lò sưởi tưởng tượng trong phòng ký túc xá, kể chuyện cô xuất hiện trên giảng đường của anh, tả lại vẻ đẹp mà ngọn lửa trong lò sưởi chiếu qua chai rượu vang có màu sắc tựa như đôi mắt của ráng chiều hắt lên gương mặt cô vào cái đêm hôm ấy. Anh vui sướng hồi tưởng lại chuyến đi lần đó của hai người, kể lại tỉ mỉ từng chi tiết nhỏ nhặt nhất: cánh đồng sau trận tuyết, thị trấn và ngôi làng nhỏ dưới bầu trời xanh, ngọn núi như những người già sưởi nắng, và cả đống lửa cùng buổi hoàng hôn trên núi nữa…

Sử Cường nghe xong, dập tắt điếu thuốc đi, nói: “Ừm, về cơ bản là đủ rồi. Tôi có đưa ra một số suy đoán về cô gái đó, cậu xem có đúng không nhé.”

“Được, được!”

“Trình độ văn hóa của cô ấy, có lẽ là trên đại học và dưới tiến sĩ.”

La Tập gật đầu, “Đúng thế, đúng thế, cô ấy có kiến thức, nhưng những kiến thức ấy vẫn chưa đạt đến mức độ học vấn để khiến cô ấy trở nên cứng nhắc, mà chỉ khiến cô ấy càng thêm nhạy cảm với cuộc sống và thế giới này.”

“Cô ấy chắc là sống trong một gia đình trí thức cao cấp, cuộc sống không giàu có xa xỉ, nhưng so với gia đình bình thường thì sung túc hơn nhiều, từ nhỏ tới lớn cô ấy đều được sống trong tình yêu thương đầy đủ của cha mẹ, nhưng tiếp xúc với xã hội, đặc biệt là những người ở tầng đáy xã hội thì rất ít.”

“Đúng, đúng, cực kỳ chính xác! Cô ấy chưa từng nói với tôi về gia đình mình, sự thực là chưa từng nói bất cứ chuyện gì liên quan đến bản thân mình, nhưng tôi nghĩ chắc hẳn là phải như vậy!”

“Những suy đoán tiếp theo chỉ là suy đoán thôi, nếu sai thì cậu bảo tôi nhé… Cô ấy thích mặc, nói như nào nhỉ, quần áo kiểu thanh lịch mà trang nhã, so với những cô gái cùng tuổi, cô ấy có vẻ đơn điệu hơn một chút.” La Tập ngây người ra, gật đầu lia lịa, “Nhưng luôn có những phần trắng tinh khiết, ví dụ như áo trong này, hay cổ áo gì gì đó, nhìn tương phản rõ với những phần có màu sắc đậm hơn.”

“Đại Sử à, anh…” La Tập nhìn Sử Cường với ánh mắt gần như sùng bái, nói.

Sử Cường xua tay ngăn không cho anh nói tiếp, “Điểm cuối cùng: cô ấy không cao lắm, khoảng mét sáu gì đấy, vóc người rất… hình dung như thế nào nhỉ, mong manh, kiểu như một trận gió cũng thổi bay đi được ấy, vì vậy nên trông cũng không phải thấp lắm… tất nhiên còn có thể nghĩ ra nhiều điểm khác nữa, chắc là cũng hòm hòm rồi.”

La Tập như thể muốn quỳ xuống trước mặt Sử Cường: “Đại Sử, tôi phục anh sát đất rồi! Anh, anh là Sherlock Holmes tái thế à!”

Sử Cường đứng lên, “Vậy tôi ra vẽ trên máy tính nhé.”

Tối hôm đó, Sử Cường mang máy tính xách tay đến tìm La Tập. Lúc trên màn hình hiện ra bức tranh thiếu nữ ấy, La Tập ngồi đờ ra bất động, nhìn chằm chằm vào màn hình như thể trúng phải bùa. Sử Cường hình như sớm đã đoán trước được điều này, lại đi tới chỗ lò sưởi lấy một điếu xì gà, kê lên cái máy chém nhỏ kia cắt đầu đi, châm lửa, hút mấy hơi xong quay lại vẫn thấy La Tập nhìn chằm chằm vào màn hình.

“Có chỗ nào không giống, cậu bảo để tôi điều chỉnh.”

La Tập khó nhọc thu ánh mắt khỏi màn hình, đứng dậy đi tới trước cửa sổ, nhìn ngọn núi tuyết xa xa dưới ánh trăng, giọng nói như đang nói mê: “Không cần điều chỉnh gì hết.”

“Tôi cũng nghĩ thế.” Sử Cường nói, đóng máy tính lại.

La Tập vẫn nhìn về phía xa xăm, nói ra một câu mà người khác cũng từng dùng để đánh giá Sử Cường: “Đại Sử, anh đúng là một con quỷ.”

Sử Cường mệt mỏi ngồi xuống ghế sô pha: “Làm gì đến nỗi thế, chúng ta đều là đàn ông cả mà.”

La Tập quay người lại nói: “Nhưng người tình trong mộng của mỗi người đàn ông đều rất khác nhau mà!”

“Nhưng người tình trong mộng của mỗi một loại đàn ông về đại thể đều khá tương đồng.”

“Vậy cũng không thể nào vẽ ra giống như vậy được!”

“Không phải cậu đã nói với tôi rất nhiều thứ à.”

La Tập đi tới bên cạnh máy tính, lại mở ra: “Sao cho tôi một bản.” Vừa làm anh vừa hỏi, “Anh có thể tìm được cô ấy không?”

“Giờ tôi chỉ có thể nói là tỷ lệ rất cao, nhưng cũng không loại trừ khả năng hoàn toàn không tìm được.”

“Gì hả?” La Tập dừng thao tác đang làm dở lại, quay đầu kinh ngạc nhìn Sử Cường.

“Chuyện kiểu này làm sao mà đảm bảo 100% thành công được chứ.”

“Không, ý tôi không phải là vậy, ngược lại cơ, tôi tưởng anh sẽ nói là gần như không có khả năng, nhưng cũng không loại trừ khả năng một phần vạn là ngẫu nhiên tìm được, kỳ thực, nếu anh nói như vậy tôi cũng đã thỏa mãn rồi!” Anh quay đầu lại nhìn bức hình vừa hiển thị lại trên màn hình, lẩm bẩm như người nói mớ: “Trên đời này sao có thể tồn tại người như vậy được chứ.”

Sử Cường bật cười khinh khỉnh: “Thầy giáo La, cậu đã gặp được bao nhiêu người?”

“Tất nhiên không thể so sánh với anh được, nhưng tôi biết trên thế giới này không có người nào hoàn mỹ, lại càng không có người phụ nữ nào hoàn mỹ.”

“Như cậu nói đấy, tôi thường xuyên phải tìm ai đó giữa hàng trăm hàng nghìn người. Tôi lấy kinh nghiệm nửa đời mình ra nói cho cậu biết: người như thế nào cũng có. Nói cho cậu biết nhé, chú em, loại nào cũng có, bao gồm cả người hoàn mỹ và người phụ nữ hoàn mỹ, chỉ là cậu chưa có duyên gặp được đấy thôi.”

“Đây là lần đầu tiên tôi nghe người khác nói vậy đấy.”

“Bởi vì thế này, người hoàn mỹ trong lòng cậu, chưa chắc đã hoàn mỹ trong mắt người khác, ví dụ như cô gái trong mộng kia của cậu nhé, theo tôi thấy, cô ấy có những chỗ rõ ràng là… nói thế nào nhỉ, không hoàn mỹ đi, vì vậy, khả năng tìm được là rất lớn.”

“Thế nhưng có những đạo diễn tìm một diễn viên lý tưởng giữa hàng chục nghìn người mà cuối cùng vẫn chẳng tìm được.”

“Đám đạo diễn kia làm sao so bì được với những kẻ làm nghề như chúng tôi, chúng tôi đâu chỉ tìm một người giữa hàng chục nghìn người, thậm chí đâu chỉ là tìm một người giữa hàng trăm nghìn hay hàng triệu người, các công cụ cũng như phương pháp của chúng tôi đều tiên tiến hơn bất cứ đạo diễn nào. Lấy ví dụ nhé, mấy cái máy tính cỡ lớn ở trung tâm phân tích của Bộ Công an ấy, chỉ cần nửa ngày là tìm ra một gương mặt thích hợp giữa mấy trăm triệu bức ảnh… Chỉ là, chuyện này nằm ngoài phạm vi chức trách của tôi, trước tiên tôi phải báo cáo lại với cấp trên, nếu được phê chuẩn và giao nhiệm vụ, tất nhiên tôi sẽ dốc hết sức hoàn thành.”

“Bảo với họ, đây là phần quan trọng trong kế hoạch Diện Bích, cần phải xử lý một cách nghiêm túc.”

Sử Cường cười hì hì đầy vẻ ám muội, đứng dậy từ biệt La Tập.

“Gì hả? Bảo PDC tìm…” Kent vất vả tìm kiếm cụm từ tiếng Trung Quốc ấy, “người tình trong mộng cho anh ta? Thằng cha này đã được nuông chiều thành ra thế này rồi cơ à! Xin lỗi, tôi không thể chuyển tiếp yêu cầu này của anh lên cấp trên được.”

“Vậy thì ông đã làm trái với nguyên tắc của kế hoạch Diện Bích: cho dù chỉ thị của Người Diện Bích có khó hiểu đến đâu, cũng đều phải xin ý kiến thi hành, chỉ PDC mới có quyền phủ quyết cuối cùng.”

“Dù thế thì cũng không thể dùng tài nguyên của xã hội loài người để phục vụ loại người này sống kiểu đế vương như vậy! Anh Sử, chúng ta làm việc chung với nhau chưa lâu, nhưng tôi rất khâm phục anh, anh là người rất lão luyện, lại có khả năng quan sát thấu suốt, vậy mong anh nói thực lòng cho tôi biết: anh thực sự cho rằng La Tập đang thi hành kế hoạch Diện Bích hay sao?”

Sử Cường lắc đầu, “Tôi không biết.” Gã giơ tay ngăn Kent tiếp tục tranh luận, “Nhưng, ông Kent này, đây chỉ là cá nhân tôi không biết, chứ không phải cách nhìn của cấp trên. Đây chính là điểm khác nhau lớn nhất giữa ông và tôi: tôi chỉ là một kẻ chấp hành mệnh lệnh trung thành, còn ông thì khác, chuyện gì ông cũng phải hỏi tại sao.”

“Làm vậy không đúng à?”

“Chẳng có gì đúng hay không đúng ở đây cả, nếu mỗi người đều phải làm rõ ra tại vì sao rồi mới chấp hành mệnh lệnh thì cái thế giới này loạn từ lâu rồi. Ông Kent này, cấp bậc của ông cao hơn của tôi một chút, nhưng nói cho cùng, chúng ta đều là người chấp hành mệnh lệnh mà thôi, điều đầu tiên chúng ta cần hiểu là, có một số việc không đến lượt những người như chúng ta suy xét, chỉ cần làm hết trách nhiệm của mình là được rồi. Không làm được điều này, cuộc sống của ông sợ là sẽ khó khăn lắm đấy.”

“Cuộc sống của tôi giờ đã khó khăn lắm rồi! Lần trước bỏ ra cả đống tiền mua rượu trong tàu đắm, tôi đã nghĩ… anh nói đi, người này có chút gì giống như Người Diện Bích hay không?”

“Người Diện Bích cần phải như thế nào?”

Kent nhất thời tắc tị.

“Mà kể cả Người Diện Bích thực sự phải ra dáng Người Diện Bích đi chăng nữa, tôi thấy thầy La Tập cũng không phải là hoàn toàn không giống đâu.”

“Gì hả?” Kent hơi ngạc nhiên, “Không phải anh định nói là đã nhìn ra tố chất gì đó ở anh ta đấy chứ?”

“Đúng là đã nhìn thấy chút chút.”

“Quỷ quái thật, anh nói thử xem.”

Sử Cường đặt tay lên vai Kent: “Lấy ví dụ là ông nhé, giả sử gán cho ông cái thân phận Người Diện Bích này, ông liệu có lợi dụng cơ hội mà hưởng thụ giống anh ta không?”

“Tôi đã suy sụp từ lâu rồi.”

“Vậy là đúng rồi, nhưng La Tập vẫn thong dong thoải mái, cứ như chẳng có chuyện gì vậy. Ông Kent này, ông tưởng thế là đơn giản chắc? Đây gọi là có khí độ đấy, đây chính là khí độ mà người làm việc lớn nhất thiết phải có! Những kẻ như ông với tôi đây thì không làm được việc lớn đâu.”

“Nhưng anh ta… nói thế nào nhỉ… Cứ thong dong thoải mái mãi à, còn kế hoạch Diện Bích thì sao?”

“Nói từ nãy đến giờ mà sao tôi vẫn không giảng rõ cho ông được nhỉ? Tôi đã bảo là tôi chẳng biết gì cả mà, sao ông biết được những việc người ta đang làm không phải là một phần trong kế hoạch? Nói lại lần nữa, chuyện này không phải do chúng ta phán đoán. Mà kể cả là chúng ta nghĩ đúng đi chăng nữa,” Sử Cường nhích lại gần Kent, hạ giọng xuống: “Có một số việc, cần phải từ từ mới được.”

Kent nhìn chằm chằm vào Sử Cường một lúc, cuối cùng vẫn lắc lắc đầu, không chắc mình đã hiểu được câu nói cuối cùng của gã ta: “Được rồi, tôi báo lên cấp trên, có điều có thể cho tôi xem thử cái cô người tình trong mộng kia trước được không?”

Nhìn thấy bức ảnh thiếu nữ trên màn hình, gương mặt già nua của Kent lập tức dịu lại, ông ta xoa cằm nói: “Chậc… trời ạ, tuy không tin rằng cô gái này có ở trên đời, nhưng tôi vẫn chúc các anh sớm có ngày tìm được cô ấy.”

“Đại tá, với thân phận của tôi, lại đến khảo sát về công tác chính trị tư tưởng của quân chủng các anh, có phải anh cảm thấy có chút đường đột hay không?” Tyler hỏi khi gặp Chương Bắc Hải.

“Không, ông Tyler, chuyện này đã có tiền lệ rồi, Rumsfeld[33] từng đến thăm trường Đảng của Quân ủy trung ương, lúc ấy tôi đang học ở đó.” Chương Bắc Hải nói, ở anh ta không có sự tò mò, cẩn trọng và xa cách mà Tyler thấy ở những sĩ quan Trung Quốc khác, còn tỏ ra rất chân thành, khiến cuộc trò chuyện trở nên thoải mái hơn nhiều.

[33] Donald Rumsfeld, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ thời Tổng thống Gerald Ford từ năm 1975 đến 1977 và lần nữa giữ chức này thời George W. Bush từ năm 2001 đến 2006.

“Tiếng Anh của anh giỏi thật đấy, anh xuất thân từ hải quân à?”

“Đúng vậy, tỷ lệ đến từ hải quân trong không gian quân của Mỹ còn cao hơn chúng tôi.”

“Quân chủng cổ xưa này hẳn không ngờ được, chiến thuyền của họ rồi sẽ phải xuất quân trong không gian… nói thực lòng, khi tướng Thường Vĩ Tư giới thiệu anh là cán bộ chính trị xuất sắc nhất của quân chủng, tôi đã tưởng anh đến từ lục quân, vì lục quân mới là linh hồn của các anh.”

Chương Bắc Hải rõ ràng không đồng ý với quan điểm của Tyler, nhưng anh ta chỉ nở nụ cười khoan dung rồi bỏ qua: “Các quân chủng khác nhau trong một quân đội hẳn đều có chung một linh hồn, kể cả là không gian quân mới được thành lập ở các nước, về mặt văn hóa quân sự cũng đều đã ghi sâu dấu ấn của quân đội nước mình rồi.”

“Tôi rất hứng thú với công tác chính trị tư tưởng trong quân chủng các anh, hy vọng có thể tiến hành một số khảo sát chuyên sâu.”

“Không thành vấn đề, cấp trên đã có chỉ thị, trong phạm vi công tác của tôi, sẽ không giấu giếm bất cứ điều gì với ông.”

“Cảm ơn!” Tyler thoáng do dự giây lát rồi nói, “Mục đích chuyến đi lần này của tôi là muốn có được một câu trả lời, tôi muốn được anh chỉ giáo ở đây trước.”

“Đừng khách khí, xin ông cứ nói.”

“Đại tá, anh cho rằng chúng ta có thể khôi phục được một đội quân mang tinh thần của quá khứ hay không?”

“Quá khứ mà ông nói đến ở đây là gì?”

“Về thời gian thì phạm vi rất lớn, có thể từ Hy Lạp cổ đại cho đến Chiến tranh Thế giới thứ II, mấu chốt là điểm chung về mặt tinh thần này: coi bổn phận và danh dự cao hơn hết thảy, khi cần thiết sẵn sàng hy sinh tính mạng mà không hề do dự. Hẳn là anh đã chú ý thấy điểm này, sau Chiến tranh Thế giới thứ II, dù là ở các quốc gia dân chủ hay quốc gia chuyên chế, tinh thần này đều đã biến mất khỏi quân đội rồi.”

“Quân đội đến từ xã hội, muốn thế cần toàn bộ xã hội đều khôi phục lại cái tinh thần quá khứ mà ông nói đến.”

“Về điểm này thì cách nhìn của chúng ta giống nhau.”

“Nhưng, ông Tyler, đây là điều bất khả thi.”

“Tại sao? Chúng ta có hơn bốn trăm năm, trong quá khứ, xã hội loài người đã mất khoảng thời gian dài tương đương vậy để tiến hóa từ chủ nghĩa anh hùng tập thể sang chủ nghĩa cá nhân, tại sao chúng ta không thể dùng khoảng thời gian tương tự để biến đổi trở lại?”

Nghe những lời này, Chương Bắc Hải ngẫm nghĩ trong giây lát: “Đây là một vấn đề rất sâu sắc, nhưng tôi cho rằng xã hội nhân loại nay đã thành người trưởng thành không thể nào trở lại thuở ấu thơ được nữa. Giờ nhìn lại, trong bốn trăm năm đã hình thành nên xã hội hiện đại ấy, chúng ta chưa từng có bất cứ sự chuẩn bị nào về mặt tư tưởng và văn hóa để đối mặt với thảm họa và nguy cơ như thế này.”

“Vậy niềm tin chiến thắng của anh từ đâu mà có? Theo tôi được biết, anh là một người kiên định niềm tin chiến thắng, thế nhưng hạm đội không gian đầy rẫy những người theo chủ nghĩa thất bại này làm sao có thể đối mặt với kẻ thù mạnh mẽ đây?”

“Chẳng phải ông đã nói vẫn còn hơn bốn trăm năm nữa sao, nếu chúng ta không thể đi lùi, vậy thì cứ kiên định tiến lên phía trước thôi.”

Câu trả lời của Chương Bắc Hải rất mơ hồ, nhưng bàn bạc sâu hơn nữa, Tyler cũng không tìm hiểu thêm được gì từ anh ta, chỉ có cảm giác suy nghĩ của con người này rất sâu sắc, không thể dễ dàng nhìn thấu.

Lúc ra khỏi bộ chỉ huy quân chủng không gian, Tyler đi ngang qua một người lính gác, lúc ánh mắt ông ta và người lính đó chạm nhau, đối phương hơi bẽn lẽn mỉm cười với ông ta. Điều này không thể thấy ở quân đội của các quốc gia khác, những lính gác kia đều mở mắt trừng trừng, nhìn thẳng về phía trước. Nhìn thấy gương mặt trẻ trung đó, Tyler lại thầm nhắc lại câu nói kia trong đầu: “Mẹ ơi, con sẽ biến thành đom đóm.”

Chập tối ngày hôm ấy trời đổ mưa, đây là lần đầu tiên trời mưa từ khi La Tập tới nơi này, phòng khách rất ẩm ướt và lạnh lẽo. La Tập ngồi trước lò sưởi không đốt lửa, lắng nghe tiếng mưa bên ngoài, cảm giác như thể ngôi nhà này nằm trên một hòn đảo lẻ loi giữa đại dương u ám vậy. Anh để mình chìm vào giữa sự cô độc mênh mông vô tận ấy, sau khi Sử Cường đi, lúc nào anh cũng sống trong cảm giác chờ đợi không yên, cảm tưởng như bản thân sự cô độc và chờ đợi này chính là hạnh phúc. Đúng lúc này, anh nghe thấy tiếng xe ô tô đậu trước hiên nhà, loáng thoáng có tiếng người nói chuyện, trong đó có một giọng nữ non nớt dịu dàng, nói những lời cảm ơn, tạm biệt gì đó. Âm thanh ấy khiến anh run lên, như chạm phải điện.

Hai năm trước, trong những cơn mộng giữa đêm đen và ngày dài, anh đều nghe thấy giọng nói ấy, rất mờ mịt, rất mông lung, như một dải lụa mỏng trắng tinh khiết lướt qua giữa bầu trời xanh, như giữa buổi hoàng hôn u uất có tia nắng lóe lên rồi vụt tắt.

Kế đó, tiếng gõ cửa khe khẽ vang lên, La Tập ngồi đờ ra tại chỗ, một lúc lâu sau mới cất tiếng mời vào. Cửa mở ra, một bóng hình mảnh mai lướt vào cùng mùi mưa. Trong phòng khách chỉ bật một chiếc đèn đứng, có chụp đèn lớn kiểu cổ khiến ánh đèn chỉ chiếu một vòng quanh chân đặt trước lò sưởi, còn lại cả phòng đều rất tối. La Tập không nhìn rõ gương mặt cô gái, chỉ thấy cô mặc quần trắng và áo khoác sẫm màu, cổ áo trắng muốt tương phản rõ nét với áo khoác, khiến anh lại nghĩ đến một đóa hoa bách hợp.

“Thầy giáo La, chào anh.” Cô nói.

“Chào em.” La Tập vừa nói vừa đứng lên, “Bên ngoài lạnh lắm phải không?”

“Trong xe thì không lạnh.” Tuy không nhìn rõ, nhưng La Tập có thể khẳng định cô đang cười, “Nhưng ở đây,” cô đưa mắt nhìn quanh quất, “thật tình có hơi lạnh… à, thầy giáo La, em tên là Trang Nhan.”

“Trang Nghiêm[34] à, chào em, chúng ta đốt lò sưởi lên nhé.”

[34] Trang Nghiêm và Trang Nhan trong tiếng Trung đồng âm, La Tập nghe nhầm.

La Tập ngồi xổm xuống, nhặt những thanh củi xếp ngay ngắn cho vào lò sưởi, miệng hỏi: “Trước đây em từng thấy kiểu lò sưởi âm tường này chưa? À, em lại đây ngồi đi.”

Cô bước tới, ngồi xuống ghế sô pha, nhưng vẫn ở trong bóng tối: “Ừm… Chỉ thấy trên phim thôi.”

La Tập quẹt diêm châm vào bùi nhùi bên dưới đống củi, khi ngọn lửa bắt đầu vươn lên như đang sống, cô dần dần hiện ra dưới ánh sáng dìu dịu màu vàng kim. Hai ngón tay La Tập cầm chặt que diêm đã cháy đến tận gốc, anh cần cảm giác đau đớn ấy để nhắc nhở mình không phải ở trong mộng.

Anh có cảm giác như thể mình vừa đốt lên một vầng Mặt trời, chiếu rọi thế giới trong mơ nay đã biến thành hiện thực. Vầng dương ngoài kia hãy cứ vĩnh viễn ẩn mình trong mưa và đêm đen đi, thế giới này chỉ cần có ánh lửa và cô là đã quá đủ rồi.

Đại Sử, anh đúng là ma quỷ, anh tìm được cô ấy ở đâu vậy? Tiên sư nhà anh, sao anh có thể tìm được cô ấy?

La Tập thu ánh mắt về, nhìn vào ngọn lửa, nước mắt bất giác đã tràn bờ mi, thoạt đầu, anh sợ cô trông thấy, nhưng rồi nhanh chóng nghĩ ra mình không cần phải giấu, vì có thể cô sẽ cho rằng khói bụi đã khiến anh chảy nước mắt, anh bèn giơ tay lên quệt đi.

“Ấm thật đấy, thích quá…” Cô nhìn ngọn lửa, mỉm cười.

Câu nói này và nụ cười của cô lại khiến trái tim La Tập rung động.

“Sao lại thế này?” Cô ngẩng đầu lên, đưa mắt quan sát căn phòng khách trong bóng tối.

“Nơi này không giống như trong tưởng tượng của em à?”

“Không giống ạ.”

“Nơi này không…” La Tập nhớ ra tên cô, “không đủ trang nghiêm sao?”

Cô mỉm cười với anh :“Tên em là Trang Nhan, chữ ‘nhan’ trong ‘nhan sắc’ ấy.”

“Ô, anh biết rồi… Có phải em cảm thấy ở đây lẽ ra phải có rất nhiều bản đồ và màn hình lớn, có cả một đám tướng tá nai nịt súng ống, còn anh thì cầm một cây gậy dài chỉ chỉ trỏ trỏ không?”

“Đúng là vậy ạ, thầy giáo La.” Nụ cười mỉm của cô nhoẻn rộng thành một nét cười vui vẻ, như thể một đóa hồng nở rộ.

La Tập đứng lên: “Em đi đường mệt lắm rồi phải không, uống chút trà nhé,” Anh hơi do dự, “hay là, uống ly rượu vang nhé? Cho đỡ lạnh.”

“Vâng ạ.” Cô gật đầu. Lúc nhận lấy chiếc ly chân cao, cô khẽ cảm ơn, rồi nhấp một ngụm nhỏ.

Bộ dạng nâng ly rượu đầy vẻ ngây thơ của cô đã chạm đến phần mềm yếu nhất trong tim La Tập. Bảo cô uống, cô bèn uống luôn, cô tin vào thế giới này, hoàn toàn không cảnh giác gì với nó. Đúng thế, cả thế giới này, đâu đâu cũng ẩn giấu những thứ có thể gây tổn thương cho cô, chỉ có ở đây là không, cô cần sự che chở của nơi này, đây chính là thành trì của cô.

La Tập ngồi xuống, ngắm nhìn Trang Nhan, cố hết sức làm ra vẻ thong dong: “Trước khi tới đây, họ đã nói gì với em?"

“Tất nhiên là bảo em đến đây làm việc rồi.” Cô lại lần nữa bộc lộ sự ngây thơ khiến trái tim anh tan nát, “Thầy giáo La, công việc của em là gì ạ?”

“Em học ngành gì?”

“Ngành quốc họa[35], ở Học viện mỹ thuật trung ương ạ.”

[35] Tức tranh thủy mặc.

“Ồ, tốt nghiệp rồi hả?”

“Vâng, mới tốt nghiệp, vừa thi nghiên cứu sinh vừa tìm việc ạ.”

La Tập ngẫm nghĩ một lúc lâu, thực sự không nghĩ ra cô có thể làm gì ở đây. “Ừm… Chuyện công việc, ngày mai chúng ta bàn đi, chắc chắn em mệt rồi, hãy cứ nghỉ ngơi cho thoải mái đã… Có thích nơi này không?”

“Em không biết, lúc từ sân bay đến thì sương mù rất lớn, sau đấy thì trời lại tối rồi. Chẳng thấy gì cả… Thầy giáo La, đây là đâu vậy?”

“Anh cũng không biết.”

Cô gật đầu, cười thầm một mình, rõ ràng là không tin lời La Tập.

“Anh thật sự không biết đây là nơi nào, địa mạo có vẻ giống Bắc Âu, anh có thể gọi điện hỏi ngay bây giờ.” La Tập vừa nói vừa vươn tay ra điện thoại đặt cạnh ghế sô pha.

“Không, không, thầy giáo La, không biết cũng tốt mà.” Tại sao?

“Một khi biết mình ở đâu, thế giới liền trở nên nhỏ bé hẳn mất rồi.”

Trời ơi, La Tập thầm thốt lên trong tâm trí.

Cô đột nhiên có một phát hiện bất ngờ, nói như một đứa trẻ: “Thầy giáo La, ở trong ánh lửa, rượu này trông đẹp thật.”

Rượu vang nhìn qua ánh lửa, hiện lên một thứ sắc đỏ sậm long lanh chỉ có ở trong cảnh mộng.

“Em cảm thấy nó giống thứ gì?” La Tập căng thẳng hỏi.

“Ừm… em nghĩ là giống đôi mắt.”

“Đôi mắt của ráng chiều?”

“Đôi mắt của ráng chiều, thầy giáo La, anh nói hay quá!”

“Giữa ban mai và ráng chiều, em thích ráng chiều hơn phải không?”

“Vâng ạ, sao anh biết? Em thích nhất là vẽ cảnh ráng chiều đấy.” Trang Nhan nói, trong ánh lửa, đôi mắt cô trong veo, tựa hồ như đang nói: thế thì có gì sai chứ?

Sáng sớm hôm sau, nắng sớm sau mưa, trong cảm giác của La Tập, tựa hồ như Thượng Đế đã tẩy rửa khắp khu vườn Địa Đàng này một lượt để đón Trang Nhan đến đây. Khi lần đầu tiên Trang Nhan thấy cảnh sắc thực sự của nơi đây, La Tập không nghe cô trầm trồ kinh ngạc và ngợi ca như những cô gái thông thường. Đứng trước cảnh sắc tráng lệ này, cô rơi vào một trạng thái kính sợ và nín thở, từ đầu chí cuối đều không thể nói ra câu khen ngợi nào. La Tập nhận ra, đối với vẻ đẹp của thiên nhiên, rõ ràng là cô nhạy cảm hơn những cô gái khác rất nhiều.

“Từ đầu em đã thích vẽ tranh rồi à?” La Tập hỏi.

Trang Nhan ngây người nhìn chăm chăm vào rặng núi tuyết phía xa, hồi lâu sau mới định thần lại: “À, vâng ạ, có điều, nếu em lớn lên ở nơi này, có lẽ em sẽ không thích vẽ nữa.”

“Tại sao?”

“Em từng tưởng tượng ra rất nhiều nơi đẹp đẽ, vẽ ra xong thì có cảm giác như đã từng đến đó vậy, nhưng ở đây, những gì em tưởng tượng, em mơ mộng, đều đã có cả rồi, còn vẽ gì nữa chứ?”

“Đúng thế, một khi tìm được giữa hiện thực những thứ đẹp đẽ trong tưởng tượng của mình, cảm giác đó thật là…” La Tập nói, anh liếc mắt nhìn Trang Nhan giữa ánh nắng ban mai, cô tựa như một thiên sứ bước ra từ giấc mộng của anh, cảm giác hạnh phúc cuộn dâng lên trong lòng giống những gợn sóng lăn tăn trải rộng trên mặt hồ kia. Liên Hiệp Quốc, PDC, các người không thể ngờ được kế hoạch Diện Bích lại có kết quả này đâu, giờ tôi có chết ngay cũng chẳng vấn đề gì nữa rồi.

“Thầy giáo La, tối qua trời mưa nhiều thế, sao tuyết trên núi tuyết không bị xối đi nhỉ?” Trang Nhan hỏi.

“Mưa chỉ ở dưới đường rãnh tuyết thôi, trên núi đó tuyết đọng quanh năm. Khí hậu ở đây khác chỗ chúng ta ở rất nhiều."

“Anh đã lên núi tuyết đó bao giờ chưa?”

“Chưa, anh đến đây cũng chưa lâu lắm.” La Tập để ý thấy, đôi mắt cô gái nãy giờ vẫn không rời khỏi rặng núi, “Em thích núi tuyết hả?”

“Vâng.” Cô gật mạnh đầu.

“Vậy chúng ta đi.”

“Thật sao ạ? Bao giờ?” Cô kinh ngạc reo vui.

“Ngay bây giờ có thể đi luôn, có một con đường nhỏ chạy tới chân núi, bây giờ đi thì đến tối là về nhà được rồi.”

“Nhưng còn công việc ?” Ánh mắt Trang Nhan rời khỏi rặng núi tuyết, nhìn sang phía La Tập.

“Công việc để sau đi, em vừa mới đến.” La Tập lấp liếm.

“Vậy…” Trang Nhan hơi nghiêng đầu, khiến trái tim La Tập rung lên một chặp. Trước đây, anh đã thấy cái điệu bộ ngây thơ và ánh mắt ấy ở “cô” không biết bao nhiêu lần rồi. “Thầy giáo La, em dẫu sao cũng cần biết công việc của mình là gì chứ ạ?”

La Tập nhìn về phía xa xăm, ngẫm nghĩ vài giây, rồi nói bằng giọng kiên quyết: “Đến chỗ núi tuyết rồi anh sẽ nói với em!”

“Được ạ! Vậy chúng ta đi nhanh lên, được không ạ?”

“Ừ, từ đây ngồi thuyền sang bờ hồ bên kia, rồi lái xe đi thì tiện hơn.”

Họ đi bộ tới cuối cầu tàu, La Tập nói gió đang thuận, có thể đi thuyền buồm, đến tối gió đổi hướng, vừa hay có thể trở về. Anh kéo tay Trang Nhan, đỡ cô lên một chiếc thuyền buồm nhỏ. Đây là lần đầu tiên anh tiếp xúc với cô, bàn tay cô giống hệt như đôi bàn tay mà anh nắm lấy lần đầu tiên vào cái đêm đông trong tưởng tượng ấy, cảm giác mềm mại, mát lạnh.

Trang Nhan kinh ngạc quan sát La Tập kéo cánh buồm thể thao hình cong trắng muốt ấy lên, khi con thuyền rời khỏi cầu tàu, cô thò tay xuống nước.

“Nước hồ này lạnh lắm.” La Tập nói.

“Nhưng nước này trong quá là trong ấy!”

Giống đôi mắt em, La Tập thầm nhủ, “Tại sao em thích núi tuyết thế?”

“Em thích tranh thủy mặc mà.”

“Tranh thủy mặc và núi tuyết thì liên quan gì đến nhau?”

“Thầy giáo La, anh có biết tranh thủy mặc và tranh sơn dầu khác nhau thế nào không? Tranh sơn dầu dùng các màu sắc nồng đậm dày đặc, có một họa sĩ lớn từng nói, trong tranh sơn dầu, màu trắng quý như vàng vậy; nhưng tranh thủy mặc thì khác, trong tranh có rất nhiều rất nhiều khoảng trắng, những khoảng trắng ấy mới là linh hồn của bức tranh, còn phong cảnh trong tranh chẳng qua chỉ là cái khung cho những khoảng trắng ấy thôi. Anh nhìn ngọn núi tuyết kia mà xem, có giống như những khoảng trắng trong tranh thủy mặc không…”

Đây là đoạn thoại dài nhất cô nói kể từ lúc gặp La Tập, cô cứ thao thao bất tuyệt giảng bài cho Người Diện Bích, coi anh như một đứa học sinh ngốc nghếch, hoàn toàn không hề có cảm giác mình đang thất lễ.

Em cũng giống như khoảng trắng trong tranh thủy mặc, đối với một người thưởng tranh lão luyện, đó là phần tinh khiết nhưng lại đẹp vô cùng.

La Tập nhìn Trang Nhan, thầm nghĩ.

Con thuyền đậu vào cầu tàu bên bờ hồ đối diện, một chiếc xe Jeep không mui đậu ở bìa rừng ven hồ, người lái xe đến đó đã rời đi.

“Đây là xe quân dụng phải không ạ? Lúc đến đây em thấy xung quanh có quân lính, phải đi qua ba trạm gác đấy.” Trang Nhan nói lúc ngồi lên xe.

“Không sao, họ sẽ không làm phiền chúng ta đâu.” La Tập vừa nói vừa khởi động xe.

Đó là một con đường nhỏ thô sơ chạy xuyên rừng, nhưng xe chạy rất êm, sương mù buổi sớm chưa tan hết làm những tia nắng chiếu qua rừng thông cao lớn thêm lấp lánh, giữa tiếng động cơ xe cũng vẫn nghe thấy lũ chim hót ríu ran. Cơn gió mát lành thổi bay mái tóc dài của Trang Nhan, từng sợi từng sợi lướt qua trên mặt anh, trong cảm giác ngưa ngứa, anh lại nhớ đến chuyến du lịch ngày đông từ hai năm về trước.

Mọi thứ xung quanh lúc này và cảnh tượng vùng đồng bằng Hoa Bắc cùng dãy núi Thái Hàng sau trận tuyết mùa đông lúc đó đã tựa như hai kiếp người, song mộng tưởng thuở ấy và hiện thực lúc này nối tiếp liền mạch không kẽ hở, La Tập đến giờ vẫn không tin nổi sự việc này lại xảy ra với mình.

La Tập ngoảnh đầu lại nhìn Trang Nhan, nhận ra cô cũng đang nhìn mình, chẳng những vậy, còn có vẻ như cô đã nhìn anh rất lâu rồi, ánh mắt ấy thoáng có vẻ tò mò, nhưng nhiều hơn cả là sự thiện lương thuần khiết.

Những tia sáng trong rừng loang loáng lướt qua mặt và bên cạnh cô, thấy La Tập đang nhìn mình, ánh mắt cô cũng không hề né tránh.

“Thầy giáo La, anh thật sự có khả năng chiến thắng người ngoài hành tinh hả?” Trang Nhan hỏi.

La Tập đã bị bộ dạng ngây thơ ấy của cô hoàn toàn chinh phục, đây là câu hỏi mà ngoài cô ra, không một người nào khác có thể đặt ra với một Người Diện Bích, chưa kể họ mới quen nhau trong khoảng thời gian vô cùng ngắn ngủi.

“Trang Nhan, ý nghĩa cốt lõi của kế hoạch Diện Bích nằm ở chỗ đem ý đồ chiến lược thực sự của loài người niêm phong trọn vẹn trong tư duy của một cá nhân, đây là nơi duy nhất trong thế giới của loài người mà Hạt trí tuệ không thể nhìn vào. Vì vậy, dù thế nào cũng phải chọn ra mấy người làm việc đó, nhưng điều này không có nghĩa bọn họ là siêu nhân, trên thế gian này không có siêu nhân.”

“Thế tại sao lại chọn anh?”

Câu hỏi này lại càng đường đột, càng quá đáng hơn câu trước, nhưng từ miệng Trang Nhan nói ra lại hết sức tự nhiên, trong trái tim thuần khiết của cô, mỗi tia nắng mặt trời đều óng ánh xuyên qua và khúc xạ theo một góc khác.

La Tập chầm chậm dừng xe lại, Trang Nhan tò mò nhìn anh, còn anh lại nhìn con đường lấp lóa ánh nắng phía trước.

“Người Diện Bích là những kẻ không đáng tin nhất từ thuở hồng hoang đến hiện tại, là những kẻ lừa đảo đầu sỏ.”

“Đây là trách nhiệm của Người Diện Bích mà.”

La Tập gật đầu, “Nhưng, Trang Nhan à, những lời sau đây anh nói với em là sự thật, mong em hãy tin anh.”

Trang Nhan gật đầu, “Thầy giáo La, anh nói đi ạ, em tin anh.”

La Tập trầm mặc một lúc lâu, như để gia tăng sức nặng cho những lời mình sắp nói ra: “Anh không biết tại sao họ lại chọn anh,” anh quay sang nhìn Trang Nhan, “anh là một người bình thường.”

Trang Nhan lại gật đầu, “Vậy nhất định là khó khăn lắm phải không?”

Câu nói này và nét mặt ngây thơ thánh thiện của Trang Nhan khiến khóe mắt La Tập lại ươn ướt. Từ khi trở thành Người Diện Bích, đây là lần đầu tiên anh được người khác hỏi han như vậy, đôi mắt của cô gái này chính là thiên đường của anh, trong đôi mắt trong veo ấy, hoàn toàn không có ánh mắt giống như những người khác khi nhìn Người Diện Bích; nụ cười của cô cũng là thiên đường của anh, đó không phải là nụ cười với Người Diện Bích, nụ cười thuần khiết, chân thành ấy giống như giọt sương sớm được ánh ban mai chiếu vào, nhè nhẹ rỏ xuống nơi khô cạn nhất trong tâm hồn anh.

“Có lẽ là rất khó, nhưng anh muốn làm cho dễ dàng một chút… Vậy thôi, lời thật lòng đến đây kết thúc, trở lại trạng thái Người Diện Bích.” La Tập nói xong, lại khởi động xe.

Sau đó, họ im lặng suốt cả quãng đường, cho tới khi rừng cây dần trở nên thưa thớt, bầu trời xanh thăm thẳm lộ ra.

“Thầy giáo La, nhìn con chim ưng trên trời kìa!” Trang Nhan reo lên.

“Bên kia hình như còn có cả một con hươu nữa!” La Tập chỉ về một mé khác phía trước, sở dĩ anh nhanh chóng đánh lạc hướng Trang Nhan đi như vậy, là bởi anh biết thứ xuất hiện trên bầu trời kia không phải chim ưng, mà là máy bay bảo vệ không người lái. Điều này đồng thời cũng khiến La Tập nhớ đến Sử Cường, anh lấy điện thoại di động ra, bấm số gã.

Trong điện thoại vang lên giọng Sử Cường: “Ồ, chú em, giờ mới nhớ đến tôi hả? Thế nào, Nhan Nhan vẫn ổn chứ?”

“Ổn, rất ổn, quá ổn ấy chứ, cám ơn anh!”

“Vậy thì tốt, coi như tôi đã hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng rồi.”

“Cuối cùng? Anh đang ở đâu?”

“Ở Trung Quốc, chuẩn bị ngủ một giấc dài rồi.”

“Gì hả?”

“Tôi bị ung thư máu, giờ đến tương lai chữa trị.”

La Tập phanh xe đánh két, lần này anh dừng xe rất đột ngột, khiến Trang Nhan kinh hãi kêu lên một tiếng khe khẽ, La Tập lo lắng đưa mắt nhìn cô, thấy không có vấn đề gì mới tiếp tục nói chuyện với Sử Cường.

“Chuyện này… từ lúc nào vậy?”

“Lâu rồi, lúc thi hành nhiệm vụ bị nhiễm phóng xạ, năm ngoái mới phát bệnh.”

“Trời đất! Tôi có làm chậm trễ việc của anh không?”

“Chuyện này thì có gì mà chậm trễ với chẳng không, ai biết được y học trong tương lai sẽ như thế nào chứ?”

“Thật sự xin lỗi anh, Đại Sử.”

“Có gì đâu, công việc mà. Tôi không tới làm phiền cậu nữa, là vì nghĩ sau này chúng ta vẫn còn cơ hội gặp lại nhau, có điều nếu chẳng may không gặp được nữa, tôi có câu này muốn nói với cậu.”

“Anh nói đi.”

Sử Cường im lặng một hồi lâu, mới nói: “Trong ba điều bất hiếu, không có con cái là lớn nhất, người anh em, sự kế tục của nhà họ Sử chúng tôi hơn bốn trăm năm sau, đều nhờ cậu cả đấy.”

Bên kia đã gác máy, La Tập ngước nhìn bầu trời, chiếc máy bay không người lái kia đã biến mất, bầu trời xanh như vừa được rửa sạch hoàn toàn trống trải, hệt như tâm trí anh lúc này.

“Thầy giáo La, anh gọi điện cho chú Sử Cường ạ?” Trang Nhan hỏi.

“Ừ, em gặp anh ta rồi à?”

“Gặp rồi ạ, chú ấy là người tốt, hôm em đi, chú ấy bất cẩn làm đứt tay, máu cứ chảy không ngừng, sợ chết khiếp đi được.”

“Ồ… anh ta có nói gì với em không?”

“Chú ấy bảo thầy giáo La đang làm công việc quan trọng nhất thế giới, bảo em phải giúp anh.”

Lúc này, rừng cây đã hoàn toàn biến mất, phía trước núi tuyết chỉ còn lại thảo nguyên, chỉ có hai sắc màu trắng bạc và xanh mướt, kết cấu thế giới trở nên giản đơn và thuần khiết hơn bội phần. Trong cảm giác của La Tập, cảnh sắc thiên nhiên trước mặt anh đang trở nên càng lúc càng giống thiếu nữ bên cạnh. Anh để ý thấy, lúc này trong đôi mắt Trang Nhan thấp thoáng một tia u uất, thậm chí còn phát hiện cô buông tiếng thở dài khe khẽ.

“Nhan Nhan, sao vậy?” La Tập hỏi, đây là lần đầu tiên anh gọi cô như vậy, lòng thầm nhủ Đại Sử có thể gọi cô như vậy thì mình cũng gọi được.

“Nghĩ thử mà xem, thế giới đẹp đẽ nhường này. Nhiều năm sau nữa, có thể sẽ chẳng ai ngắm nhìn nó nữa, thật đáng buồn biết mấy.”

“Người ngoài hành tinh không phải là người sao?”

“Em cảm thấy, họ không cảm nhận được cái đẹp.”

“Tại sao?”

“Bố em từng nói, những người nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, về bản chất đều là người lương thiện, bọn họ không lương thiện, vì vậy họ không thể cảm nhận được vẻ đẹp.”

“Nhan Nhan, chính sách của họ đối với loài người là một lựa chọn lý trí, là một cách làm có trách nhiệm đối với sự sinh tồn của giống loài mình, không liên quan gì đến lương thiện hay tà ác cả.”

“Lần đầu tiên em nghe thấy có người nói như vậy đấy… thầy giáo La, sau này anh sẽ gặp họ, đúng không?”

“Có lẽ.”

“Nếu họ thực sự giống như anh nói, mà trong cuộc chiến tận thế ấy, mọi người lại đánh bại được họ, ưm, vậy mọi người có thể…” Trang Nhan nghiêng đầu nhìn La Tập, do dự.

La Tập muốn nói, khả năng để chuyện thứ hai ấy xảy ra gần như là bằng không, nhưng lại không nỡ nói ra: “Có thể làm sao?”

“Liệu có thể không đuổi bọn họ ra ngoài vũ trụ hay không, như thế họ sẽ chết hết mất, hãy cho họ một vùng đất, để họ và chúng ta sống chung với nhau, như vậy thì tốt biết bao nhiêu.”

La Tập cảm khái im lặng một lúc lâu, rồi mới chỉ tay lên bầu trời nói: “Nhan Nhan, những lời em vừa nói không chỉ có mình anh nghe thôi đâu.”

Trang Nhan cũng căng thẳng ngước lên nhìn bầu không: “À… đúng rồi, xung quanh chúng ta nhất định là có rất nhiều Hạt trí tuệ đang bay lượn!”

“Cũng có khả năng, kẻ lúc này đang nghe em nói chuyện chính là vị nắm quyền tối cao của nền văn minh Tam Thể.”

“Bọn họ sẽ cười nhạo em phải không?”

“Không, Nhan Nhan, em có biết giờ anh đang nghĩ gì không?” Lúc này, trong lòng La Tập chợt dâng lên một ham muốn mãnh liệt muốn nắm lấy tay cô, bàn tay trái thon thả của cô ở ngay bên cạnh vô lăng, nhưng anh vẫn gắng kiềm chế bản thân, “Anh đang nghĩ, thực ra, người thực sự có thể cứu thế giới này, chính là em.”

“Em hả?” Trang Nhan bật cười.

“Là em, chỉ tiếc là em quá ít, à, anh muốn nói là người như em quá ít, nếu một phần ba loài người đều giống như em, văn minh Tam Thể thực sự có thể đàm phán với chúng ta về khả năng cùng sống chung trong một thế giới, nhưng hiện tại…” Anh cũng thở dài một tiếng.

Trang Nhan nở nụ cười gượng gạo: “Thầy giáo La, em cũng khó khăn lắm, mọi người đều nói tốt nghiệp xong là bước ra ngoài xã hội, giống như cá bơi ra biển lớn, nhưng biển lớn nước đục ngầu, em không nhìn thấy gì cả, chỉ muốn bơi đến một vùng biển nước trong, bơi đến mệt nhoài…”

Mong rằng anh có thể giúp em bơi đến vùng biển đó… La Tập thầm nhủ trong lòng.

Con đường bắt đầu chạy lên núi, theo độ cao tăng dần, thảm thực vật dần trở nên thưa thớt, xuất hiện những khối nham thạch đen trần trụi, có một đoạn đường, thậm chí họ còn có cảm giác như thể đang chạy xe trên bề mặt Mặt trăng. Nhưng chỉ thoáng sau, chiếc xe đã chạy qua đường rãnh tuyết, xung quanh liền chuyển sang màu trắng tinh khiết, không khí cũng ngập tràn hơi lạnh. La Tập lấy áo lông vũ trong túi du lịch để ở ghế sau ra, hai người mặc vào rồi tiếp tục tiến về phía trước. Đi không được bao xa thì gặp phải barie chắn ngang, chính giữa con đường có một tấm biển báo nổi bật với hàng chữ cảnh cáo: Mùa này có tuyết lở rất nguy hiểm, đường phía trước bị chặn. Họ bèn xuống xe, lội ra giữa bãi tuyết trắng ở ven đường.

Lúc này, vầng dương đã ngả về Tây, con dốc phủ tuyết quanh họ nằm trong chỗ bóng râm, những đụn tuyết sạch bong ánh lên một thứ sắc lam nhàn nhạt, tựa hồ như đang phát ra ánh sáng huỳnh quang yếu ớt, còn đỉnh núi tuyết dựng đứng trông nhọn hoắt như mũi dao phía xa xa kia thì vẫn tắm ánh mặt trời, đang tỏa ánh sáng bàng bạc đi khắp bốn phương tám hướng, những tia sáng như chỉ thuần do bản thân tuyết trắng tỏa ra, cứ như thể chiếu sáng thế giới này chưa bao giờ là Mặt trời, mà chỉ có ngọn núi tuyết đó thôi.

“Được rồi, giờ bức tranh toàn là khoảng trắng rồi nhé.” La Tập dang rộng hai cánh tay, xoay một vòng rồi nói.

Trang Nhan hân hoan ngắm nhìn thế giới trắng tinh khiết xung quanh: “Thầy giáo La, đúng là em đã từng vẽ một bức tranh như vậy! Nhìn xa thì chỉ như một tờ giấy trắng, cả bức tranh gần như toàn là khoảng trắng, nhìn gần mới phát hiện ở góc dưới bên trái có mấy khóm lau sậy nhỏ xíu, góc trên bên phải có một cánh chim cơ hồ sắp biến mất, chính giữa khoảng trắng, có hai người nhỏ đến mức không thể nào nhỏ hơn nữa… đó là tác phẩm mà em đắc ý nhất.”

“Có thể tưởng tượng được, bức tranh đó nhất định là rất đẹp… thế… Trang Nhan này, ở giữa thế giới trống trải này, em có hứng thú muốn biết công việc của mình là gì không?”

Trang Nhan gật đầu, bộ dạng rất căng thẳng.

“Em đã biết kế hoạch Diện Bích là gì rồi đấy, kế hoạch muốn thành công phải nhờ vào tính chất không thể lý giải nổi, mà cảnh giới cao nhất của kế hoạch Diện Bích chính là ngoài bản thân Người Diện Bích ra, cả Trái đất và thế giới Tam Thể không ai có thể hiểu nổi nó. Vì vậy, Trang Nhan này, dù công việc của em có khó tin thế nào, chắc chắn nó cũng có ý nghĩa nào đấy, đừng cố tìm cách hiểu làm gì, cứ cố gắng mà làm là được rồi.”

Trang Nhan căng thẳng gật đầu: “Vâng, em hiểu rồi ạ,” cô lại mỉm cười lắc đầu, “à không, không, ý em là em biết rồi ạ.”

La Tập nhìn Trang Nhan giữa cảnh tuyết trắng mênh mang, giữa không gian tuyết trắng thuần khiết cơ hồ như mất đi cảm giác ba chiều này, thế giới dường như đã vì cô mà ẩn mặt, cô là tồn tại duy nhất. Hai năm trước, khi hình tượng văn học mà anh tạo ra trong tưởng tượng vừa sống dậy, La Tập đã được nếm trải tình yêu; còn giờ đây, ở giữa khoảng trắng của bức tranh vẽ nên bởi thiên nhiên vĩ đại, anh đã hiểu được điều huyền bí tối thượng của tình yêu.

“Trang Nhan, công việc của em chính là: khiến cho bản thân mình được vui vẻ hạnh phúc.”

Trang Nhan mở tròn đôi mắt.

“Em trở thành người con gái hạnh phúc nhất, vui vẻ nhất thế giới này, đó chính là một phần trong kế hoạch Diện Bích.”

Đôi mắt Trang Nhan ánh lên những tia sáng chiếu rọi thế giới giống như tỏa ra từ đỉnh núi tuyết kia, trong ánh mắt thuần khiết của cô, vô số xúc cảm phức tạp lướt qua như áng mây trôi trên bầu trời. Núi tuyết đã hấp thu hết mọi âm thanh đến từ thế giới bên ngoài, La Tập kiên nhẫn chờ đợi trong tĩnh lặng, rốt cuộc, Trang Nhan cất tiếng hỏi, giọng nói như thể vẳng đến từ nơi nào xa xôi lắm: “Thế… em cần phải làm gì ạ?”

La Tập tỏ ra rất hưng phấn: “Em muốn làm gì cũng được! Ngày mai, hoặc là tối nay sau khi chúng ta trở về, em có thể đi nơi nào mà em muốn đi, làm điều mà em muốn làm, sống như ý nguyện của mình, là một Người Diện Bích, anh sẽ dốc hết khả năng của mình để giúp em thực hiện mọi điều ấy.”

“Nhưng em…” Cô gái nhìn La Tập, có vẻ rất bất lực, “Thầy giáo La, em… em không cần gì cả ạ.”

“Sao lại thế? Ai mà chẳng cần điều gì đó! Chẳng phải các chàng trai các cô gái đều dốc sức theo đuổi điều gì đó hay sao?”

“Em… em đã từng theo đuổi thứ gì chưa?” Trang Nhan chầm chậm lắc đầu, “Hình như là chưa.”

“Phải rồi, em là một cô gái coi mọi thứ chỉ như gió thoảng mây trôi, nhưng dẫu sao cũng phải ôm mộng gì đó chứ, ví dụ, em thích vẽ tranh, chẳng lẽ không muốn tổ chức triển lãm cá nhân ở gallery hay bảo tàng mỹ thuật lớn nhất thế giới sao?”

Trang Nhan bật cười, dường như La Tập đã biến thành một chú nhóc ngốc nghếch rồi vậy, “Thầy giáo La, em vẽ tranh là để cho bản thân xem, chưa từng nghĩ đến những điều anh vừa nói.”

“Được rồi, vậy ít nhất em cũng mơ tưởng về tình yêu rồi chứ?” La Tập không chút do dự nói ra những lời này, “Giờ em đã có điều kiện, có thể đi tìm kiếm nó.”

Vầng tịch dương thu lại ánh sáng trên đỉnh núi tuyết, đôi mắt Trang Nhan hơi tối đi một chút, ánh mắt cũng trở nên dịu dàng, cô khẽ nói: “Thầy giáo La, thứ đó có thể tìm được ư?”

“Vậy cũng phải.” La Tập bình tĩnh trở lại, khẽ gật đầu, “Thế thì, chúng ta làm thế này nhé: không tính toán xa xôi, chỉ nghĩ đến ngày mai thôi, ngày mai ấy, em hiểu không? Ngày mai em muốn đi đâu, làm gì? Ngày mai cần phải như thế nào em mới thấy vui vẻ? Điều này thì thế nào cũng nghĩ ra được chứ.”

Trang Nhan nghiêm túc ngẫm nghĩ một lúc rất lâu, rốt cuộc cũng dè dặt hỏi: “Em mà nói ra, thực sự có thể thực hiện hay sao?”

“Chắc chắn là được, em nói đi.”

“Thế thì, thầy giáo La, anh có thể dẫn em đến bảo tàng Louvre được không?”

Lúc tấm khăn vải che trên mắt Tyler được gỡ xuống, không hề thấy ánh sáng đột ngột nào khiến ông ta phải nheo mắt, chỗ này vốn dĩ rất tối tăm, kỳ thực cho dù có đèn sáng mấy chăng nữa, ở đây vẫn cứ tối, vì ánh sáng sẽ bị vách đá hấp thu hết. Nơi này là một hang núi. Tyler ngửi thấy mùi thuốc, đồng thời quan sát thấy hang núi này được sắp xếp giống như một bệnh viện dã chiến, có rất nhiều hộp bằng hợp kim nhôm đã mở sẵn, bên trong đầy các loại thuốc men được sắp xếp gọn gàng; còn có cả bình dưỡng khí, tủ tiệt trùng bằng tia tử ngoại cỡ nhỏ và một đèn phẫu thuật xách tay, cùng với vài thiết bị y tế trông như máy chụp X quang, và máy tạo nhịp tim loại tiện di chuyển. Tất cả mọi thứ đều giống như vừa mới dỡ ra khỏi thùng, mà cũng đồng thời sẵn sàng đóng thùng mang đi bất cứ lúc nào. Tyler còn trông thấy trên vách đá có treo hai khẩu súng trường tự động, nhưng màu sắc lẫn vào vách đá phía sau, không dễ gì mà nhận ra được. Có một người đàn ông và một phụ nữ mặt mũi hờ hững không chút cảm xúc nào đi lướt qua bên cạnh ông ta, bọn họ không mặc áo blouse, nhưng dám chắc chính là bác sĩ và y tá.

Giường bệnh ở sâu bên trong hang núi, toàn bộ đều trắng toát: tấm màn phía sau, tấm chăn phủ lên người lão già nằm trên giường, bộ râu dài của lão già, khăn quấn đầu ông ta, thậm chí là cả gương mặt ông ta, tất cả đều màu trắng, ánh đèn phía trong đó trông như ánh nến, làm ẩn bớt đi một phần sắc trắng ấy, phần còn lại thì bị tô lên quầng sáng vàng yếu ớt, khiến cho cảnh tượng này thoạt trông như một bức tranh sơn dầu cổ điển vẽ chân dung các thánh vậy.

Tyler thầm rủa chính mình, chết tiệt thật, sao mày có thể nghĩ kiểu ấy chứ!

Ông ta đi về phía giường bệnh, gắng sức kìm nén cảm giác đau đớn ở xương hông và mé trong đùi, bắt nhịp bước phải ổn định, mạnh mẽ một cách tôn nghiêm. Ông ta dừng lại trước giường, đứng trước mặt con người mà bao năm nay ông ta và chính phủ của mình ngày đêm mơ tưởng tìm thấy, trong lòng không khỏi dâng lên cảm giác không dám tin đây là sự thực. Ông ta nhìn gương mặt nhợt nhạt của lão già, quả nhiên giống như truyền thông vẫn nói, đây là gương mặt thân thiện nhất thế giới.

Con người thực sự là một thứ kỳ quặc.

“Rất hân hạnh được gặp ông.” Tyler khẽ khom người nói.

“Tôi cũng rất hân hạnh.” Lão già lịch thiệp đáp, không nhúc nhích, giọng ông ta mảnh như sợi tơ, nhưng cũng bền chắc chẳng kém gì tơ nhện, khó lòng bị cắt đứt. Lão già chỉ vào mép giường dưới chân mình, Tyler cẩn thận ngồi xuống đó, ông ta không biết đây có phải là một hành động biểu thị sự thân tình hay không, vì cạnh giường quả thực cũng không có cái ghế nào.

Lão già nói: “Đi đường mệt nhọc rồi, lần đầu tiên ông cưỡi la hả?”

“Ô, không, hồi trước đi du lịch ở đại vực Grand Canyon tôi đã cưỡi la một lần rồi.” Tyler nói, nhưng lần đó chân ông ta không bị cọ xát đau như lần này, “Ông vẫn khỏe đấy chứ?”

Lão già chầm chậm lắc đầu, “Hẳn ông cũng nhìn ra rồi, tôi không sống được bao lâu nữa.” Đôi mắt thâm trầm của ông ta đột nhiên ánh lên vẻ ranh mãnh, “Tôi biết ông là một trong những người không mong tôi chết vì bệnh tật nhất trên thế giới này, thật sự rất lấy làm xin lỗi.”

Ý châm biếm trong câu nói sau cùng làm Tyler nhói đau, nhưng điều đó đúng là sự thực. Trước đây, điều mà Tyler sợ nhất chính là người này chết bệnh hoặc chết già. Ngài Bộ trưởng quốc phòng từng cầu nguyện không chỉ một lần rằng, hãy cho tên lửa hành trình hoặc đạn của lực lượng đặc biệt Mỹ bắn trúng người này trước khi ông ta chết một cách tự nhiên, cho dù chỉ trước một phút thôi cũng được! Chết một cách tự nhiên là thắng lợi cuối cùng của lão già này, cũng là thất bại nặng nề của cuộc chiến chống khủng bố, giờ phút này đây, lão già đang đến gần khoảnh khắc huy hoàng đó. Kỳ thực, trước đây cũng không phải là không có cơ hội, một lần, một chiếc máy bay không người lái Predator đã chụp được ảnh lão trong sân một nhà thờ Hồi giáo khuất nẻo giữa vùng núi phía Bắc Afghanistan, chỉ cần điều khiển máy bay đâm thẳng vào là có thể làm nên lịch sử, huống hồ trên máy bay không người lái lúc đó còn mang theo một quả tên lửa Hellfire, nhưng sau khi xác nhận được thân phận của mục tiêu, viên sĩ quan trực ban trẻ tuổi lại không dám tự tiện quyết định, đành phải xin chỉ thị cấp trên, lúc quay lại thì mục tiêu đã biến mất từ đời nào rồi. Lúc bấy giờ, Tyler đang ngủ trên giường bị gọi dậy đã đùng đùng nổi giận, gào thét đập vỡ nát hết cả đống đồ sứ Trung Hoa quý giá bày trong nhà…

Tyler muốn chuyển khỏi chủ đề gượng gạo này, bèn đặt chiếc va li mang theo bên người lên mép giường, “Tôi mang cho ông một món quà nhỏ,” ông ta mở va li, lấy ra một bộ sách bìa cứng, “đây là bản tiếng Ả Rập mới nhất.”

Lão già vươn cánh tay gầy guộc như cành củi khô, gắng sức rút ra tập sách ở dưới cùng: “Ồ, tôi mới chỉ xem ba tập đầu, hồi đó đã nhờ người mua những tập sau rồi, nhưng chẳng lấy đâu ra thời gian đọc, về sau thì đánh mất… đẹp thật đấy, ừm, cám ơn ông, tôi thích lắm.”

“Có truyền thuyết nói rằng ông đặt tên cho tổ chức của mình theo bộ tiểu thuyết này?”

Lão già nhẹ nhàng đặt cuốn sách xuống, khẽ mỉm cười: “Truyền thuyết thì hãy để nó mãi mãi là truyền thuyết đi, các ông có tiền của và khoa học kỹ thuật, chúng tôi thì chỉ có truyền thuyết thôi.”

Tyler cầm cuốn sách lão già vừa đặt xuống kia lên, tựa như một vị mục sư đang cầm Kinh Thánh, nói với lão ta: “Lần này tôi đến đây, là muốn ông trở thành Seldon[36].”

[36] Nhân vật chính trong series tiểu thuyết khoa học viễn tưởng kinh điển Foundation (tạm dịch: Cơ sở) của nhà văn Mỹ Isaac Asimov. Al-Qaeda trong tiếng Ả Rập cũng có nghĩa là “cơ sở”.

Vẻ hài hước tinh quái ấy lại xuất hiện trong đôi mắt lão già: “Hả? Tôi nên làm gì?”

“Cho tổ chức của ông tiếp tục tồn tại.”

“Đến khi nào?”

“Bốn thế kỷ sau, cho đến trận chiến ngày tận thế.”

“Ông cho rằng điều này có thể sao?”

“Nếu nó không ngừng phát triển thì có thể, hãy cho tinh thần và linh hồn nó thẩm thấu vào quân chủng không gian, đến cuối cùng, tổ chức của ông cũng sẽ trở thành một phần trong không gian quân.”

“Điều gì khiến ông coi trọng nó như thế?” sắc thái châm biếm trong giọng nói của lão già càng lúc càng thêm rõ rệt.

“Vì nó là lực lượng vũ trang hiếm hoi của nhân loại có thể dùng sinh mạng làm vũ khí tấn công kẻ thù. Ông biết đấy, khoa học cơ bản của loài người đã bị Hạt trí tuệ khóa cứng rồi, do đó, sự tiến bộ của máy tính và trí tuệ nhân tạo cũng chỉ có hạn, trong cuộc chiến tận thế, phi thuyền chiến đấu vẫn phải do con người điều khiển, vũ khí sử dụng sét hòn của Trái đất cần áp sát kẻ địch mới tấn công được, chỉ có đội quân sở hữu tinh thần cảm tử mới làm được điều này!”

“Vậy, trong chuyến đi lần này, ngoài mấy cuốn sách ra, ông còn mang đến cho chúng tôi thứ gì nữa?”

Tyler hưng phấn đứng lên khỏi mép giường: “Vậy phải xem các ông cần thứ gì, chỉ cần giúp tổ chức của ông tiếp tục tồn tại được, tôi có thể cung cấp cho các ông tất cả những gì cần thiết.”

Lão già vẫy tay ra hiệu cho Tyler ngồi xuống: “Tôi thật sự thương hại thay cho ông đấy, bao nhiêu năm rồi, không ngờ ông vẫn không biết chúng tôi thực sự cần gì.”

“Ông có thể nói được không?”

“Vũ khí? Tiền bạc? Không không, thứ đó còn quý báu hơn những cái ấy nhiều, tổ chức có thể tồn tại hoàn toàn không phải vì nó có mục tiêu vĩ đại như Seldon, ông chẳng thể nào khiến một người bình thường có lý trí tin vào và hiến thân cho mục tiêu nào đó được đâu, tổ chức tồn tại được chính là vì nó có thứ đó, nó là không khí, là máu của tổ chức, không có nó, tổ chức sẽ lập tức tiêu vong.”

“Thứ đó là gì vậy?”

“Thù hận.”

Tyler nín lặng.

“Một mặt, vì có kẻ thù chung, thù hận của chúng tôi với phương Tây đã giảm bớt phần nào; mặt khác, người Tam Thể muốn tiêu diệt toàn bộ loài người, cũng bao gồm cả phương Tây mà chúng tôi từng căm hận, đối với chúng tôi, cùng chết một mẻ cũng là một niềm vui, vì vậy chúng tôi cũng chẳng thù hận người Tam Thể.” Lão già xòe hai bàn tay ra, “Ông thấy đấy, lòng căm thù, thứ này là tài sản còn quý giá hơn cả vàng và kim cương, là vũ khí sắc bén nhất trên thế gian này, giờ nó không còn nữa, mà ông cũng không thể cho chúng tôi được, vì vậy, tổ chức này cũng giống như tôi vậy, nó chẳng sống được bao lâu nữa đâu.”

Tyler vẫn không nói được lời nào.

“Còn về Seldon, kế hoạch của ông ta hẳn là cũng không thể nào thành công được.”

Tyler thở dài, ngồi xuống mép giường: “Nói vậy, ông đã đọc phần sau rồi à?”

Lão già ngạc nhiên nhướng mày: “Chưa, tôi thật sự chưa đọc, chỉ nghĩ như vậy thôi. Sao hả, trong sách, kế hoạch Seldon cũng thất bại ư? Nếu đúng vậy thì tác giả quả là một người xuất sắc, tôi còn tưởng ông ấy sẽ viết ra một kết cục hoàn mỹ nữa cơ, xin Allah hãy phù hộ cho ông ấy.”

“Asimov đã chết nhiều năm trước rồi.”

“Mong ông ấy được lên thiên đường, thiên đường nào cũng được… ừm, người cơ trí đều chết thật sớm.”

Trên đường về, hầu hết thời gian Tyler đều không bị bịt mắt, khiến ông ta có cơ hội thưởng thức cảnh sắc núi non cằn cỗi nhưng hiểm trở của Afghanistan, chàng trai trẻ dắt la thậm chí còn tin tưởng đến nỗi treo khẩu súng trường tự động của anh ta trên yên cương, ngay bên cạnh tay Tyler.

“Anh đã giết người bằng khẩu súng này bao giờ chưa?” Tyler hỏi.

Chàng trai trẻ không hiểu, một người lớn tuổi cưỡi la nhưng không mang vũ khí đi bên cạnh trả lời thay anh ta: “Chưa, lâu lắm không đánh trận rồi.”

Chàng trai trẻ vẫn ngẩng đầu lên nhìn Tyler với ánh mắt thắc mắc, anh ta không có râu, vẻ mặt vẫn còn nét trẻ con, ánh mắt trong veo như bầu trời xanh vùng Tây Á.

“Mẹ ơi, con sẽ biến thành đom đóm.”

***

La Tập và Trang Nhan bước qua cổng bảo tàng Louvre lúc mười giờ tối, Kent đề nghị họ tham quan vào ban đêm, như vậy việc bố trí bảo vệ an toàn sẽ tiện hơn.

Thứ đầu tiên đập vào mắt họ là kim tự tháp bằng kính, tòa cung điện hình chữ U đã ngăn lại sự ồn ã của Paris về đêm, kim tự tháp lặng lẽ đứng dưới ánh trăng vằng vặc như nước, trông như thể được đúc bằng bạc trắng.

“Thầy giáo La, anh có cảm giác nó từ ngoài không gian bay đến thế giới này không?” Trang Nhan chỉ vào tòa kim tự tháp, hỏi.

“Ai cũng có cảm giác như thế cả, vả lại em nhìn mà xem, nó chỉ có ba mặt.” La Tập nói xong câu cuối cùng liền hối hận ngay, anh không muốn nói đến chủ đề ấy vào thời điểm này.

“Lúc đầu khi đặt ở đây, nhìn thế nào cũng thấy chướng mắt, nhưng lâu rồi, nó lại trở thành một phần không thể thiếu của nơi này.”

Đây chính là sự dung hợp của hai thế giới vô cùng khác biệt, La Tập nghĩ, nhưng anh không nói ra.

Lúc này, đèn trong kim tự tháp đã được thắp sáng toàn bộ, nó chuyển từ màu bạc dưới ánh trăng thành một sắc màu rực rỡ huy hoàng, đồng thời, vòi phun ở các hồ nước xung quanh cũng khởi động, những cột nước cao vút bắn lên trong ánh đèn và ánh trăng, Trang Nhan kinh hãi đưa mắt nhìn La Tập, hết sức bất an khi cả bảo tàng Louvre thức giấc vì họ ghé thăm.

Giữa tiếng nước chảy, họ bước vào đại sảnh bên dưới kim tự tháp, sau đó đi vào cung điện.

Đầu tiên, họ đi vào gian triển lãm lớn nhất của bảo tàng Louvre, dài hai trăm mét, ánh sáng ở đây rất dịu, tiếng bước chân vang vọng trong không gian trống trải. La Tập nhanh chóng nhận ra chỉ có tiếng bước chân của chính anh, Trang Nhan bước đi rất nhẹ, như một chú mèo, không phát ra tiếng động nào. Cô giống như đứa trẻ lần đầu đi vào tòa cung điện thần kỳ trong cổ tích, chỉ sợ đánh thức thứ gì đó đang say ngủ. La Tập thả bước chậm lại, kéo giãn khoảng cách với Trang Nhan, anh không hứng thú gì với các tác phẩm nghệ thuật trưng bày ở đây, mà chỉ muốn thưởng thức cô giữa thế giới nghệ thuật. Các vị thần Hy Lạp, thiên sứ và Đức Mẹ thân hình đầy đặn trong những bức tranh sơn dầu cổ điển cũng cùng anh ngắm nhìn người con gái phương Đông xinh đẹp này từ bốn phương tám hướng. Cô cũng giống như tòa kim tự tháp sáng lóng lánh ngoài kia, chỉ sau một thoáng đã hòa nhập thành một phần của chốn thánh địa nghệ thuật này, không có cô, nơi này chắc chắn sẽ thiếu đi thứ gì đó. La Tập say mê đắm chìm trong ý cảnh như cõi mộng ấy, để mặc thời gian lặng lẽ trôi đi.

Không biết bao lâu sau, Trang Nhan mới nhớ ra sự tồn tại của La Tập, ngoảnh đầu lại nhìn anh mỉm cười, trái tim La Tập rung lên, anh có cảm giác nụ cười ấy tựa như một tia sáng trên đỉnh Olympus trong tranh chiếu xuống cõi trần thế vậy.

“Nghe nói, nếu thưởng thức một cách chuyên nghiệp, phải mất một năm mới xem hết được tất cả mọi thứ ở đây.” La Tập nói.

“Em biết.” Trang Nhan trả lời ngắn gọn, ánh mắt như đang nói: vậy em phải làm sao? Sau đó, cô lại quay người đi tập trung ngắm tranh, lâu như vậy, cô mới chỉ xem đến bức thứ năm.

“Không sao đâu, Nhan Nhan à, anh có thể xem với em cả năm, tối nào cũng đi xem.” La Tập không kìm được cảm xúc, buột miệng nói.

Nghe vậy, Trang Nhan lại xoay người nhìn La Tập, có vẻ rất kích động: “Thật không ạ?”

“Thật chứ.”

“Thế…. thầy giáo La, hồi trước anh từng đến đây chưa ạ?”

“Chưa, có điều ba năm trước khi đến Paris, tôi đã đến Trung tâm nghệ thuật Pompidou, tôi còn tưởng em sẽ hứng thú với nơi đó hơn cơ.”

Trang Nhan lắc đầu: “Em không thích nghệ thuật hiện đại.”

“Những thứ này,” La Tập nhìn các vị thần, thiên sứ và Đức Mẹ ở xung quanh, “em không thấy chúng quá cũ kỹ hay sao?

“Cũ quá em cũng không thích, em chỉ thích tranh thời kỳ Phục hưng thôi.”

“Vậy cũng là cũ lắm rồi.”

“Nhưng em thấy không cũ, các họa sĩ khi ấy lần đầu tiên phát hiện ra vẻ đẹp của con người, họ vẽ các vị thần thành những con người rất đẹp, anh nhìn các bức tranh này là cảm nhận được niềm hạnh phúc của họ lúc đang vẽ tranh, cảm giác ấy giống như em lần đầu tiên nhìn thấy hồ và núi tuyết buổi sớm hôm nọ vậy.”

“Hay lắm, có điều, tinh thần nhân văn mà các bậc thầy thời Phục hưng mở lối ấy, giờ lại thành một thứ trở ngại rồi.”

“Ý anh nói là trong nguy cơ Tam Thể này ư?”

“Đúng vậy, chắc chắn em đã nhìn thấy những chuyện mới xảy ra gần đây. Bốn trăm năm sau, thế giới loài người sau thảm họa có thể sẽ thụt lùi về trạng thái thời Trung cổ, nhân tính sẽ một lần nữa bị đè nén cực độ.”

“Vậy nghệ thuật cũng sẽ rơi vào mùa đông và đêm đen, phải không ạ?”

Nhìn ánh mắt ngây thơ của Trang Nhan, La Tập thầm cười khổ… Cô bé ngốc, còn nói chuyện nghệ thuật gì nữa, nếu thực sự có thể sinh tồn, cho dù loài người thụt lùi về đến xã hội nguyên thủy cũng chỉ là một cái giá rất nhỏ. Nhưng anh vẫn cứ nói: “Đến khi ấy, có lẽ sẽ có cuộc phục hưng văn nghệ thứ hai, em có thể phát hiện lại cái đẹp từng bị lãng quên, vẽ lại nó.”

Trang Nhan cười cười, nụ cười pha chút thê lương, hiển nhiên cô đã hiểu được lời an ủi thiện ý của La Tập: “Em chỉ đang nghĩ, sau ngày tận thế, những bức tranh này, những tác phẩm nghệ thuật này sẽ ra sao?”

“Em lo lắng chuyện này sao?” La Tập hỏi, cô gái nhẹ nhàng nói ra hai chữ “tận thế” khiến tim anh đau nhói, nhưng nếu những lời an ủi vừa nói ra khi nãy đã thất bại, vậy lần này anh tin rằng mình có thể thành công, anh cầm tay Trang Nhan nói: “Đi, chúng ta đến khu trưng bày nghệ thuật phương Đông nhé.”

Trước khi làm lối vào ở chỗ tòa kim tự tháp, bảo tàng Louvre là một mê cung lớn, ở bên trong muốn đến một gian sảnh nào có thể sẽ phải đi vòng rất xa, nhưng giờ thì có thể đi thẳng tới các vị trí khác nhau từ đại sảnh kim tự tháp. La Tập và Trang Nhan trở lại đại sảnh ở lối vào, theo biển chỉ dẫn đi vào khu trưng bày nghệ thuật phương Đông, so với khu triển lãm hội họa cổ điển châu Âu, nơi này là một thế giới hoàn toàn khác.

La Tập chỉ vào những tác phẩm điêu khắc, hội họa và các quyển sách cổ từ châu Á và châu Phi, nói: “Đây là những thứ một nền văn minh tiên tiến mang về từ các nền văn minh lạc hậu hơn, có thứ họ cướp về, có thứ họ trộm về hoặc lừa gạt về, nhưng em nhìn thử xem, giờ chúng đều được bảo quản rất tốt. Kể cả trong thời Chiến tranh Thế giới thứ II, những thứ này cũng đều được chuyển đến nơi an toàn.” Họ dừng chân trước một bức bích họa Đôn Hoàng được đặt trong tủ kính bịt kín, “Nhớ lại năm xưa, sau khi Vương Đạo Sĩ tặng những thứ này cho người Pháp, trên mảnh đất ấy của chúng ta đã xảy ra bao nhiêu biến loạn và chiến tranh, nếu những bích họa này vẫn còn ở vị trí ban đầu, em có dám chắc chúng được bảo tồn tốt như vậy không?”

“Nhưng người Tam Thể sẽ bảo tồn di sản văn hóa của nhân loại sao, bọn họ hoàn toàn không coi trọng nền văn minh của chúng ta,” Trang Nhan nói.

“Chỉ vì họ nói chúng ta là sâu bọ? Không phải vậy đâu, Nhan Nhan, em có biết biểu hiện cao nhất của lòng kính trọng đối với một chủng tộc hoặc một nền văn minh là gì không?”

“Là gì ạ?”

“Tận diệt, đây chính là sự trọng thị tối cao đối với một nền văn minh.”

Tiếp sau đó, hai người lặng lẽ đi xuyên qua hai mươi tư gian sảnh của khu vực trưng bày nghệ thuật phương Đông, đi giữa quá khứ xa xăm, tưởngtượng về tương lai tăm tối. Lúc nhận ra mình đang ở đâu thì họ đã đến khutrưng bày nghệ thuật Ai Cập.

“Đứng ở đây, em biết anh nghĩ đến ai không?” La Tập đứng bên cạnhchiếc mặt nạ vàng của pharaoh đặt bên trong tủ kính, muốn tìm một chủ đềthoải mái hơn, “Sophie Marceau.”

“Anh muốn nói đến bộ phim Bóng ma bảo tàng Louvre ấy ạ? SophieMarceau thực sự rất xinh đẹp, mà còn rất có nét của phụ nữ phương Đôngnữa.”

Không hiểu có phải là ảo giác hay không, La Tập cảm nhận được tronggiọng cô thoáng một tia ghen tị và ấm ức.

“Nhan Nhan, cô ấy không đẹp bằng em đâu, thật đấy.” La Tập còn muốnnói, vẻ đẹp của Sophie Marceau có lẽ có thể tìm được trong những tácphẩm nghệ thuật này, nhưng vẻ đẹp của em lại khiến mọi thứ ở đây đều trởnên nhạt nhòa, nhưng anh không muốn tỏ ra quá vồ vập. Anh thấy một nụcười mỉm ngượng nghịu lướt qua trên gương mặt cô gái tựa áng mây, đâycó lẽ là lần đầu tiên anh nhìn thấy cô ngượng.

“Chúng ta quay về xem tranh sơn dầu tiếp đi ạ.” Trang Nhan lí nhí nói.

Họ lại quay trở về đại sảnh kim tự tháp, nhưng quên mất lối vào đầu tiên.

La Tập thấy, biển báo nổi bật nhất ở đây là ba món trưng bày quý giá nhất ởLouvre: bức tranh nàng Mona Lisa, tượng Thần Vệ nữ và tượng ThầnChiến thắng.

“Mình đi xem bức Mona Lisa đi.” La Tập đề nghị.

Trong lúc họ đi về hướng ấy, Trang Nhan nói: “Thầy giáo của bọn em bảo, sau khi thầy ấy tham quan bảo tàng Louvre, lại thấy hơi phản cảm với Mona Lisa và Thần Vệ nữ.”

“Tại sao?”

“Du khách toàn chăm chăm xem hai thứ đó, mà không hề thấy hứng thú trước những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại chẳng kém, chỉ là danh tiếng không lớn bằng mà thôi.”

“Anh chính là một thành viên của nhóm người phàm tục ấy đấy.”

Lúc đến trước nụ cười mỉm thần bí đó, La Tập cảm thấy bức tranh này nhỏ hơn nhiều so với tưởng tượng của mình, chẳng những vậy lại còn nằm phía sau lớp kính chống đạn dày khự. Trang Nhan cũng không tỏ ra hào hứng lắm.

“Nhìn cô ấy, em lại nghĩ đến các anh.” Trang Nhan chỉ vào người phụ nữ trong tranh.

“Bọn anh?”

“Người Diện Bích đó ạ.”

“Cô ấy và Người Diện Bích thì có liên quan gì?”

“Ừm, em nghĩ thế này ạ… Chỉ nghĩ thôi, anh đừng cười em nhé… Có thể nào tìm được một cách thức trao đổi thông tin mà chỉ con người với nhau mới hiểu, Hạt trí tuệ vĩnh viễn không thể nào lý giải được, như vậy thì con người có thể thoát khỏi sự giám sát của Hạt trí tuệ rồi.”

La Tập nhìn Trang Nhan ngẫm nghĩ khoảng vài giây, sau đó nhìn chằm chằm vào bức tranh Mona Lisa, nói: “Anh hiểu ý em rồi, Hạt trí tuệ và người Tam Thể mãi mãi sẽ không thể hiểu được nụ cười mỉm của cô ấy.”

“Đúng ạ, nét mặt của con người, đặc biệt là ánh mắt, là thứ phức tạp nhất, vi diệu nhất, một cái nhìn chăm chú, một nụ cười, có thể truyền đạt được bao nhiêu thông tin ấy chứ! Thông tin này chỉ có con người mới hiểu được, chỉ con người mới có sự nhạy cảm đó mà thôi.”

“Phải, một trong các nan đề lớn nhất của trí tuệ nhân tạo chính là nhận biết được nét mặt và ánh mắt của con người, thậm chí có vị chuyên gia còn nói rằng, có thể máy tính sẽ không bao giờ nhận biết và phân biệt nổi ánh mắt của con người.”

“Thế liệu có thể tạo ra một loại ngôn ngữ biểu cảm, dùng nét mặt và ánh mắt để nói chuyện với nhau không ạ?”

La Tập ngẫm nghĩ một cách nghiêm túc, rồi cười cười lắc đầu, chỉ vào bức tranh Mona Lisa nói: “Vẻ mặt của cô ấy, chính bản thân chúng ta cũng không lý giải nổi… lúc anh chăm chú nhìn cô ấy, ẩn ý của nụ cười đó cứ biến đổi mỗi giây một lần, vả lại còn không bao giờ trùng lặp nữa.”

Trang Nhan vui vẻ nhảy cẫng lên như đứa bé: “Thế chẳng phải đã chứng tỏ rằng nét mặt có thể truyền đạt rất nhiều thông tin phức tạp ư?”

“Vậy thì, một thông tin thế này: tàu vũ trụ xuất phát từ Trái đất, đích đến là Sao Mộc. Em định diễn đạt bằng nét mặt như thế nào?”

“Lúc mới bắt đầu nói chuyện, người nguyên thủy chắc chắn cũng chỉ có thể biểu đạt những ý rất đơn giản, có khi còn chẳng phức tạp bằng tiếng chim hót ấy chứ, ngôn ngữ về sau này mới dần trở nên phức tạp!”

“Vậy… Chúng ta thử dùng nét mặt để diễn đạt một ý đơn giản nhé?”

“Vâng!” Trang Nhan hưng phấn gật đầu, “Vậy thế này nhé, mỗi người chúng ta hãy nghĩ ra một thông tin, sau đó truyền đạt cho nhau?”

La Tập ngập ngừng giây lát: “Anh nghĩ xong rồi.”

Trang Nhan lại nghĩ ngợi rất lâu, sau đó mới gật đầu, “Vậy chúng ta bắt đầu nhé.”

Hai người họ chăm chú nhìn nhau, chỉ giữ được chưa đến nửa phút là gần như cùng lúc cười phá lên.

“Thông tin của anh là: đêm nay anh muốn mời em ra đại lộ Champs-Élysées ăn khuya.” La Tập nói.

Trang Nhan cũng cười đến gập cả người lại: “Thông tin của em là: anh… anh nên cạo râu đi!”

“Đây là chuyện đại sự can hệ đến vận mệnh của cả nhân loại, chúng ta cần phải nghiêm túc mới được.” La Tập cố nhịn cười nói.

“Lần này không ai được cười trước đâu đấy!” Trang Nhan nói, trịnh trọng như thể một đứa trẻ con đang xác định lại quy tắc của trò chơi.

Họ đứng xoay lưng vào nhau, mỗi người lại nghĩ ra một mẩu thông tin khác, sau đó quay lại nhìn chằm chằm vào nhau lần nữa. Thoạt đầu, La Tập lại có cảm giác run rẩy muốn bật cười, anh cố gắng kiềm chế, nhưng chỉ thoáng sau, cảm giác đè nén ấy trở nên thoải mái dễ chịu, bởi ánh mắt trong veo của Trang Nhan một lần nữa khiến trái tim anh rung lên.

Người Diện Bích và cô thiếu nữ cứ vậy nhìn nhau đăm đăm, trong bảo tàng Louvre giữa đêm thâu, trước nụ cười của nàng Mona Lisa.

Con đê chắn ngang tâm hồn La Tập rỉ ra một dòng nước nhỏ róc rách, dòng nước này xối qua bờ đê, vết nứt nhỏ xíu dần dần mở rộng, dòng nước cũng trở nên càng lúc càng xối xiết, La Tập cảm thấy sợ hãi, anh ra sức bịt vết nứt trên con đê lại, nhưng không sao làm được, đê vỡ là điều không thể tránh khỏi.

Lúc này, La Tập có cảm giác mình đang đứng trên vách đá dựng đứng cao hàng nghìn mét, đôi mắt của cô gái trẻ chính là vực sâu mênh mang bên dưới, phía trên là một biển mây trắng tinh khiết, ánh mặt trời rải xuống từ khắp bốn phương tám hướng, biển mây trở nên rực rỡ muôn màu, cuồn cuộn vô cùng vô tận. La Tập cảm thấy mình đang trượt xuống, rất chậm, rất chậm, nhưng sức anh lại không đủ ngăn trở. Anh hoảng loạn khua khoắng tay chân, muốn tìm một chỗ bám, song bên dưới lại trơn nhẵn như mặt băng. Anh trượt xuống càng lúc càng nhanh, cuối cùng bắt đầu rơi xuống vực sâu trong một cơn choáng váng cuồng loạn, trong nháy mắt, niềm hạnh phúc được rơi xuống đã biến thành nỗi đau đớn tột cùng.

Mona Lisa đang biến hình, vách tường cũng đang biến dạng, tựa như băng đang tan chảy. Bảo tàng Louvre đã sụp đổ, những khối đá, khối gạch đang rơi xuống giữa chừng biến thành dung nham đỏ lòa, dòng dung nham chảy xuyên qua thân thể bọn họ, không ngờ lại mát lạnh như nước suối. Hai người họ cũng rơi xuống cùng với bảo tàng Louvre, xuyên qua đại lục châu Âu đang tan chảy, rơi xuống tâm Trái đất. Lúc đi xuyên qua tâm Trái đất, hành tinh liền nổ tung ra tứ phía, biến thành một ngọn lửa rực rỡ trong vũ trụ; ngọn lửa tắt rụi, không gian trong nháy mắt trở nên trong vắt như pha lê, tinh tú dùng những tia sáng óng ánh dệt thành một tấm thảm khổng lồ màu bạc, vô vàn các vì sao rung lên, tấu nên khúc nhạc tuyệt trần; biển sao trở nên dày đặc, như thể thủy triều dâng, vũ trụ đang teo nhỏ, co rút về phía họ… Cuối cùng, tất thảy đều bị nhấn chìm trong ánh sáng sáng thế của tình yêu.


Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play

trướctiếp