Lời gã nói chính là tiếng lòng của hoàng đế. Sắc mặt hắn càng âm trầm, gân xanh bên thái dương nảy thình thịch. Hắn chắp tay sau lưng, đi qua đi lại trong điện mấy vòng, rồi bỗng nhấc chân đá chiếc bình ngọc cao hơn hơn hai thước bên cạnh. Xoảng một tiếng, những mảnh vỡ văng tung tóe.
Tiểu nội giám cuống quýt bò lăn ra, dùng tay gạt mảnh vỡ bên chân hoàng đế, luôn miệng nói, "Nô tài lắm miệng, chọc giận hoàng thượng, nô tài đáng chết."
Vĩnh An đế không nói gì, chỉ phất tay bảo đám người hầu thu dọn mảnh vỡ. Sau khi cung nữ quét tước xong rồi, tiểu nội giám vẫn quỳ bên chân hoàng đế, nhẹ giọng nói, "Nô tài nghe nói bây giờ hơn nửa sự vụ trong triều đều do Mục vương cai quản, chẳng trách y làm việc độc đoán như vậy. Lúc trước, khi Tạ thái úy còn sống, có lẽ địa vị còn sánh bằng Mục vương, tiếc là..." Gã bỗng nhiên thở dài, "Nghe đâu mấy ngày trước, Lý lão thái sư cũng bị y ép đâm đầu vào cột mà chết."
Hoàng đế cũng nghe chuyện đó, càng nhăn chặt mày, "Không sai. Chuyện của Tạ khanh, trẫm vẫn chưa tính sổ với y đâu. Tên Dương Diễm đó là cái thá gì, chẳng qua chỉ nắm trong tay quân quyền Tây Bắc, rồi đề bạt được mấy tên thôn dã vô học, mới có thế mà đã dám lộng hành ngay trong hậu cung của trẫm, đúng là nực cười ! Lần này không dạy cho y một bài học, chẳng mấy chốc y sẽ cưỡi lên đầu trẫm."
"Hoàng thượng định giáo huấn Mục vương thế nào?" Tiểu nội giám thăm dò.
"Đâu chỉ giáo huấn, trẫm chỉ hận không thể...." Mặt Dương Giải đằng đằng sát khí, nhưng mà nói được nửa câu đã im miệng. Hắn siết chặt tay, một lúc lâu sau mới buông ra. Lòng bàn tay của kẻ nhàn tản sung sướng đã hằn mấy vết móng tay găm vào da thịt.
Tiểu nội giám ngoan ngoãn quỳ tại chỗ, lén quan sát sắc mặt hoàng đế qua khóe mắt. Gã nhận ra Vĩnh An đế đang từ phẫn nộ chuyển sang suy sụp, sau đó lảo đảo mấy bước, ngã về ghế rồng.
"Trẫm hối hận rồi, hối hận ngày trước không nghe Tạ khanh nói. Rõ ràng lúc ấy hắn đã từng nhắc nhở trẫm, Mục vương này không đơn giản chút nào. Tiếc là khi ấy trẫm còn chưa hiểu được ý nghĩa của những lời đó, một mực muốn trọng dụng tên mù. Mãi cho đến khi y bình ổn loạn Đông Hồ, trẫm mới thật sự tin y là kẻ có bản lĩnh, rất lấy làm vừa ý, thậm chí còn giao Tả Hữu Kiêu vệ cho y. Cứ tưởng y sẽ cảm tạ hoàng ân, một lòng vì trẫm, ai ngờ y lại...." Dương Giả dựa trán vào lòng bàn tay, thở dài thật khẽ, "Bây giờ thế lực của y ở trong triều không nhỏ, dù trẫm có muốn lấy đầu y cũng phải kiêng dè nhiều thứ."
"Theo ý nô tài, thế lực của Mục vương tuy lớn nhưng quyền thế đó đều do hoàng thượng ban cho. Hoàng thượng mới làm chủ thiên hạ. Nếu hoàng thượng có lòng muốn trừng trị Mục vương thì nào có khó gì."
"Ồ?" Vĩnh An đế kinh ngạc nhìn gã, "Ngươi đứng lên, nói cho tử tế? Làm thế nào?"
Tiểu nội giám cung kính gật đầu, sau đó đứng dậy thưa, "Hiện nay, trong tay Mục vương trừ chức đại đô hộ Tây Bắc, còn kiêm quản các điểm trọng yếu của hai tỉnh sáu bộ, quyền lực nhiều, cũng rất phức tạp. Hoàng thượng có thể kiếm cớ, tước đi một trong hai chức vị quan trọng của y, làm suy yếu dần thế lực. Nếu y ngoan ngoãn chấp nhận thì lại lần lượt bóc dần vây cánh của y. Còn nếu y không chịu trao trả quyền lực.....thì càng tốt."
"Sao lại càng tốt?" Vĩnh An đế có chút khó hiểu, ra sức hỏi.
Giọng của tiểu nội giám vốn nhỏ nhẹ, giờ càng nói khẽ, có chút quỷ quyệt. Gã cúi đầu cười, "Nếu y không nghe thì là chống đối mệnh vua. Y cậy mình binh quyền lớn mạnh mà phản kháng thì là tội mưu phản. Đến khi đó, dù có giết y cũng danh chính ngôn thuận, không có gì đáng trách."
Nói xong, thấy hoàng đế nhíu mày không nói, gã lại cuống quýt quỳ rạp, "Nô tài không hiểu chuyện quốc gia đại sự mới nói bừa như thế, xin hoàng thượng thứ tội."
Thấy gã có vẻ thông minh, Dương Giải cười cười hỏi, "Ngày trước chỉ thấy ngươi chuyên bưng trà đổ nước, không biết hóa ra lại lanh lợi như thế. Ngươi tên gì?"
Tiểu nội giám được khen, vui vẻ ra mặt, dập đầu nói, "Bẩm hoàng thượng, nô tài tên Hoài Hỉ."
"Hoài Hỉ, tên hay đấy chứ." Hoàng đế gật gù, "Từ nay về sau, thăng cho ngươi làm nội thường thị."
Mùng bảy tháng ba, Vĩnh An đế về cung sau chuyến du xuân. Cổng lớn Thái An cung mở rộng, mười hai lọng lớn đi trước mở đường. Hoàng đế được vây trong vàng ngọc, trước sau đều có nhạc công ăn mặc hoa lệ hộ tống, nhạc vang một khúc đường. Công thần hai bên dập đầu sát đất, cung nghênh thánh giá. Nhưng hoàng đế ngồi trong xe rồng lại không vui vẻ gì lắm, sắc mặt từ đầu đến cuối hằm hằm, dường như đang giận dữ.
Vừa vào cửa cung, nội thị dìu hoàng đế xuống xe, nhưng còn chưa lên kiệu, hắn đã lạnh nhạt nói, "Mục vương đâu?"
Bốn phía im lặng một hồi, Dương Diễm mới bước ra, mũ miện chỉnh tề, chậm rãi quỳ xuống hành lễ, "Thần đệ cung nghênh thánh giá."
Vĩnh An đế không bảo y bình thân, chỉ hừ lạnh một tiếng, "Trẫm giao Lễ bộ cho khanh quản lý, vốn tưởng khanh sẽ làm việc ổn thỏa, tại sao nghi thức của Lễ bộ lại qua loa như thế!"
Lửa giận của hoàng đế đến bất ngờ, đám thần tử đều chẳng hiểu ra sao. Chưa nói trước nay Mục vương luôn nhận được nhiều ân sủng, chưa từng bị trách móc bao giờ, mà tính tình y cẩn thận như thế, chẳng mắc sai lầm nào cho người ta bới móc, đâu đến nỗi phải khiển trách y ngay trước mắt mọi người.
Trong lúc đám quần thần ngơ ngác nhìn nhau, Dương Diễm đã cúi đầu nói, "Thần đệ sợ hãi. Lần cung nghênh thánh giá này đều chiếu theo những lễ nghi lúc trước, nếu có điểm nào sơ sót, mong hoàng thượng chỉ rõ."
Vĩnh An đế lại cười lạnh, "Đâu chỉ là sơ sót, mà là sai lầm lộ liễu. Tả Hữu Kiêu vệ vì sao lại đi trước Thiên Ngưu vệ, tôn ti đảo lộn. Khúc nhạc diễu hành Phá Trận Khúc lại càng chẳng ra thể thống gì ! Ai mà không biết đi trước ngự giá thì phải tấu Thái Bình nhạc dể thể hiện sự trang trọng?"
Hắn luôn miệng trách mắng, mà Mục vương chỉ cúi đầu nghe dạy, không biện giải nửa lời. Lễ bộ thượng thư Thang Trí Viễn đành phải bước lên, quỳ xuống khấu đầu nói, "Hoàng thượng minh giám, việc này do Lễ bộ lo liệu, tất cả là thất sách cả thần. Mục vương điện hạ bận lo quốc sự, gần như chẳng còn thời gian, mà thân thể ngài cũng có điểm bất tiện nên ít nhiều sơ sót, xin hoàng thượng chớ trách móc nặng nề."
Các lão thần đều biết Thang Trí Viễn tính tình nhân hậu, giờ lão tự nhận tội về mình cũng không ai lấy làm ngạc nhiên. Họ nghĩ bụng hoàng đế vốn chẳng phải người khoan dung độ lượng gì, kiểu gì cũng sẽ giận cá chém thớt, cho nên im lặng nín thở, không dám nói câu nào.
Ai ngờ Vĩnh An đế nhìn Thang Trí Viễn, lại gật gật đầu, "Đúng vậy, sao trẫm không nhớ ra nhỉ. Mục vương tàn tật mà phải xử lý bao nhiêu sự vụ phức tạp, khó mà tránh khỏi sai sót." Hắn thở dài một tiếng, "Thôi đứng lên cả đi."
Sau khi Mục vương và Thang thượng thư đứng dậy, hoàng đế mới từ tốn nói, "Mục vương, trẫm biết mấy ngày này khanh làm việc mệt mỏi. Nhưng lời ban nãy khanh chớ để trong lòng."
Dương Diễm hơi cúi đầu, "Đương nhiên ạ."
Hoàng đế tiến lên mấy bước, vỗ vỗ vai y, "Khanh là huynh đệ đồng tộc của trẫm, trẫm không nỡ thấy khanh vất vả. Vậy đi, sau này chuyện của Lễ bộ và Hộ bộ khanh cứ giao cho Ung vương như ngày trước là được, bản thân nên nghỉ ngơi đầy đủ."
Hiện giờ Ung Vương là Dương Lâm, đích tử của Dương Toại, vốn nhậm chức Hộ bộ thượng thư. Từ khi Mục vương nắm quyền, hắn và huynh trưởng Dương Kỳ chỉ được phân cho chức quan nhàn tản, sống thong thả qua ngày. Lúc này bỗng nhiên nhận được sứ mệnh lớn, hắn quên cả tạ ơn, cứ đứng ngây như phỗng.
Dương Diễm lại nhanh miệng nói, "Thần lĩnh chỉ."
Vĩnh An đế chưa từng nghĩ rằng y sẽ ngoan ngoãn chấp nhận như thế, nheo mắt quan sát nhưng không thấy Mục vương có bất cứ biểu hiện nào khác thường, sắc mặt y vẫn bình tĩnh như trước.
Hai ngày sau khi Vĩnh An đế về cung, hắn mới miễn cưỡng chịu bò dậy lâm triều.
Ngoài Tuyên Chính điện, nắng vàng ấm áp, gió nhè nhẹ thổi, mềm mại thư thái, khiến hoàng đế dựa vào long tọa cảm thấy buồn ngủ. Đầu đông năm ngoái, hắn từng không chịu vào triều suốt mấy tháng liền, giờ vừa nhìn xuống điện, cảm thấy mặt mũi đám thần tử xa lạ hơn nhiều, mà trong đó có vô số người trẻ tuổi mới xuất hiện.
Dưới thềm ngọc có một chiếc ghế lớn làm từ gỗ đàn đen, mới được đặt ở đây vào năm ngoái. Lý do là vì Mục vương thân thể yếu bệnh, khi vào triều được đặt cách cho ngồi. Nhưng lúc này trên ghế không có ai. Nghe bảo Mục vương cáo bệnh, không thể vào triều. Vĩnh An đế không buồn quan tâm, chỉ hỏi vài câu rồi nghe đám quần thần tấu chuyện, mọi thứ vẫn diễn ra trôi chảy.
Bãi triều xong, hoàng đế mới duỗi cái sống lưng tê mỏi, để đám nội thị dìu xuống long tọa. Theo sau hắn là hai thần tử khác, một người là Môn hạ thị trung Cao Lộc, một người Ung vương Dương Lâm vừa mới tiếp quả Lễ bộ và Hộ bộ.
"Hoàng thượng, hôm nay Mục vương cáo ốm không vào triều, thần nghĩ có điểm bất thường." Cao Lộc nói nhỏ sau lưng hoàng đế.
Hoàng đế hừ khẽ một tiếng, "Đương nhiên trẫm biết y không bị bệnh, chẳng qua hôm trước bị mắng ngay trước mặt mọi người, cảm thấy mất hết thể diện nên giận dỗi mà thôi." Hắn phất tay áo, tỏ vẻ khinh thường, "Tên Mục vương này vẫn còn non nớt lắm, trẫm chẳng qua chỉ muốn dạy y một bài học."
"Hoàng thượng thánh minh." Cao Lộc lại nói, "Từ khi Mục vương tới Văn Hoa các quản sự tới nay, y gần như thâu tóm quyền hành, ngay cả Ung vương thân là huynh trưởng trong dòng tộc y cũng không coi ra gì, chứ đừng nói đến đám thần tử như chúng thần."
Vĩnh An đế dừng bước, quay đầu nhìn Ung vương Dương Lâm, thấy hắn chỉ khoanh tay đứng ở bên, thường gật đầu phụ họa nhưng không nói được câu nào ra hồn, nghĩ đến mà ghét. Trước kia, khi Ung vương Dương Toại còn sống, Dương Lâm từng nhậm chức Hộ bộ thượng thư, sau đó tra ra một vụ án buôn lậu muối khổng lồ, số tiền tham ô vô cùng lớn. Tuy sau đó đã xử lý một loạt quan to, nhưng hoàng đế vẫn biết Dương Lâm mới chính là kẻ đầu sỏ trong vụ việc. Lúc ấy, hắn rất bực tên đường đệ tham lam vô dụng này, nhưng trước mắt, để kiềm chế Mục vương, hắn không thể không dùng Dương Lâm một lần nữa.
"Ung vương." Hắn cố nén giận, nhắc nhở, "Sau khi khanh tiếp quản công vụ, may tra hết văn thư sổ sách của hai bộ. Nếu tra ra Mục vương có sai lầm gì thì lập tức đến bẩm báo."
"Thần tuân chỉ."
"Còn nữa." Hoàng đế hơi trầm ngâm, "Hôm nay Mục vương cáo bệnh, trẫm tin y sẽ không ngoan ngoãn ngồi yên trong nhà đâu. Các ngươi phái người theo dõi thật chặt. Nếu Mục vương phủ có động tĩnh gì, dù y ra thủ lệnh gì hay gọi gười nào tới, đều ghi vào danh sách cho trẫm. Chỉ cần y làm loạn, trẫm lập tức giam lại."
Mùng sáu tháng tư năm Vĩnh An thứ chín.
Lâm Phong các, Tây phường.
Tiếng tiếng ngựa hí vang lên, cửa quán trà bị đẩy mạnh. Người tới là một thanh niên mặc giáp bạc, đeo trường đao. Sau khi bước vào, chàng có chút do dự, dường như không ngờ trong quán trà mà lại lạnh lẽo như thế.
"Công tử đến uống trà sao?" Chủ quán từ trên lầu hai bước xuống cười nói, "Quán ta sắp đóng cửa mất rồi."
"Xin hỏi, có phải Ngô Ninh Thanh tiên sinh đấy không?" Thanh niên ngẩng đầu, trán lấm tấm mồ hôi, có vẻ như đã chạy suốt chặng đường dài.
Dù trong quán chỉ có chút ánh sáng lờ mờ, chủ quán vẫn nhận ra đối phương, liền mỉm cười nói, "Chính là tại hạ. Không biết Vệ tướng quân tìm ta có việc gì?"
Vệ Trường Hiên không ngờ lão nhận ra mình, có chút ngạc nhiên, nhưng nhanh chóng nói, "Trần Ngôn đại tướng quân nhờ ta đưa đồ tới."
Chủ quán cười nói, "Thật tốt quá, Trần đại tướng quân vẫn chưa quên người bạn cũ này. Mời Vệ tướng quân lên lầu uống một chén trà quê giải khát."
Tầng hai trống trải, chẳng có một người phục vụ. Chủ nhân tự mình đốt lò, đun nước, hầu trà đến trước mặt Vệ Trường Hiên. Sắc trà xanh biếc, trong veo thấy cả đáy chén. Vệ Trường Hiên khát khô cả cổ, ngửa đầu uống cạn. Chàng cảm thấy vị đắng ngắt đọng ở cuống lưỡi gần như khiến chàng rùng mình, nhưng sau đó cảm giác ngọt ngào cùng hương trà thoang thoảng dâng lên từ yết hầu, khiến kẻ không thông trà đạo cũng phải gật gù khen, "Quả là trà ngon."
Chủ quán mỉm cười, "Là trà tươi sau mùa mưa năm nay, không hẳn là thượng phẩm, nhưng cũng tạm uống được." Thấy chén trên tay Vệ Trường Hiên đã rỗng, lão lại rót đầy, "Vệ tướng quân hình như đã khác nhiều so với năm năm trước."
Vệ Trường Hiên bối rối, "Tiên sinh biết ta từ trước ư?"
Chủ quán đứng lên xốc màn trúc, từ cửa sổ có thể nhìn thấy hoàng hôn buông mình bên sông hộ thành. Lão cười nói, "Cảnh ngài bắn liễu năm xưa vẫn còn rành rành trước mắt, khi ấy đâu có cô nương nào ở Kiến An không biết câu 'nhi lang họ Vệ, đẹp đẽ vô cùng'".
Nhắc lại chuyện cũ, Vệ Trường Hiên lấy làm xấu hổ. Mặt chàng đỏ lên, cúi xuống uống trà, "Để tiên sinh chê cười rồi."
"Nhớ khi đó Trần tiểu tướng quân vừa mới về kinh, vào quán ta uống trà giải khái, cũng gặp lại Vệ tướng quân ở đây. Khi ấy hai vị đều là thiếu niên anh hùng, khiến cho quán nhỏ của kẻ hèn này cũng được vẻ vang."
Nghe lão nói thế, Vệ Trường Hiên mới nhớ ra hình như đúng là năm năm trước mình từng đến đây, có chút kinh ngạc, "Hóa ra tiên sinh cũng quen Trần Thiệu."
"Ta và Trần gia xem như là bạn. Trần tiểu tướng quân thường xuyên tới đây lúc còn nhỏ, ngoài uống trà ra thì còn thích uống nước đường đá." Chủ quán nhắm mắt hồi tưởng, nét mặt lộ vẻ thương tiếc, nhẹ giọng thở dài, "Ấy vậy mà đã qua ngần ấy năm."
Vệ Trường Hiên cũng im lặng một hồi, rồi bỗng nhiên nhớ ra, đưa cho lão một chiếc hộp gỗ, "Trần tướng quân nhờ ta giao vật này cho tiên sinh."
Chiếc hộp nhẹ bẫng, xem chừng bên trong không phải lễ vật quý giá. Nhưng chủ quán mở hộp ra, cặp mắt mở lớn, đưa chiếc hộp lại gần, nhắm mắt hít sâu một hơi, "Tuyệt lắm. Thuốc lá Việt Châu bao giờ cũng tốt nhất."
Trong hộp chính là những điếu thuốc lá vàng kim, đặc sản của Việt Châu. Chủ quán vuốt ve chiếc hộp yêu quý, hỏi, "Vệ tướng quân có hút thuốc không?"
Vệ Trường Hiên kinh ngạc lắc đầu.
"Vậy thì tại hạ xin phép." Chủ quán cười với chàng, nhanh tay rút một điếu thuốc, thuần thục cuộn lại, hơ trên lò lửa, hít sâu một hơi. Khói xám bay ra từ lỗ mũi khi lão chầm chậm thở ra, dường như vô cùng khoan khoái, cả người biếng nhác.
"Hình như trong thành Kiến An không nhiều người hút thuốc."
Chủ quán thấy chàng có vẻ ngạc nhiên, mỉm cười gật đầu, "Thành Kiến An toàn quan to hiển hách mà còn nuốt mây nhả khói phì phèo thì đâu ra thể thống gì nữa. Chẳng qua ta nhiễm thói xấu này trong lúc bôn ba trên biển thời trai trẻ mà thôi. Ngoài biển sóng to gió lớn, không hút một điếu thì không tỉnh táo nổi."
"Thuốc lá cũng có tốt xấu sao?"
"Đương nhiên." Chủ quán hứng trí nói, "Thuốc lá cũng như trà thôi, dù là hàng thượng phẩm nhưng sau khi thu hoạch mà không bỏ sức gia công thì cũng uổng phí. Cái khó nhất chính là phơi thuốc. Ven biển khí hậu ẩm ướt, lá thuốc phơi xong mà còn hơi ẩm thì không thể coi là thuốc tốt. Nếu lá được phơi khô đầy đủ, khi hút đượm mùi thơm phức mới xem là hảo hạng."
Nói tới đây, lão lại bật cười khanh khách, "Có khi hút một điếu thuốc cũng đoán được khí hậu nơi sản xuất thế nào. Ví dụ như thuốc lá được phơi tốt tốt thì nơi trồng nhiều khả năng là sẽ gặp hạn hán."
"Cả thế nữa sao?"
"Ừ," Chủ nhân lại ngậm thuốc rít vài hơi, chân mày giãn ra rồi nhăn lại, "Năm nay thuốc lá ngon thế này, chẳng có chút hơi ẩm, ước chừng từ đầu năm đến giờ không có một hạt mưa. Vậy là Việt Châu sắp chịu hạn hán lớn rồi."