Chương 81
Chiếc Hawker đang trong giai đoạn tiếp đất cuối
cùng.
Simon Edwards - quan chức Điều hành Dịch vụ tại sân bay Biggin Hill
Executive - đi tới đi lui trong đài quan sát, nheo mắt nhìn lo âu về đường băng
ướt mưa. Ông chẳng bao giờ ưa bị đánh thức sớm vào sáng thứ bẩy, nhưng đặc biệt
khó chịu khi bị gọi đến để giám sát việc bắt giữ một trong những khách hàng xộp
nhất của mình. Ngài Leigh Teabing không chỉ trả cho sân bay Biggin Hill tiền
thuê cái hăng-ga(1) riêng, mà còn cả một khoản "phí hạ cánh"cho mỗi lần đến và
đi đều đặn của ông. Thông thường, 8ân bay này được báo trước lịch hành trình của
Teabing và có thể tuân theo một thủ tục nghiêm ngặt đối với những lần đến của
ông. Teabing thích mọi sự phải được thực hiện đúng như thế. Chiếc limousine có
thể kéo dài mang nhãn hiệu Jaguar làm theo đơn đặt hàng của khách mà ông giữ
trong hăng-ga phải luôn đầy xăng, lau rửa bóng lộn, và một tờ Thời báo Lonlon
trong ngày để sẵn ở ghế sau. Một nhân viên hải quan đợi sẵn chiếc máy bay tại
hăng-ga để xúc tiến việc kiểm tra hành lý và tài liệu bắt buộc. Thi thoảng,
những nhân viên hải quan đã nhận những khoản tiền boa lớn từ Teabing để lờ đi
việc vận chuyển một số đồ hữu cơ vô hại - hầu hết là thức ăn xa xỉ - ốc sên
Pháp, một loại phomat Requefort đặc biệt không chế biến, một vài loại hoa quả
nào đó. Vả chăng nhiều luật của hải quan cũng vô lý, và nếu sân bay Biggin Hill
không chiều ý khách của mình thì chắc chắn các sân bay cạnh tranh sẽ hứng ngay.
Teabing được đáp ứng những gì ông ta muốn ở đây, tại sân bay Biggin Hill và
những nhân viên thì thu được lợi lộc.
Lúc này, Edward cảm thấy thần kinh
căng thẳng khi nhìn chiếc phản lực tiến vào. Ông tự hỏi phải chăng khuynh hướng
hào phóng của Teabing, cách nào đó, đã làm cho ông ta gặp rắc rối; nhà chức
trách Pháp dường như quyết tâm ngăn chặn ông. Edward còn chưa được cho bỉết là
ông bị kết những tội gì nhưng rõ ràng chúng rất nghiêm trọng. Theo yêu cầu của
nhà chức trách Pháp, cảnh sát Kent ra lệnh cho nhân viên kiểm soát không lưu
đánh điện bằng rađiô cho phi công của chiếc máy bay Hawker và yêu cầu anh ta đến
thẳng ga hành khách thay vì nhà chứa máy bay riêng của Teabing. Viên phi công đã
đổng ý rõ ràng anh ta tin câu chuyện khó tin về vụ rò rỉ khí ga.
Cho dù
cảnh sát Anh không thường mang vũ khí, nhưng do tính nghiêm trọng của tình hình
nên vẫn xuất hiện một đội được trang bị vũ khí. Tám cảnh sát với súng ngắn đứng
ở bên trong ga hành khách, chờ lúc động cơ máy bay dừng hẳn. Đến lúc đó người
phục vụ đường băng sẽ đặt những cái nêm an toàn dưới lốp xe để - máy bay không
còn dịch chuyển được nữa.
Sau đó cảnh sát xuất hiện và khống chế những
người trên máy bay cho đến khi cảnh sát Pháp đến xử lý tình hình.
Chiếc
Hawker đã xuống thấp, đang bay là là trên ngọn cây phía tay phải họ. Simon
Edwards đi xuống cầu thang để quan sát việc hạ cánh ngang tầm đường băng. Toán
cảnh sát Kent đã ở tư thế sẵn sàng, vừa vặn khuất lầm nhìn, và người nhân viên
bảo dưỡng đứng chờ đợi cùng với những cái nêm. Bên ngoài đường băng mũi của
chiếc Hawker nghếch lên và bánh xe khẽ chạm đất trong thời gian một hơi thuốc.
Chiếc máy bay giảm tốc độ lượn thành vệt từ phải sang trái trước ga hành khách,
thân màu trắng của nó sáng lấp lánh trong thời tiết ẩm ướt.
Nhưng thay vì
phanh lại và quay đầu vào ga hành khách, thì chiếc phản lực bình thản băng qua
làn đường vào ga và tiếp tục đi về phía hăng-ga của Teabing ở đằng
xa.
Tất cả cảnh sát quay lại và nhìn chằm chằm vào Edwards: "Tôi tưởng
anh nói người phi công đã đồng ý đến thẳng ga hành khách".
Edwards ngớ
ra: "Đúng thế mà!".
Lát sau, Edwards thấy mình ngồi kẹp trong chiếc xe
cảnh sát phóng qua đường băng về phía hăng-ga ở đằng xa. Tốp cảnh sát còn cách
cả năm trăm thước thì chiếc Hawker của Teabing đã thản nhiên tiến vào hăng-ga
riêng và bìến mất. Cuối cùng, khi tốp xe con tới và dừng kít lại bên ngoài
hăng-ga, cảnh sát ào ra, súng lăm lăm.
Edwards cũng nhảy ra.
Tiếng
ồn ào đinh taỉ.
Động cơ của chiếc Hawker vẫn gầm lên khi chiếc phản lực
chấm dứt vòng quay thông thường bên trong hăng-ga, vào vị trí quay mũi ra, sẵn
sàng cho chuyến xuất phát sau. Khi chiếc máy bay hoàn thành động tác quay vòng
180o và chạy về phía trước hăng-ga, Edwards có thể nhìn thấy mặt viên phi công,
có thể hiểu được anh ta kinh ngạc và sợ hãi như thế nào khi thấy cả một hàng rào
xe cảnh sát.
Phi công dừng hắn máy bay và tắt động cơ. Cảnh sát tràn vào,
chiếm lĩnh vị trí xung quanh chiếc phản lực. Edwards cùng với viên chánh thanh
tra cảnh sát quận Kent di chuyển một cách thận trọng về phía cửa máy bay. Sau
một vài giây, cửa máy bay mở ra.
Leigh Teabing xuất hiện ở khung cửa khi
chiếc thang điện nhẹ nhàng hạ xuống. Nhìn thấy cả một biển vũ khí nhằm vào mình,
ông chống đôi nạng và gãi đầu: "Simon, có phải là tôi trúng xổ số của cảnh sát
trong khi vắng nhà không?". Giọng ông có vẻ ngơ ngác hơn là lo
lắng.
Simon Edwards bước lên, ráng nuốt cái cục chẹn ngang cổ họng: "Chào
ngài, tôi xin lỗi về sự nhầm lẫn. Chúng tôi có khí rò rỉ và phi công của ngài
nói anh ta đến thẳng ga hành khách".
"Vâng, vâng, phải, nhưng thay vì như
thế, tôi bảo anh ta đến đây. Tôi đang muộn một cuộc hẹn. Tôi trả tiền cho
hăng-ga này, và cái chuyện vẽ vời né tránh chỗ khí ga rò rỉ nghe có vẻ quá ư
thận trọng".
"Tôi e rằng việc ngài đến đã làm chúng tôi hơi bất ngờ, thưa
ngài".
"Tôi biết Tôi về không đúng lịch chữa bệnh mà. Nói riêng với nhau,
phương pháp điều trị mới làm tôi bí tiểu tiện. Tôi nghĩ mình phải về để điều
chỉnh lại thuốc".
"Thưa ngài", chánh thanh tra cảnh sát quận Kent bước lên
phía trước, "tôi yêu cầu ngài ở lại trên máy bay khoảng nửa tiếng
nữa".
Teabing có ve không vui khi ông tập tễnh bước xuống cầu thang: "Tôi
e là không thể được. Tôi có một cuộc hẹn khám sức khoẻ". Ông xuống tới đường
băng. "Tôi không thể lỡ hẹn".
Chánh thanh tra tiến đến chặn không để cho
Teabing rời khỏi máy bay: "Tôi tới đây theo lệnh của Cảnh sát tư pháp
Pháp.
Họ quả quyết ngài đang chở những kẻ lẩn trốn pháp luật trên chiếc
máy bay này".
Teabing nhìn chằm chằm vào viên chánh thanh tra hồi lâu rồi
cười phá lên: "Đây là một trong những chương trình quay phim được giấu kín phải
không? Hay đấy!".
Chánh thanh tra không nao núng: "Điều này là nghiêm
trọng, thưa ngài. Cảnh sát Pháp khẳng định ngài còn có một con tin trên máy
bay".
Người hầu của Teabing là Rémy xuất hiện ở ô cửa đầu cầu thang: "Tôi
cảm thấy như mình là một con tin làm việc cho ngài Leigh, nhưng ngài cam đoan
với tôi rằng tôi được tự do đi khỏi". Rémy nhìn đồng hồ. "Ông chủ, quả là chúng
ta đang bị trễ đấy". Ông ta gật đầu về hướng chiếc limousine có thể kéo dài mang
nhãn hiệu Jaguar ở góc đằng kia hăng-ga. Chiếc ô tô đồ sộ màu gỗ mun với kính mờ
và lốp màu tường trắng. "Tôi sẽ đưa xe lại". Rémy bắt đầu xuống cầu
thang.
"Tôi e rằng chúng tôi không thể để các ông đi được", chánh thanh
tra nói. "Xin hãy trở lại máy bay. Cả hai ông. Đại diện của cảnh sát Pháp sẽ hạ
cánh trong chốc lát".
Lúc này, Teabing nhìn Simon Edwards: "Lạy Chúa,
Simon, chuyện này thật lố bịch! Chúng tôi không có bất cứ ai khác trên máy bay.
Chỉ như mọi khi - Rémy, viên phi công của chúng tôi và bản thân tôi. Có lẽ ông
có thể làm trung gian chứ? Hãy lên kiểm tra máy bay và chứng thực là không có ai
cả".
Edwards biết mình bị mắc kẹt: "Vâng, thưa ngài. Tôi có thể xem
xét".
"Đừng hòng!" Chánh thanh tra quận Kent tuyên bố, rõ ràng nắm khá
vững về những sân bay hành chính đủ để ngờ rằng Simon Edwards rất có thể nói dối
về những người trên máy bay nhằm duy trì được quan hệ làm ăn với Teabing tại sân
bay Biggin Hill. "Tự tôi sẽ xem xét".
Teabing lắc đầu: "Không, ông không
được làm thế, thanh tra".
Đây là tài sản cá nhân và cho tới khi ông có
lệnh khám xét, ông vẫn phải ở ngoài máy bay của tôi. Tôi đang đề xuất với ông
một phương án hợp lý đấy. Ông Edwards co thể thực hiện việc kiểm tra
này".
"Không thương lượng gì hết".
Thái độ của Teabing trở nên
lạnh lùng: "Thanh tra, tôi e mình không có thời gian để chiều theo trò chơi của
ông. Tôi đã muộn, và tôi phải đi. Nếu điều quan trọng đối với ông là ngăn chặn
tôi thì ông sẽ phải bắn tôi". Nói rồi, Teabing và Rémy đi quành qua viên chánh
thanh tra và ngang qua hăng-ga tới chỗ chiếc limousine đang đậu.
Chánh
thanh tra quận Kent chỉ cảm thấy ghê tởm đối với Leigh Teabing khi ông này tập
tễnh đi quành qua ông, đầy vẻ thách thức. Những người có đặc quyền đặc lợi luôn
luôn cảm thấy như là họ đứng trên luật pháp.
Họ không thể. Chánh thanh
tra quay lại và nhằm súng vào lưng Teabing: "Đứng lại! Tôi sẽ bắn!".
"Bắn
đi", Teabing nói mà không thèm dừng bước hoặc ngoái lại. Luật sư của ta sẽ nấu
xốt tinh hoàn của anh làm bữa điểm tâm. Và nếu anh dám lên máy bay của ta mà
không có lệnh khám xét, thì lá lách của anh sẽ là món tiếp theo
đấy".
Không lạ gì những ngón giương vây quyền lực, viên chánh thanh tra
chẳng hề run sợ. Về mặt thủ tục pháp lý, Teabing đã đúng và cảnh sát cần có lệnh
khám xét để lên chiếc phản lực của ông ta, nhưng vì chuyến bay này xuất phát từ
Pháp, và vì tay Bezu Fache đầy quyền lực đã trao quyền, nên chánh thanh tra quận
Kent cảm thấy chắc chắn sự nghiệp của mình sẽ tốt đẹp hơn bằng việc khám phá ra
những gì mà Teabing dường như cố gắng giấu kín trên chiếc máy bay
này.
"Chặn họ lại", chánh thanh tra ra lệnh. "Tôi sẽ lục soát máy
bay".
Người của ông ta lao tới, súng chĩa ra, chặn đường hai thày trò
Teabing, không cho tới chiếc limousine.
Bấy giờ Teabing mới quay lại:
"Thanh tra, đây là lời cảnh cáo cuối cùng dành cho anh. Đừng có nghĩ đến chuyện
lên chiếc máy bay này. Anh sẽ phải hối tiếc đấy".
Phớt lờ lời hăm dọa,
chánh thanh tra nắm chặt vũ khí và bước lên cầu thang rút của máy bay. Tới cửa
sập, ông ngó vào bên trong. Lát sau, ông bước vào cabin. Quái quỷ gì thế
này?
Ngoại trừ viên phi công vẻ như thất đảm trong khoang lái, máy bay
trống không. Hoàn toàn không có sự sống của con người. Nhanh chóng kiểm tra
phòng vệ sinh, ghế và nơi dể hành lý, chánh thanh tra không tìm thấy dấu vết của
bất cứ một người lẩn trốn nào… chưa nói gì đến nhiều cá nhân.
Bezu Fache
đã nghĩ ra chuyện quái quỉ gì vậy? Dường như Teabing đã nói thật.
Chánh
thanh tra đứng một mình trong cabin vắng teo và nuốt nghẹn. Cứt. Mặt ông ta bừng
đỏ, ông quay lại cầu thang rút, nhìn qua hăng-ga về phía hai thầy trò Leigh
Teabing đang đứng gần chiếc limousine trước những họng súng. "Để họ đi", thanh
tra ra lệnh. "Chúng ta nhận được thông tin sai rồi".
Mắt Teabing đầy vẻ
đe dọa, ngay cả qua chiều rộng của hăng-ga cũng thấy rõ: "Anh hãy chờ một cuộc
gọi từ các luật sư của ta. Và để tham khảo sau này, nên nhớ rằng cảnh sát Pháp
không thể tin cậy được".
Với lời đe doạ đó, người giúp việc của Teabing
mở cửa sau chiếc limousine và đỡ ông chủ tàn tật ngồi vào ghế sau. Rồi, đi theo
chiều dài của xe, ngồi vào sau vô lăng và khởi động. Cảnh sát tản ra khi chiếc
Jaguar bứt khỏi hăng-ga.
***
"Chơi tốt lắm, anh bạn", Teabing reo
lên từ ghế sau khi chiếc limousine tăng tốc ra khỏi sân bay. Ông quay mắt nhìn
vào góc phía trước lờ mờ sáng của khoang trong rộng rãi: "Mọi người đầy thoải
mái chứ?".
Langdon gật đầu yếu ớt. Ông và Sophie vẫn nằm khom khom trên
sàn xe, bên cạnh gã bạch tạng bị bịt miệng và trói chặt.
Nhiều phút
trước, lúc chiếc Hawker lăn bánh vào hăng-ga trống vắng, Rémy đã bật mở cửa sập
dưới bụng của máy bay trong khi nó khấp khểnh dừng lại giữa chừng vòng của.
Trong khi cảnh sát cấp tốc áp sát hăng-ga, Langdon và Sophie kéo gã thầy tu
xuống cầu thang rút đến ngang mặt đất và khuất tầm mắt sau chiếc limousine. Sau
đó, động cơ máy bay lại gầm lên, hoàn tất vòng của của nó khi đoàn xe cảnh sát
tràn vào hăng-ga.
Giờ đây, khi chiếc limousine phóng nhanh về phía Kent,
Langdon và Sophie lồm cồm đứng dậy đi về phía cuối khoang trong dài rộng của
chiếc xe thượng đẳng, để lại gã thầy tu bị trói trên sàn. Họ ngồi trên chiếc ghế
dài đối diện với Teabing. Ông già người Anh tặng cho cả hai một nụ cười tinh
quái và mở tủ rượu của quầy bar trong xe. "Tôi có thể mời các bạn một ly được
không? Một chút đồ nhắm nhé? Khoai tây rán? Hạt dẻ?".
Cả Sophie và
Langdon đều lắc đầu.
Teabing cười tươi và đóng quầy rượu: "Vậy thì ta bàn
về nấm mộ của người hiệp sĩ…".
Chú thích:
(1) Hangar: nhà để máy
bay, từ này đã Việt hóa, tuy không phổ thông
lắm.
-----------------------------------------
Chương 82
"Phố Fleet?" Langdon hỏi, nhìn Teabing ở phía sau xe. Có một
hầm mộ ở phố Fleet ư? Cho đến giờ, Leigh vẫn chơi trò kín kín hở hở về nơi mà
ông nghĩ là họ có thể tìm thấy "mộ của người hiệp sĩ", mà theo bài thơ, sẽ cung
cấp mật khẩu cho việc mở cái hộp mật mã nhỏ hơn.
Teabing cười và quay
sang Sophie: "Cô Neveu, hãy đưa cho chàng trai Harvard xem qua bài thơ một lần
nữa, được không?".
Sophie lục tìm trong túi và rút ra chiếc hộp mật mã
màu đen, bọc trong giấy da. Mọi người đã quyết định để lại chiếc hộp gỗ hồng mộc
và hộp mật mã lớn hơn trong két sắt của máy bay, chỉ mang theo cái họ cần là
chiếc hộp mật mã màu đen kín đáo và gọn nhẹ hơn nhiều. Sophie mở tấm giấy bọc và
đưa cho Langdon.
Mặc dù Langdon đã đọc bài thơ đó vài lần trên máy bay
rồi nhưng ông cũng không thể suy ra được một địa điểm cụ thể nào. Giờ đây, khi
đọc lại những từ trong bài thơ, ông từ từ nghiền ngẫm thật cẩn thận, hy vọng giờ
đây, ở trên mặt đất, tiết tấu ngũ bộ sẽ hé lộ ý nghĩa rõ ràng hơn.
Ở
London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng.
Kết quả công sức
chàng chuốc lấy cơn thịnh nộ Thần Thánh.
Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra
phải ở trên mộ chàng.
Nó nói về da thịt Hồng và tử cung mang hạt
giống.
Ngôn từ dường như khá đơn giản. Có một hiệp sĩ được chôn ở London.
Một hiệp sĩ đã khổ công làm một điều gì đó khiến Giáo hội tức giận. Một hiệp sĩ
mà mộ của chàng thiếu mất một quả cầu lẽ ra phải có ở đó. Hình tượng cuối cùng
được nhắc tới trong bài thơ - da thịt Hồng và tử cung mang hạt giống - là một ám
chỉ rõ ràng đến Mary Magdalene, đóa Hồng mang hạt giống của Jesus.
Mặc dù
bài thơ có vẻ dễ hiểu, Langdon vẫn không sao biết được hiệp sĩ đó là ai hoặc
được chôn ở đâu. Hơn nữa, một khi đã xác định được vị trí ngôi mộ, xem ra còn
phải tìm một cái gì đó bị thiếu. Trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ
chàng?
"Không nghĩ ra à?" Teabing tặc lưỡi ra vẻ thất vọng, mặc dù
Langdon cảm thấy nhà sử học Hoàng gia đang khoái vì đã nắm được một nguồn tin.
"Còn cô Neveu?".
Cô lắc đầu "Hai bạn sẽ làm gì nếu không có tôi?" Teabing
nói. "Được, tôi sẽ dẫn các bạn đi qua bài thơ này. Nó thực sự rất đơn
giản.
"Câu thứ nhất chính là chìa khóa. Xin đọc lên nào".
Langdon
đọc to: "Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng".
"Chính
xác. Một hiệp sĩ được pope - Giáo hoàng mai táng".
Ông nhìn Langdon.
"Theo anh, điều đó có nghĩa là gì?".
Langdon nhún vai: "Một hiệp sĩ đã
được một Giáo hoàng chôn cất. Một hiệp sĩ được một Giáo hoàng chủ trì tang
lễ".
Teabing cười to: "Ồ, thật. Bao giờ cũng lạc quan, Robert. Hãy xem
câu thứ hai. Hiển nhiên là hiệp sĩ này đã làm điều gì đó để chuốc lấy cơn thịnh
nộ Thần Thánh của Giáo hội. Hãy nghĩ lại. Hãy xét năng động giữa Giáo hội và các
Hiệp sĩ Templar.
Một hiệp sĩ đã được một Giáo hoàng mai táng phải
không?".
"Một hiệp sĩ bị một Giáo hoàng giết phải không?" Sophie
hỏi.
Teabing mỉm cười và vỗ vỗ vào đầu gối cô: "Suy luận tốt lắm, cô bạn
thân mến. Một hiệp sĩ bị một Giáo hoàng chôn. Tức bị giết".
Langdon nghĩ
đến chiến dịch khét tiếng truy quét các Hiệp sĩ Templar vào năm 1307 - ngày thứ
sáu 13 bất hạnh - khi Giáo hoàng Clement đã giết và chôn hàng trăm Hiệp sĩ
Templar. "Nhưng hẳn phải có vô số mộ của những hiệp sĩ bị Giáo hoàng
giết".
"Aha, không phải như vậy!" Teabing nói. "Nhiều người trong số họ
bị thiêu trên giàn thiêu và bị ném thẳng xuống sông Tiber. Nhưng bài thơ này
nhắc đến một ngôi mộ. Một ngôi mộ ở London. Và có một số hiệp sĩ được chôn ở
London". Ông dừng lại nhìn Langdon như thể đang đợi ánh sáng hé rạng trong đầu
ông ta. Cuối cùng ông sốt ruột: "Robert, vì Chúa! Ngôi nhà thờ do đội quân của
Tu viện Sion xây dựng ở London - chính các Hiệp sĩ Templar!".
"Nhà thờ
Temple?", Langdon hít vào, kinh ngạc. "Ở đó có hầm mộ?".
"Mười trong số
những ngôi mộ ghê sợ nhất anh có thể thấy".
Langdon chưa từng đến Nhà thờ
Temple, mặc dù ông đã đọc rất nhiều giới thlệu chiếu về nó trong quá trình
nghiên cứu về Tu viện Sion. Đã từng một thời là trung tâm cho mọi hoạt động của
các Hiệp sĩ Templar và Tu viện Sion ở nước Anh, Nhà thờ Temple được đặt tên như
thế để tôn vinh Solomon s Temple (Đền thờ Solomon) mà từ đó các Hiệp sĩ Templar
rút ra danh hiệu của mình cũng như những tài liệu Sangreal đã mang lại cho họ
ảnh hưởng to lớn ở Roma. Có rất nhiều truyện về các hiệp sĩ tiến hành những nghi
thức kỳ lạ, bí mật bên trong hậu cung khác thường của Nhà thờ Temple. "Nhà thờ
Temple ở phố Fleet?".
Thực tế, nó ở ngõ Inner Temple ngay sát phố Fleet".
Nom Teabing thật ranh mãnh. "Tôi muốn thấy anh đổ mồ hôi thêm tí nữa trước khi
tôi nói ra".
"Cảm ơn".
"Cả hai đều chưa đến đó phải
không?".
Sophie và Langdon gật đầu.
"Tôi không ngạc nhiên",
Teabing nói. "Giờ đây Nhà thờ Temple đã bị che khuất sau những tòa nhà lớn hơn.
Thậm chí rất ít người biết có nó ở đó. Nơi cổ kính bí hiểm. Kiến trúc ngoại giáo
đến tận cốt lõi".
Sophie có vẻ ngạc nhiên: "Ngoại giáo?".
"Ngoại
giáo mang tính chất đa thần!". Teabing thốt lên. "Nhà thờ hình tròn. Các Hiệp sĩ
Templar đã bỏ qua thiết kế quy hoạch hình chữ thập theo truyền thống của người
Cơ đốc và xây dựng một nhà thờ hình tròn hoàn hảo để tôn vinh mặt trời". Lông
mày ông biểu diễn một vũ điệu quỷ quái. "Một lời chào không mấy tế nhị gửi tới
những chàng trai ở Roma. Khác nào họ khôi phục lại Stonehenge (1). Ở trung tâm
London vậy".
Sophie nhìn Teabing: "Thế còn những câu sau của bài
thơ?".
Vẻ vui thích của nhà sử gia nhạt dần: "Tôi không chắc. Thật khó mà
lần cho ra. Chúng ta cần cẩn thận xem xét từng chiếc trong mười ngôi mộ. Nếu may
mắn, ta sẽ thấy một trong số đó rõ ràng là thiếu một quả cầu".
Langdon
nhận thấy họ đã gần mục tiêu đến mức nào. Nếu quả cầu thiếu vắng cho biết mật
khẩu thì họ có thể mở cái hộp mật mã thứ hai. Ông thấy khó tưởng tượng ra những
gì họ có thể tìm thấy bên trong.
Langdon xem lại bài thơ. Nó giống như
một loại trò chơi ô chữ thuở xưa. Một từ có năm chữ cái nói về Chén Thánh? Trên
máy bay, họ đã thử tất cả những mật khẩu có vẻ là hiển nhiên, GRAIL, GRAAL,
GREAL, VENUS, MARI JESUS, SARAH - nhưng hình trụ không nhúc nhích. Quá hiển
nhiên. Vẻ như có một từ năm chữ cái nào khác liên quan đến tử cung mang thai của
Rose. Việc một chuyên gia như Leigh Teabing cũng không nắm bất được cái từ này
cho Langdon thấy rằng đây không phải là một từ quy chiếu đến Chén Thánh một cách
thông thường.
"Ngài Leigh?" Rémy gọi qua vai. Ông ta đang nhìn họ trong
gương chiếu hậu qua tấm ngăn để ngỏ. "Ngài nói phố Fleet ở gần cầu Blackriars
phải không?".
"Đúng, đi theo đường Victoria Embankment".
"Tôi xin
lỗi. Tôi không biết chắc nó ở quãng nào. Mọi khi chúng ta chỉ đi đến bệnh
viện".
Teabing nhìn Langdon và Sophie, mắt long sòng sọc và lầu bầu. "Tôi
thề, đôi khi thật cứ như làm bảo mẫu giữ trẻ vậy. Xin đợi cho một lát. Các bạn
cứ tự nhiên dùng đồ uống và nhấm nháp". Ông rời bọn họ, hì hụi lết đến nói
chuyện với Rémy qua tấm ngăn để ngỏ.
Lúc này Sophie quay sang Langdon,
giọng của cô êm ả:
"Robert, không ai biết anh và tôi đang ở
Anh".
Langdon thấy cô nói đúng. Cảnh sát quận Kent hẳn đã nói với Fache
là chiếc máy bay trống không, và Fache ắt phải cho là họ vẫn ở Pháp. Chúng ta là
vô hình. Cái mẹo nhỏ của Leigh đã kiếm được cho họ vô khối thời
gian.
"Fache sẽ không bỏ qua dễ dàng", Sophie nói. "Ông ta đã sa đà quá
nhiều vào trò truy bắt này".
Langdon cố không nghĩ về Fache. Sophie đã
hứa sẽ làm mọi thứ trong khả năng của mình để miễn trách nhiệm cho Langdon khi
vụ việc này kết thúc, nhưng Langdon đã bắt đầu sợ là điều đó có thể không quan
trọng. Fache dễ có thể nằm trong âm mưu này. Mặc dù Langdon không thể tưởng
tượng được là Cảnh sát tư pháp lại dây dưa vào chuyện Chén Thánh, ông vẫn cảm
thấy đêm nay có quá nhiều trùng hợp ngẫu nhiên đến nỗi không thể bỏ qua khả năng
Fache có thể là một tòng phạm. Fache là người có đạo, và ông ta kiên quyêt đổ
tội giết người cho ta. Lại nữa, Sophie thì cứ biện luận rằng Fache đơn giản chỉ
quá sốt sắng thực hiện việc bắt giữ. Xét cho cùng, bằng chứng chống lại Langdon
là đáng kể. Ngoài việc tên của Langdon được viết nguệch ngoạc trên sàn bảo tàng
Louvre và trong sổ ghi các cuộc hẹn của Saunière, giờ đây đã rõ ra là Langdon đã
nói dối về bản thảo của mình rồi sau đó bỏ chạy. Theo gợi ý của
Sophie.
"Robert, tôi lấy làm tiếc anh đã dính líu quá sâu", Sophie nói,
đặt tay lên đầu gối Langdon. "Nhưng tôi cũng rất vui mừng là anh ở
đây".
Lời bình luận nghe có vẻ thực dụng hơn là lãng mạn, tuy nhiên,
Langdon vẫn cảm thấy lóe lên bất ngờ một tương quan hấp dẫn giữa hai người. Ông
mỉm cười một cách mệt mỏi với cô: "Tôi sẽ vui hơn nhiều khi tôi được ngủ một
giấc".
Sophie im lặng khoảng vài giây: "Ông tôi yêu cầu tôi tin anh. Tôi
lấy làm vui mừng là đã nghe lời ông tôi lần này".
"Ông của cô thậm chí
không hề biết tôi".
"Dù vậy, tôi vẫn không thể không nghĩ là anh đã làm
mọi thứ ông tôi muốn. Anh đã giúp tôi tìm ra viên đá đỉnh vòm, giải thích về
Sangreal, kể với tôi về nghi lễ trong tầng hầm", cô ngừng lại. "Không hiểu sao
đêm nay tôi cảm thấy gần gũi với ông tôi hơn nhiều năm trước đây. Tôi biết ông
tôi sẽ rất vui sướng về điều đó".
Đằng xa, đường chân trời của London đã
bắt đầu hiện ra qua làn mưa bụi lúc rạng đông. Trước kia, thống ngự ở London là
đồng hồ Big Bellvà cây cầu Tower Bridge, giờ đây, chân trời cúi chào Millennium
Eye (Con mắt Thiên niên kỷ) - chiếc bánh xe quay Ferris khổng lồ cực kỳ hiện đại
leo tớỉ độ cao một trăm năm mươi mét, từ đó ngắm quang cảnh thành phố thật ngây
ngất. Langdon đã thử lên đó một lần, nhưng những "khoang ngắm cảnh" khiến ông
nhớ đến những quan tài đá kín bưng, và ông quyết định đứng vững trên mặt đất mà
thưởng thức quang cảnh từ đôi bờ lộng gió của sông Thames.
Langdon cảm
thấy ai đó bóp mạnh vào đầu gối, kéo ông quay lại và thấy đôi mắt xanh của
Sophie dán vào mình. Ông nhận ra là cô đang nói với mình: "Anh nghĩ chúng ta nên
làm gì với những tài liệu Sangreal nếu chúng ta tìm thấy chúng?". Cô thì
thầm.
"Những gì tôi nghĩ không thành vấn đề". Langdon nói. "Ông cô đã
trao hộp mật mã cho cô, và cô nên làm theo những gì mà linh tính mách bảo rằng
ông cụ muốn cô làm như vậy".
"Tôi muốn biết quan điểm của anh. Rõ ràng
anh đã viết điều gì trong bản thảo đó làm ông tôi tin vào nhận định của anh. Ông
tôi đã lên lịch một cuộc gặp riêng với anh. Điều đó là hi hữu".
"Có thể
ông cụ muốn bảo tôi rằng tôi đã hiểu sai hoàn toàn".
"Tại sao ông tôi lại
bảo tôi tìm anh trừ phi ông tôi thích ý tưởng của anh? Trong bản thảo của mình,
anh ủng hộ ý kiến cho rằng tài liệu Sangreal nên được công bố hay cứ để bị chôn
vùi?".
"Cả hai ý đều không. Tôi không đưa ra nhận định theo một trong hai
cách đó. Bản thảo đó bàn về hệ biểu tượng của tính nữ thiêng liêng - truy tìm
những minh họa cho tính nữ thiêng liêng trong toàn bộ lịch sử. Chắc chắn tôi
không mạo nhận là mình biết chỗ Chén Thánh được cất giấu hoặc cho rằng nó có nên
được tiết lộ hay không".
"Tuy nhiên, anh đang viết một cuốn sách về nó,
vậy rõ ràng là anh cảm thấy thông tin nên được chia sẻ".
"Có một sự khác
nhau rất lớn giữa việc tranh luận trên cơ sở giả thuyết về một lịch sử khác của
Christ và…". ông ngừng lại.
"Và gì?".
"Và việc trình ra trước thế
giới hàng nghìn tài liệu cổ như là bằng chứng khoa học rằng Tân ước là thư chứng
sai".
"Nhưng anh đã nói với tôi rằng Tân ước được dựa trên những điều bịa
đặt".
Langdon mỉm cười: "Sophie, mọi niềm tin vào thế giới đều được dựa
trên những điều bịa đặt. Đó là đỉnh nghĩa về niêm tin - chấp nhận điều mà chúng
ta tưởng tượng là đúng, điều mà chúng ta không thể chứng minh. Mọi tôn giáo đều
miêu tả Thượng Đế qua ẩn dụ, ngụ ngôn và cường điệu, từ những người Ai Cập cổ
cho đến các trường đạo ngày Chủ nhật (2) hiện nay. Ẩn dụ là một cách để giúp trí
óc chúng ta xử lý những gì không thể xử lý được. Vấn đề chỉ phát sinh khi chúng
ta bắt đầu tin những ẩn dụ của chính chúng ta theo nghĩa đen".
"Vậy là
anh tán thành để những tài liệu Sangreal bị chôn vùi mãi mãi?".
"Tôi là
một sử gia. Tôi chống lại sự hủy hoại tài liệu, và tôi muốn thấy những học giả
tôn giáo có được thông tin nhiều hơn để suy ngẫm về cuộc đời khác thường của
Jesus Christ".
"Anh đang lập luận cho cả hai phía trong vấn đề của
tôi".
"Tôi á? Kinh Thánh là kim chỉ nam cơ bản cho hàng triệu người trên
hành tinh này, và bằng cách tương tự các kinh Koran, Torah và Pali Canon dẫn dắt
những người của các tôn giáo khác. Nếu cô và tôi có thể khai quật được tài liệu
nói ngược lại những câu chuyện thần thánh của tín ngưỡng Hồi giáo, tín ngưỡng Do
Thái, tín ngưỡng Phật giáo, tín ngưỡng của kẻ ngoại đạo, thì liệu chúng ta có
nên làm điều đó chăng? Chúng ta có nên phất lên một ngọn cờ và nói với các Phật
tử rằng chúng ta có bằng chứng là Phật tổ không sinh ra từ hoa sen? Hoặc giả là
Jesus không được sinh ra từ sự thụ thai trinh khiết theo nghĩa đen? Những ai
thực sự hiểu tín ngưỡng của mình đều hiểu những câu chuyện đó là ẩn
dụ".
Sophie có vẻ hoài nghi: "Bạn của tôi, một người sùng đạo Cơ Đốc dưt
khoát tin rằng Christ đi trên mặt nước theo nghĩa đen, biến nước thành rượu vang
theo nghĩa đen, và sinh ra từ sự thụ thai trinh khiết theo nghĩa
đen".
"Quan điểm của tôi chính xác là", Langdon nói, "Ngụ ngôn tôn giáo
đã trở thành một phần kết cấu của hiện thực. Và việc sống trong hiện thực đó
giúp hàng triệu người xử thế và trở thành người tốt hơn".
"Nhưng có vẻ
như hiện thực của họ là giả dối".
Langdon tủm tỉm cười: "Cũng chẳng giả
hơn hiện thực của một người giải mã toán học lại tin vào số tưởng tượng "i" bởi
vì nó giúp cô ta giải những mật mã".
Sophie cau mày: "Cái đó không hợp
lý".
Một khoảnh khắc trôi qua.
"Vừa nãy cô hỏi gì nhỉ?" Langdon
hỏi.
"Tôi không nhớ được".
Langdon mỉm cười: "Lần nào cũng hiệu
quả".
Chú thích:
(1) Công trình thời tiền sử gồm một vòng tròn
lớn với các trụ đá đồ sộ bao quanh một vòng tròn nhỏ hơn và bốn cổng
đá.
(2) Lớp học tổ chức vào ngày Chủ nhật giảng dạy về tôn giáo cho trẻ
em.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT