Chương 83
Chiếc đồng hồ đeo tay Chuột Mickey của Langdon chỉ gần 7 giờ
30 khi ông từ chiếc limousine nhãn hiệu Jaguar bước xuống con hẻm Inner Temple
với Sophie và Teabing. Bộ ba đi ngoằn ngoèo qua một khu bàn cờ chen chúc nhà cửa
để tới cái sân nhỏ bên ngoài Nhà thờ Temple. Tường đá đẽo thô ánh lên mờ mờ
trong mưa, và chim câu gù trong các chi tiết kiến trúc trên đầu.
Nhà thờ cổ
kính này của London được xây dựng hoàn toàn bằng đá Caen. Gồm một toà nhà tròn
gây ấn tượng với mặt tiền dữ dằn, một thấp nhỏ ở trung tâm và gian giữa giáo
đường nhô ra về một bên, nhà thờ nhìn giống một pháo đài quân sự hơn là một nơi
thờ cúng. Được Heraclius, giáo trưởng của Jerusalem, làm phép vào ngày 10 tháng
2 năm 1185, nhà thờ đã tồn tại qua tám thế kỷ hỗn loạn về chính trị, cuộc đại
hoả hoạn ở London, chiến tranh thế giới lần thứ nhất, và chỉ bị hư hỏng nặng nề
nhất trong lần bị không quân Đức ném bom cháy vào năm 1940.
Sau chiến tranh,
nó đã được phục chế trở về dáng vẻ hùng vĩ hoang dại ban đầu.
Nét giản dị
của hình tròn. Langdon nghĩ thầm, lần đầu tiên được dịp chiêm ngưỡng toà nhà.
Kiến trúc thô nháp và đơn sơ, khiến người ta nhớ đến Castel Sant Angelo xù xì ở
Rôma hơn là Điện Pantheon tao nhã. Dãy nhà phụ hình hộp nhô ra ở bên phải thật
chướng mắt, mặc dù nó chẳng làm mấy tí để che khuất hình thù ngoại giáo ban đầu
của cấu trúc nguyên thủy.
"Ngày thứ bảy, giờ này vẫn là sớm", Teabing nói,
tập tễnh đi về phía lối vào, "cho nên tôi nghĩ chúng ta sẽ không vướng phải lễ
chầu nào đâu".
Cổng nhà thờ là một hốc đá, bên trong nó là một cánh cửa gỗ
lớn. Ở bên trái cửa, nom hoàn toàn lạc chỗ, treo một bảng thông tin dán đầy
những chương trình hoà nhạc và thông báo các buổi lễ chầu.
Teabing cau mày
khi đọc bảng tin: "Hai giờ nữa họ mới mở cửa cho khách tham quan". Ông đi tới
cánh cửa và đẩy thử.
Cánh cửa không nhúc nhích. Teabing áp tai vào gỗ và
lắng nghe. Sau một lát, ông lùi lại, vẻ mưu mô hiện trên nét mặt khi ông chỉ lên
bảng thông báo. "Robert, kiểm tra lại lịch lễ chầu xem! Ai chủ trì tuần
này?".
***
Bên trong nhà thờ, một lễ sinh đang sắp hoàn thành việc hút
bụi những gối quỳ làm lễ Thánh thể thì nghe thấy tiếng gõ cửa thánh đường. Cậu
ta lờ đi. Cha Harvey Knowles có chìa khoá riêng và hai tiếng nữa mới phải có
mặt. Tiếng gõ cửa có lẽ là của một khách du lịch tò mò hay một kẻ ăn xin. Cậu ta
cứ hút bụi tiếp, nhưng tiếng gõ vẫn tiếp tục. Không biết đọc à? Tấm bảng treo ở
cửa đã nói rõ là nhà thờ sẽ không mở cửa cho đến 9 giờ 30 ngày thứ bảy. Cậu bé
quay lại với công việc của mình.
Đột nhiên, tiếng gõ chuyển thành những cú
đập rất mạnh như thể ai đó đang nện vào cửa bằng một thanh kim loại vậy.
Cậu
nhỏ tắt máy hút bụi và cáu kỉnh đi ra phía cửa. Mở khoá cửa từ phía trong, cậu
giật tung cánh cửa. Ba người đứng ngay ở lối vào. Khách du lịch, cậu càu nhàu:
"Chúng tôi mở cửa vào lúc 9 giờ 30".
Người đàn ông phục phịch, có vẻ là
người dẫn đầu, chống đôi nạng bằng kim loại bước lên phía trước: "Ta là Ngài
Leigh Teabing", ông ta nói, giọng Anh Saxon rõ ra là người trí thức, chắc hẳn
cháu biết, ta đang tháp tùng ông bà Christopher Wren đệ tứ", ông bước sang bên,
điệu đàng vung tay về phía cặp uyên ương hấp dẫn phía sau. Người phụ nữ nét mặt
dịu dàng, mái tóc rậm màu vang đỏ. Người đàn ông cao, tóc sẫm màu và trông quen
quen.
Cậu lễ sinh không biết phản ứng ra sao. Ngài Christopher Wren là vị
mạnh thường quân nổi tiếng nhất góp công đức vào Nhà thờ Temple. Ông đã cho
trùng tu lại mọi hư hại của nhà thờ do cuộc Đại Hoả Hoạn gây ra. Ông đã mất từ
đầu thế kỉ 18.
"Ưm…rất hân hạnh được gặp ngài".
Người đàn ông chống nạng
cau mày: "Thật may là cháu không phải là chân bán hàng, cháu chẳng đon đả gì cho
lắm. Cha Knowles đâu?".
"Hôm nay là thứ bảy. Chưa tới giờ Cha đến".
Vẻ
cau có của người đàn ông chân què càng tăng thêm: "Thế mà gọi là biết ơn đấy!
Ông ta cam đoan với chúng ta rằng ông ta sẽ ở đây, nhưng xem ra chúng ta phải
tiến hành công việc mà không có ông ta. Sẽ không mất nhiều thời gian
đâu".
Cậu bé lễ sinh vẫn đứng chắn lối vào: "Xin lỗi, việc gì không mất
nhiều thời gian?".
Đôi mắt của vị khách quắc lên, và ông ta cúi người về
phía trước thì thầm như để tránh cho mọi người khỏi bối rối: "Này chú nhỏ, hình
như cháu là người mới ở đây thì phải. Hàng năm, hậu duệ của ngài Christopher
Wren đều mang một nhúm tro của ngài để rải trong điện thờ linh thiêng này. Đây
là một phần di chúc mà ngài để lại. Không ai thật sự sung sướng khi thực hiện
chuyến đi này, nhưng chúng ta biết làm thế nào?".
Cậu bé lễ sinh đã ở đây
được hai năm nhưng chưa bao giờ nghe nói về tục lệ này: "Tốt nhất là ngài đợi
đến 9 giờ 30. Nhà thờ vẫn chưa mở cửa, và cháu thì vẫn chưa hút bụi
xong".
Người đàn ông chống nạng nhìn trừng trừng, giận dữ: "Này chú nhỏ, lý
do duy nhất khiến tòa nhà này còn lại được bất cứ cái gì để cho cậu hút bụi là
nhờ quí ngài trong túi áo của bà kia đấy".
"Cháu không hiểu?".
"Bà
Wren", người đàn ông chống nạng nói, "bà vui lòng cho cậu bé xấc xược này xem lọ
tro trong túi bà chứ?".
Người phụ nữ do dự trong giây lát rồi, như tỉnh sau
cơn nhập đồng, thò tay vào túi áo len, lấy ra một vật hình trụ bọc trong một
miếng vải.
"Kia, cậu thấy chứ?". người đàn ông chống nạng gắt: "Bây giờ cậu
có thể hoặc là tôn trọng ý nguyện của người đã khuất và để chúng tôi rắc tro của
ông ấy vào trong điện thờ, hoặc tôi sẽ thưa với cha Knowles là chúng tôi vừa bị
đối xử thế nào".
Cậu lễ sinh lưỡng lự vì đã quá quen với sự tuân thủ nghiêm
ngặt của cha Knowles với truyền thống nhà thờ… và, quan trọng hơn, với sự cáu
giận của cha khi bất cứ thứ gì toả lên nơi thờ cúng lâu đời này ngoại trừ ánh
sáng thích hợp. Có thể cha Knowles đã quên bẵng là những thành viên của gia đình
này sẽ tới. Nếu vậy, để họ ra đi còn nguy hại hơn là cứ để họ vào. Xét cho cùng,
họ nói chỉ mất một phút thôi mà. Có hại gì đâu?
Hai cậu lễ sinh đứng sang
một bên để cho ba người đi qua, cậu dám thề rằng ông bà Wren trông cũng có vẻ
hoang mang về chuyện này như cậu. Vẫn ngờ vực, nhưng cậu quay lại với mấy việc
vặt của mình, theo dõi họ qua khoé mắt.
Langdon không khỏi mỉm cười khi ba
người đi sâu hơn vào trong nhà thờ: "Leigh", ông thì thầm, ngài nói dối quá
giỏi".
Mắt Teabing lấp lánh: "Câu lạc bộ sân khấu Oxford mà. Họ vẫn còn nói
về vai Julius Caesar của tôi. Tôi chắc không ai khác đã từng diễn màn đầu Hồi Ba
với nhiều tâm huyết hơn".
Langdon liếc sang: "Tôi tưởng Ceasar đã chết ở màn
này rồi kia mà".
Teabing cười tự mãn: "Phải, nhưng cái áo choàng La Mã của
tôi mở toang ra khi tôi ngã, và tôi đã phải nằm trên sàn diễn suốt nửa tiếng
đồng hồ với thằng bé thòi lòi ra lủng lẳng. Thậm chí, tôi không dám động đậy một
cơ bắp nào. Rất chi là xuất sắc, xin thưa với anh thế".
Langdon co rúm
người. Rất tiếc là tôi đã bỏ lỡ cảnh đó.
Khi cả nhóm đi xuyên qua gian nhà
phụ hình chữ nhật về phía cổng tò vò dẫn vào nhà thờ chính, Langdon rất ngạc
nhiên về sự khắc khổ ở đây. Mặc dù thiết kế của bàn thờ cũng giống như ở nhà thờ
Cơ đốc, nhưng các đồ bày biện thật ảm đạm và lạnh lẽo, không chút trang trí
truyền thống. "Thật tiêu điều".
Langdon thì thầm.
Teabing tặc lưỡi: "Nhà
thờ của nước Anh mà. Những tín đồ Giáo phái Anh uống ực tôn giáo của mình một
cách trực tiếp.
Không có gì để làm sao lãng đi nỗi khổ cực của
họ".
Sophie chỉ tay qua khoảng trống rộng nhường chỗ cho phần hình tròn của
nhà thờ. "Chỗ này trông như một pháo đài", cô nói nhỏ.
Langdon đồng ý. Thậm
chí từ đây, những bức tường trông hùng dũng lạ thường.
"Các Hiệp sĩ Templar
là những chiến binh mà!" Teabing nhắc nhở tiếng nạng nhôm của ông vang trong
khoảng không. "Một xã hội tôn giáo - quân sự. Nhà thờ là pháo đài và ngân hàng
của họ".
"Ngân hàng?", Sophie hỏi, liếc nhìn Leigh.
"Chúa ơi, đúng vậy.
Chính các Hiệp sĩ Templar đã phát minh ra khái niệm ngân hàng hiện đại. Đối với
giới quý tộc châu Âu, mang vàng theo trong những chuyến đi là rất nguy hiểm, do
đó các Hiệp sĩ Templar đã cho phép giới quý tộc gửi vàng vào Nhà thờ Temple gần
nhất và sau đó rút vàng ra từ bất kỳ một nhà thờ nào khác của họ ở khắp châu Âu.
Tất cả những gì họ cần là giấy tờ hợp lệ". Ông nháy mắt. "Và một ít tiền hoa
hồng. Họ là những cái máy ATM nguyên thuỷ". Teabing chỉ về phía một cửa sổ kính
mờ, nơi ánh mặt trời mới ló khúc xạ qua một chiến binh áo trắng cưỡi một con
ngựa hồng: "Alanus Marcel", Teabing nói, "Ông Trùm của các Hiệp sĩ Templar vào
đầu những năm 1200. Ông và những người kế vị ông ta thực tế nắm giữ chức Nghị
viên vùng Primus Baro Angiae".
Langdon ngạc nhiên: "Nam tước đầu tiên của
vùng này?".
Teabing gật đầu: "Ông Trùm của các Hiệp sĩ Templar, một số người
khắng định, nắm giữ nhiều quyền lực hơn cả nhà vua".
Khi họ đến bên ngoài
điện thờ hình tròn, Teabing liếc nhanh nhìn cậu lễ sinh đang hút bụi cách đó một
quãng. "Cô biết không". Teabing nói nhỏ với Sophie, "người ta kể là có lần Chén
Thánh đã từng được giữ qua đêm trong nhà thờ này khi các Hiệp sĩ Templar chuyển
chỗ cất giấu nó. Cô có thể tưởng tượng được bốn cái rương tài liệu Sangreal đã
được đặt ở ngay đây cùng với chiếc quan tài bằng đá của Mary Magdalene không? Nó
làm tôi nổi da gà".
Langdon cũng cảm thấy sởn da gà khi họ bước vào trong
căn phòng hình tròn này. Cặp mắt ông lướt theo đường lượn vòng của tường đá
trắng, ngắm nhìn những phù điêu trên máng xối - ma quỷ, quái vật, những mặt
người đau đớn - tất cả đều nhìn vào phía trong. Dưới những phù điêu là một hàng
ghế đá cuộn quanh chu vi căn phòng.
"Rạp hát hình tròn", Langdon nói
khẽ.
Teabing nhấc một chiếc nạng, chỉ về góc xa bên trái của căn phòng rồi
lại sang góc xa bên phải. Langdon đã nhìn thấy.
Mười hiệp sĩ đá.
Năm ở
bên trái. Năm ở bên phải.
Nằm ngửa trên sàn nhà, những hình người được tạc
theo kích thước bằng người thật nghỉ ngơi trong những tư thế rất thanh thản.
Những hiệp sĩ được thể hiện với đầy đủ áo giáp, khiên và kiếm, cùng những ngôi
mộ khiến Langdon có cái cảm giác bất an như thể có ai đó đã lẻn vào trong khi
những hiệp sĩ này đang ngủ và đổ một lớp thạch cao lên người họ vậy. Tất cả
những hình người ở đây đã dầu dãi phong sương và mặc dù vậy mỗi hình đều rất
riêng, độc đáo - các bộ phận áo giáp, tư thế tay chân rõ rành, nét mặt và dấu
hiệu trên khiên, tất cả đều khác nhau.
Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được
Giáo hoàng mai táng.
Langdon cảm thấy run khi bước từng bước sâu hơn vào căn
phòng hình tròn.
Chương 84
Trong một con hẻm đầy rác rưới rất gần Nhà thờ Temple, Rémy
Legaludec lái chiếc limousine hiệu Jaguar tới đậu sau một dãy thùng đựng rác
thải công nghiệp. Tắt máy, ông ta kiểm tra xung quanh. Vắng tanh. Ông ta ra khỏi
xe, bước về phía sau, và lại trèo vào khoang chính của chiếc limousine nơi đặt
gã tu sĩ.
Cảm thấy sự có mặt của Rémy, gã thầy tu ở phía sau dứt ra khỏi
trạng thái nửa như cầu nguyện nửa như mê, đôi mắt đỏ của hắn trông có vẻ tò mò
hơn là sợ hãi. Suốt buổi tối, Rémy đã rất phục khả năng giữ bình tĩnh của con
người đang bị trói gô này. Sau đôi chút kháng cự ban đầu trong chiếc xe Range
Rover, gã tu sĩ có vẻ như chấp nhận cảnh ngộ và phó mặc sốphận cho quyền lực tối
cao.
Nới lỏng nơ đeo cổ, Rémy mở khuy chiếc áo cổ cao, hồ bột xòe sang hai
bên của mình và cảm thấy như lần đầu tiên được thở sau nhiều năm. Đi tới quầy
rượu của chiếc limousine, ông ta tự rót cho mình một ly vodka Smirnoff, ông ta
tợp luôn một hơi, và rót tiếp ly thứ hai.
Chẳng bao lâu nữa ta sẽ thành
người thư nhàn.
Lục trong quầy rượu, Rémy tìm thấy một cái mở rượu tiêu
chuẩn và bật mở lưỡi dao sắc nhọn. Con dao thường dùng để cắt lớp thiếc bọc trên
đầu nút những chai rượu vang loại tốt, nhưng sáng nay, nó sẽ phục vụ một mục
đích ly kỳ hơn nhiều. Rémy quay lại và đối mặt với Silas, giơ lưỡi dao sáng
loáng lên.
Bây giờ đôi mắt đỏ ánh lên sự sợ hãi.
Rémy mỉm cười và đi về
phía sau chiếc limousine. Gã tu sĩ lùi lại vật lộn với dây trói.
"Nằm im",
Rémy thì thầm, giơ con dao lên.
Silas không thể tin là Chúa đã bỏ hắn. Thậm
chí nỗi đau thể xác do bị trói cũng được Silas chuyển thành một bài tập tâm
linh, biến cái giật thon thót của những cơ bắp khát máu thành sự nhắc nhớ tới
nỗi đau mà Chúa Kirixitô đã phải chịu đựng. Mình đã cầu nguyện cả đêm cho sự
giải thoát. Giờ đây, khi con dao hạ xuống, Silas nhắm chặt mắt lại.
Một cơn
đau xé xuyên qua bả vai. Hắn gào lên, không thể tin được là hắn sắp chết ở đây,
phía sau chiếc limousine này, không thể tự bảo vệ. Mình đang làm công việc của
Chúa. Thầy Giáo đã nói thầy sẽ bảo vệ mình.
Silas cảm thấy cái gì âm ấm nhoi
nhói lan ra khắp lưng và vai, hắn có thể hình dung máu của chính mình đang trào
ra trên da thịt. Bây giờ cơn đau nhức nhối xuyên qua đùi gã, và hắn cảm thấy ập
tới con sóng ngẫm dội ngược lại của sự mất phương hướng - cơ chế đề kháng của cơ
thể chống lại nỗi đau.
Khi cơn đau rát xé dọc các cơ bắp, hắn nhắm mắt chặt
hơn, quyết định rằng hình ảnh cuối cùng của cuộc đời hắn sẽ không phải kẻ giết
mình. Thay vào đó, hắn tưởng tượng ra một giám mục Aringarosa trẻ hơn, đứng
trước nhà thờ nhỏ ở Tây Ban Nha… nhà thờ mà ông và Silas đã xây bằng chính đôi
bàn tay họ. Sự khởi đầu của cuộc đời mình.
Silas cảm thấy như thể thân xác
đang bị thiêu trên lửa.
"Uống một ly đi", người đàn ông mặc xmôckinh thì
thào giọng Pháp, "nó sẽ giúp cho khí huyết lưu thông".
Silas mở choàng mắt,
ngạc nhiên. Một hình ảnh nhạt nhòa cúi vế phía hắn, đưa cho hắn một ly chất
lỏng. Một đống băng dính bị xé vụn nằm trên sàn bên cạnh con dao vấy
máu.
"Uống đi", ông ta lặp lại, "cơn đau mà anh cảm thấy là do máu dồn vào
các cơ bắp".
Silas cảm thấy cơn dập dồn nóng rát giờ chuyển thành giậm giựt
nhoi nhói. Vị vodka thật kinh khủng, nhưng hắn vẫn uống, cảm thấy biết ơn vì mặc
dù số phận đã giáng cho hắn một phần lớn của cái rủi đêm nay, nhưng Chúa đã giải
quyết tất cả bằng một xoay chuyển diệu kì.
Chúa đã không bỏ rơi
mình.
Silas biết giám mục Aringarosa ắt gọi diễn biến này là sự canthiệp của
Chúa.
"Tôi đã muốn giải thoát cho anh sớm hơn", người hầu biện minh, nhưng
không thể. Với sự xuất hiện của cảnh sát ở Château Villette, và sau đó ở sân bay
Biggin Hill, đây là thời điểm khả thi đầu tiên. Anh có hiểu không,
Silas?".
Silas giật mình lùi lại: "Ông biết tên tôi?".
Người hầu mỉm
cười.
Silas ngồi dậy, xoa những cơ bắp tê cứng, cảm xúc của hắn lúc này là
một dòng lũ pha lẫn bán tín bán nghi, cảm phục và bối rối: "Ông có phải là… Thầy
Giáo?".
Rémy lắc đầu, cười cái câu hỏi hàm ý xác nhận: "Tôi ước gì tôi có
được quyền năng đó. Không, tôi không phải là Thầy Giáo. Như anh, tôi phục vụ
ông. Nhưng Thầy Giáo đánh giá cao anh. Tên tôi là Rémy.".
Silas kinh ngạc:
"Tôi không hiểu. Nếu ông làm việc cho Thầy Giáo, tại sao Langdon lại mang viên
đá đỉnh vòm về nhà của ông?".
"Không phải nhà của tôi, mà là nhà của nhà sử
học hàng đầu thế giới về Chén Thánh, ngài Leigh Teabing".
"Nhưng ông sống ở
đó. Có lẽ là…".
Rémy mỉm cười, dường như chẳng mắc mớ gì với việc Langdon
chọn nơi ẩn náu có vẻ như một sự trùng hợp: "Tất cả đều có thể đoán được. Robert
Langdon đang sở hữu viên đá đỉnh vòm, và ông ta cần sự giúp đỡ. Còn nơi nào hợp
lý hơn là nhà của Leigh Teabing? Trước hết việc tôi tình cờ sống ở đó là lý do
tại sao Thầy Giáo tiếp cận tôi". Ông ta dừng lại. "Anh nghĩ làm thế nào mà Thầy
Giáo biết nhiều như vậy về Chén Thánh?".
Bây giờ sự việc bắt đầu hiện rõ và
Silas vô cùng sửng sốt. Thầy Giáo đã tuyển một người hầu có thể truy nhập tất cả
những gì mà ngài Teabing nghiên cứu. Thật là xuất sắc.
"Có rất nhiều điều
tôi cần nói với anh", Rémy nói, đưa cho Silas khẩu Heckler & Knoch đã nạp
đạn. Rồi ông ta với tay qua vách ngăn để ngỏ, lấy ra từ hộp đựng găng một khẩu
súng lục ổ quay nhỏ gọn trong lòng bàn tay. "Nhưng trước tiên, anh và tôi có
việc cần làm đã".
***
Đại uý Fache bước từ chiếc chuyên cơ xuống sân bay
Biggin Hill và lắng nghe đầy ngờ vực báo cáo của chánh thanh tra quận Kent về
những gì đã xảy ra trong hăng-ga của Teabmg.
"Chính tôi đã lục soát chiếc
máy bay", chánh thanh tra quả quyết "và không có một ai trong đó". Giọng ông ta
trở nên ngạo mạn. "Và tôi nên nói thêm rằng nếu ngài Leigh Teabing khiếu tố tôi,
tôi sẽ… ".
"Ông đã thẩm vấn người phi công chưa?".
"Tất nhiên là chưa.
Anh ta là người Pháp, và quyền thực thi pháp lý của chúng tôi yêu cầu…
".
"Đưa tôi tới chỗ chiếc máy bay".
Khi tới hăng-ga, Fache chỉ cần sáu
mươi giây để phát hiện ra một vết máu bất thường trên sàn lát gần chỗ chiếc
limousine vừa đỗ. Fache bước lên máy bay và gõ mạnh vào thân máy bay.
"Đây
là đại úy Cảnh sát tư pháp Pháp. Mở cửa ra!".
Viên phi công sợ hãi mở cửa
xập và hạ cầu thang rút.
Fache trèo lên. Ba phút sau, với sự trợ giúp của
khẩu súng, ông ta đã có được đầy đủ lời thú nhận, kể cả sự mô tả gã tu sĩ bạch
tạng. Thêm vào đó, ông ta còn biết rằng viên phi công đã thấy Langdon và Sophie
để lại vật gì trong két an toàn của Teabing, một thứ hộp gỗ gì đó. Mặc dù viên
phi công phủ nhận không biết có gì trong hộp, anh ta thừa nhận là Langdon chỉ
tập trung chú ý vào nó trong suốt chuyến bay tới London.
"Mở két an toàn
ra", Fache yêu cầu.
Viên phi công có vẻ sợ hãi. "Tôi không biết mã khoá
số!".
"Đáng tiếc. Tôi đang định đề nghị để anh được giữ bằng lái của
mình".
Viên phi công vặn hai tay vào nhau: "Tôi biết một vài người trong bộ
phận duy tu ở đây. Có lẽ họ có thể khoan nó chăng?".
"Anh có nửa
giờ".
Viên phi công lao tới máy bộ đàm.
Fache bước về phía sau máy bay
và tự rót rượu cho mình.
Lúc này vẫn sớm, nhưng vì ông ta chưa được chợp mắt
nên đây không kể là uống rượu trước buổi trưa. Ngồi xuống chiếc ghế bọc vải
nhung, ông ta nhắm mắt lại, cố gắng phân tích những gì đang diễn ra. Sai lầm của
cảnh sát quận Kelt có thể làm mình trả giá đắt. Giờ đây, mọi người đang dồn sức
tìm kiếm chiếc limousine Jaguar màu đen.
Chuông điện thoại của Fache vang
lên, và ông ta ước có được một phút bình yên. "Alô?".
"Tôi đang trên đường
tới London", đó là giám mục Aringarosa. "Tôi sẽ tới nơi trong vòng một giờ
nữa".
Fache ngồi xuống: "Tôi tưởng ngài đang đi Paris?".
"Tôi rất lo
lắng và đã thay đổi kế hoạch".
"Lẽ ra ngài không nên làm vậy".
"Ông đã
tìm được Silas chưa?".
"Chưa. Những kẻ bắt giữ hắn đã qua mặt được cảnh sát
địa phương trước khi tôi hạ cánh".
Giọng Aringarosa gắt lên, giận dữ: "Ông
đã cam đoan với tôi là sẽ ngăn chiếc máy bay đó lại!".
Fache hạ thấp giọng:
"Thưa giám mục, xét tình cảnh của ngài, tôi khuyên ngài đừng thử thách lòng kiên
nhẫn của tôi ngày hôm nay. Tôi sẽ tìm thấy Silas cùng những tên kia trong thời
hạn sớm nhất có thể. Ngài sắp hạ cánh ở đâu?".
"Chờ một lát", Aringarosa che
ống nghe, rồi nói tiếp, "tay phi công đang xin phép hạ cánh ở Heathrow. Tôi là
hành khách duy nhất của anh ta, nhưng việc đổi hướng bay là ngoài kế
hoạch".
"Hãy bảo anh ta tới sân bay Biggin Hill. Tôi sẽ xin cho anh ta hạ
cánh. Nếu tôi không có ở đây khi ngài hạ cánh, tôi sẽ cho xe đợi ngài".
"Cám
ơn ông".
"Như tôi đã nói trong lần đầu chúng ta nói chuyện với nhau, thưa
giám mục, ngài nên nhớ kỹ rằng ngài không phải là người duy nhất sắp mất hết mọi
thứ".
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT