Langdon có vẻ do dự, như thể tính tò mò bác học trong ông Có nguy cơ lấn át óc nhận định tỉnh táo và đẩy ông rơi trở lại vào tay Fache.
"Nào, ông đi đi chứ", Sophie nở một nụ cưới tri ân với ông.
"Tôi sẽ gặp ông ở đại sứ quán, ông Langdon".
Langdon có vẻ không thật hài lòng: "Tôi sẽ gặp lại cô ở đó với một điều kiện", ông đáp, giọng nghiêm nghị.
Cô dừng lại, giật mình: "Điều kiện gì?".
"Rằng cô thôi không gọi tôi là ông Langdon nữa".
Sophie phát hiện thấy một lời ám chỉ lờ mờ đằng sau nụ cười gượng gạo trên
gương mặt Langdon, rồi cô cảm thấy mình mỉm cười đáp lại: "Chúc may mắn, Robert".
Khi Langdon đi hết cầu thang, một thứ mùi không thể nhầm
lẫn được của dầu hạt lanh và vôi vữa xông vào mũi ông. Phía trước là tấm bảng sáng đèn ghi chữ SORTIE/EXIT (Lối ra) có mũi tên chỉ xuống một
hành lang dài.
Langdon bước vào đoạn hành lang.
Bên tay phải, một xưởng phục chế tối lờ mờ từ trong đó ngó ra cả một đạo quân tượng ở các công đoạn sửa chữa khác nhau.
Bên trái, Langdon nhìn thấy một dãy phòng trông giống như những lớp học
nghệ thuật ở Đại học Harvard - hàng hàng giá vẽ tranh, bảng màu, dụng cụ đóng khung - một dây chuyền lắp ráp mỹ thuật.
Đi xuôi theo hành
lang, Langdon tự hỏi liệu có thể đến lúc nào đó, ông giật mình tỉnh giấc thấy mình nằm trên chiếc giường ở Cambridge. Ông cảm thấy cá buổi tối
hôm nay giống như một giấc mơ kỳ quái. Mình sắp sửa lao ra khỏi bảo tàng Louvre… một kẻ trốn chạy.
Lời nhắn thông minh vận dụng anagram của
Saunière vẫn ở trong đầu ông, và Langdon tự hỏi Sophie sẽ tìm thấy gì ở
bức Mona Lisa… nếu như quả là có gì. Xem ra cô tin chắc rằng ông mình cố ý bảo cô đến thăm lại bức tranh nổi tiếng ấy một lần nữa. Mặc dù đây có vẻ là một kiến giải hợp lý, lúc này đây Langdon vẫn cảm thấy bị ám ảnh
bởi một nghịch lý rắc rối.
P.S. Hãy tìm Robert Langdon.
Saunière đã viết tên của Langdon lên sàn, bảo Sophie tìm ông. Nhưng tại sao chứ? Chỉ đơn thuần để Langdon giúp cô ấy giải một anagram.
Điều này có vẻ vô lý.
Xét cho cùng, Saunière chẳng có lý do gì để nghĩ rằng Langdon đặc biệt giỏi đoán anagram. Mình với với ông ta thậm chí còn chưa hề gặp nhau cơ mà.
Quan trọng hơn, Sophie đã tuyên bố thắng rằng lẽ ra cô ấy đã có thể tự
giải lấy anagram đó. Chính Sophie là người nhận ra dãy số Fibonacci và
chắc chắn là nếu có thêm một ít thời gian nữa, cũng chính Sophie sẽ là
người sẽ giải mã được lời nhắn đó mà chẳng cần sự giúp đỡ của Langdon.
Sophie có phận sự phải tự giải lấy anagram đó. Langdon dột nhiên cảm thấy tin
chắc hơn về điều này. Nhưng kết luận đó rõ ràng để toác ra một lỗ hổng
trong logic hành động của Saunière.
Tại sao lại là mình? Langdon tự
hỏi, trong khi vẫn tiến về phía đầu toà nhà. Tại sao Saunière khi chết
lại muốn đứa cháu đến tìm mình? Cái gì là điều mà Saunière nghĩ rằng
mình biết?
Bất ngờ giật thót người, Langdon dừng phắt lại. Mắt mở
to, ông thọc tay vào túi, lôi ra tờ giấy in từ máy tính. Ông nhìn chằm
chằm vào dòng cuối cùng trong lời nhắn của Saunière.
P.S Hãy tìm Robert Langdon.
Ông dán mắt vào hai chữ cái.
Trong khoảnh khắc đó, Langdon cảm thấy cái mớ bòng bong các biểu tượng của
Saunière đột nhiên sáng rõ. Tựa một hồi sấm rền, hiểu biết về ký tượng
học và sử học đủ cho cả một sự nghiệp nghiên cứu ào ào đến quanh ông.
Mọi thứ Jacqué Saunière đã làm đêm nay dột nhiên trở nên hoàn toàn có
nghĩa.
Những ý nghĩ của Langdon lướt nhanh trong khi ông cố lắp ghép những ý nghĩa hàm chứa trong tất cả cái đó. Quay ngoắt lại ông nhìn
ngược về hướng mà từ đó ông đã đi đến.
Liệu còn kịp không.
Ông biết điều đó không quan trọng.
Không chút do dự, Langdon chạy như bay về phía cầu thang thoát hiểm.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Thật chán ngắt.
(2) tiếng Anh: chán ngắt
(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Bảo tàng Louvre đâu phải nhà mình.
(4) Tiếng Pháp trong nguyên bản: mờ như sương.
(5) tiếng Anh: mờ như sương
Chương 22Quỳ ở hàng ghế đầu, Silas giả vờ cầu nguyện trong khi hắn lướt nhanh
qua cách bố trí của toà thánh đường. Saint-Sulpice, giống như hầu hết
các nhà thờ khác, được xây theo hình một cây thánh giá La Mã khổng lồ.
Phần trung tâm kéo dài của nó gian giữa của giáo đường dẫn thẳng đến bàn thờ chính, bị cắt ngang bởi một phần ngắn hơn, được gọi là cánh ngang.
Phần giao nhau của cánh ngang và gian giữa giáo đường nằm ngay dưới mái
vòm chính và được coi là trái tim của nhà thờ… nơi thần bí và linh
thiêng nhất.
Không phải tối nay, Silas nghĩ Saint- Sulpice giấu
những bí mật của mình ở nơi khác. Ngoảnh đầu về bên phải, hắn đưa mắt
nhìn sâu vào phần phía nam của cánh ngang về phía quãng sàn trống bên
kia mấy hàng ghế cuối, nhắm đến mục tiêu mà những nạn nhân của hắn đã
miêu tả.
Nó kia.
Gắn sâu vào sàn đá granite xám, một thanh đồng
dài mảnh nhẵn bóng lấp lánh… một đường thẳng vàng xiên chéo qua sàn nhà
thờ. Đường thẳng có những dấu chia độ như một chiếc thước kẻ. Đó là
thước đồng hồ mặt trước. Silas đã được nói cho biết thế, một khí cụ
thiên văn học thế tục giống như một chiếc đồng hồ mặt trời. Các khách du lịch, các nhà khoa học, sử học và cả những người ngoại đạo từ khắp nơi
trên thế giới đổ về nhà thờ Saint-Sulpice để chiêm ngưỡng đường thẳng
nổi tiếng này.
Đường Hoa Hồng.
Chậm rãi, Silas đưa mắt dõi theo
đường đi của thanh đồng khi nó cắt ngang sàn từ phải sang trái, xiên
chéo trước mặt hắn theo một góc xệch xẹo, hoàn toàn trật khấc với sự đối xứng của nhà thờ. Nó cắt ngang cả bàn thờ chính, Silas thấy nó như một
vết thương rạch ngang một khuôn mặt đẹp. Thanh đồng đó xẻ đôi hàng lan
can chỗ làm lễ thánh thể, rồi chạy suốt chiều rộng của nhà thờ và cuối
cùng tới góc phía bắc của cánh ngang, nơi nó bắt gặp đế của một cấu trúc cực kỳ bất ngờ.
Một bia tưởng niệm khổng lồ kiểu Ai cập.
Tại
đây, Đường Hoa Hồng lấp lánh quặt một góc thẳng đứng chín mươi độ và
tiếp tục ngay trên mặt bia tưởng niệm, lên cao thêm khoảng mươi mét tới
chót đỉnh của cái kiến trúc hình tháp đó để cuối cùng chấm dứt ở đó.
Đường Hoa Hồng, Silas nghĩ. Hội kín đó giấu viên đá đỉnh vòm dưới đường Hoa Hồng.
Chập tối, khi Silas nói với Thầy Giáo rằng viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion được cất giấu bên trong nhà thờ Saint-Sulpice, thầy đã tỏ ý nghi ngờ.
Nhưng khi Silas nói thêm rằng các thành viên của hội này đều đã nói cho
hắn biết vị trí chính xác, liên quan đến một dải đồng xuyên suốt nhà thờ Saint-Sulpice, thì thầy hức lên một tiếng, ngộ ra: "Vậy là con nói về
Đường Hoa Hồng?".
Thầy nhanh chóng nói cho Silas biết về kiến trúc
xây dựng kì lạ của nhà thờ Saint-Sulpice - một thanh đồng dài, mảnh đã
chia nhà thờ thành hai nửa tạo ra một trục bắc-nam hoàn hảo.
Nó là
một kiểu đồng hồ mặt trời thời cổ, là một vết tích của đền thờ ngoại
giáo từng có thời ngự ở chính chỗ này. Các tia mặt trời, chiếu xuyên qua lăng kính trên bức tường phía nam, mỗi ngày một dịch xuống, chỉ sự trôi chảy của thời gian, từ đông chí qua hạ chí.
Cái dải bắc-nam đó được biết đến dưới cái tên Rose Line: Đường Hoa Hồng. Trải qua hàng thế kỷ,
kí hiệu Rose (Hồng) đã gắn liền với những tấm bản đồ và với việc dẫn
đúng đường, chỉ đúng hướng. Vòng Hồng ghi hướng địa bàn - được vẽ trên
hầu hết mọi tấm bản đồ - xác định các hướng bắc, đông, nam, và tây.
Thoạt kỳ thuỷ được gọi là Hoa Hồng Gió (Wind Rose), nó chỉ hướng của ba
mươi hai loại gió, thổi từ những hướng của tám ngọn gió trưởng, tám ngọn gió nhị phân và mười sáu ngọn gió tứ phân. Khi được đồ thị hóa trong
một hình tròn, ba mươi hai điểm này của la bàn trông giống hệt một bông
hồng ba mươi hai cánh. Cho tới tận ngày nay, công cụ định hưóng cơ bản
trong hàng hải vẫn được gọi là Rose Compass (La bàn Hoa Hồng), hướng cực bắc của nó được đánh dấu bằng một đầu mũi tên… hay phổ biến hơn là kí
hiệu hoa loa kèn.
Trên quá địa cầu, một Đường Hoa Hồng cũng được gọi là kinh tuyến là bất kỳ một đường thẳng tưởng tượng nào nối cực bắc với cực nam. Đương nhiên, số Đường Hoa Hồng là vô hạn bởi vì từ mỗi điểm
trên quả địa cầu đều có thể vẽ một kinh tuyến đi qua, nối cực bắc và cực nam với nhau. Vấn đề đối với các hoa tiêu thời xưa là đường nào trong
các đường này là Đường Hoa Hồng đường kinh tuyến số không đường mà người ta lấy làm gốc để đo các đường kinh tuyến khác.
Ngày nay, đường đó nằm ở Greenwich, Anh.
Nhưng không phải bao giờ nó cũng ở đó.
Rất lâu trước khi chế định Greenwich là kinh tuyến gốc, thì kinh tuyến số
không của trái đất đã đi qua Paris, đi qua nhà thờ Sain-Sulpice. Thanh
đồng đánh dấu ở nhà thờ Saint-Sulpice trở thành một đài tưởng niệm kinh
tuyến gốc đầu tiên của thế giới, và mặc dù Greenwich đã tước đi của
Paris vinh dự ấy vào năm 1883, đường Hoa Hồng ban đầu vẫn còn hiển thị
đến tận ngày nay.
"Vậy là truyền thuyết đó là sự thật". Thầy Giáo
nói với Silas. "Người ta nói viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion nằm dưới
Đường Hoa Hồng".
Lúc này, vẫn quỳ trên một chiếc ghế, Silas liếc quanh nhà thờ và lắng tai nghe để chắc chắn rằng không còn ai ở đây.
Trong một thoáng, hắn nghĩ là nghe thấy tiếng xột xoạt trên ban công hợp
xướng. Hắn quay người và nhìn chăm chú trong vài giây. Chắng có gì cả.
Mình chỉ có một mình thôi.
Đứng dậy, hắn quay mặt về phía ban thờ và xuống gối ba lần. Rơi quay sang
trái, hắn đi theo thanh đồng về phía bắc dẫn đến bia tưởng niệm.
Cùng lúc đó, tại Sân bay quốc tế Leonardo da Vinci ở Roma, lốp xe xóc nẩy mặt đường băng làm giám mục Aringarosa tỉnh giấc.
Mình đã ngủ quên mất, ông nghĩ ngạc nhiên thấy mình vẫn đủ thanh thản để ngủ.
"Benvenuto a Roma"(1), hệ thống loa phóng thanh thông báo.
Ngồi dậy, Aringarosa xốc thẳng lại chiếc áo choàng đen và tự cho phép mình
nở một nụ cười hiếm hoi. Đây là một chuyến đi mà ông sung sướng thực
hiện. Mình đã thụ động quá lâu rồi.
Nhưng đêm nay, quy tắc đã thay
đổi. Chỉ năm tháng trước đây thôi, Aringarosa còn lo sợ tương lai của
giáo phái này. Còn bây giờ, cứ như là ý Chúa, giải pháp cho vấn đề đã tự hiện ra.
Sự can thiệp thần thánh.
Nếu đêm nay ở Paris mọi thứ
diễn ra như đã định, Aringarosa sẽ sớm sở hữu một thứ sẽ khiến ông ta
trở thành người có quyền lực nhất trong cộng đồng Cơ đốc.
Chú thích:
(1) Tiếng Ý trong nguyên bản: Chào mừng quý khách đến Roma
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT