Tessa không mấy để tâm tới quang cảnh nhà ga khi họ đi theo lão gia nhân của nhà Starkweather qua sảnh chờ đông đúc. Người người chen lấn xô đẩy, đâm cả vào cô, mùi khói than và thức ăn nồng nặc, những tấm biển đã mờ chữ đề công ty Hỏa xa Great Northern, và các đường ray đi York và North Midland. Họ nhanh nhanh chóng chóng rời nhà ga, đứng dưới bầu trời ngả xám như cái lồng úp sấp lên họ, sầm sập như sắp mưa. Một khách sạn sang trọng vươn lên dưới bầu trời chạng vạng nằm ở một bên này nhà ga; Gottshall giục họ đi về phía đó, nơi có một cỗ xe ngựa màu đen, trên cửa được sơn kí hiệu bốn chữ C của Clave, đợi ở ngay cửa vào. Sau khi sắp xếp hành lí và ngồi vào trong, họ lên đường, cỗ xe ngựa hòa vào dòng phương tiện đi lại trên đường Tanner Row.

Will im lặng hầu hết chặng đường, những ngón tay thon dài đánh nhịp lên đầu gối, đôi mắt xanh xa xăm và trầm tư. Jem lại hay nói, anh nhoài người qua Tessa để kéo rèm phía bên cô. Anh chỉ cho cô thấy những thắng cảnh nơi đây – mộ chôn tập thể những người mắc dịch tả, những bức tường xám xịt cổ xưa của thành phố vươn lên phía trước họ, với đầu tường nhấp nhô hệt như họa tiết trên chiếc nhẫn của anh. Khi họ đi qua bức tường, phố xá bỗng hẹp lại. Tessa thấy nơi này giống một Luân Đôn thu nhỏ; thậm chí các cửa tiệm họ đi qua – lò mổ, tiệm vải – cũng dường như nhỏ hơn. Trên phố có người qua lại nhưng chủ yếu là đàn ông – họ rảo bước vội vã , cắm gục xuống cổ áo để tránh cơn mưa phùn bắt đầu đổ hạt. Họ ăn mặc không thời thượng lắm; họ trông khá “nhà quê”, như cánh nông dân tới thăm thú nông dân sẽ trồng khác biệt hản với người thành phố, với bàn tay cước đó, da mặt sần sùi, sạm nắng. () Ở Anh từng bùng phát bệnh dịch tả vào khoảng năm 1831-1832, 1849 và 1853. Thời đó, người ta sẽ tiến hành đào hố để chôn tập thể xác người bệnh. Hố chôn tập thể của Yorkshire nằm ở gần nhà ga York.

Xe ngựa rời con đường hẹp và tiến vào một quảng trường rộng thênh thang; Tessa sửng sốt. Trước mắt họ là một nhà thờ chính tòa tráng lệ, với những ngọn tháp Gothic xiên lên bầu trời giống như những mũi tên xiên lên người thánh Sebastian. Đập vào mắt người nhìn là tòa tháp chính điện đồ sộ, với mặt tiền là những hốc đặt tượng, và mỗi tượng lại mỗi khác. “Đây là Học Viện York sao? Chúa ơi, nó còn lớn hơn Học Viện Luân Đôn…” () Thánh Sebastian là một vị thánh tử đạo của Cơ Đốc giáo. Ông bị giết vào thời bách hại Cơ Độc giáo dưới triều Hoàng đế La Mã Diocletianus. Ông thường được miêu tả trong văn chương và tranh họa là bị trói vào cột và bị bắn tên hành hình.

Will cười, “Đôi lúc nhà thờ chỉ là nhà thờ thôi, Tessa.” “Đó là thánh đường York,” Jem nói. “Niềm tự hào của thành phố. Không phải Học Viện. Học Viện nằm ở đường Goodramgate cơ.” Lời anh được xác thực khi có cỗ xe ngựa đi qua nhà thờ chính tòa, xuôi đường Goodramgate nhỏ hẹp rải sỏi, sau đó xe lộc xộc đi qua một cái cổng sắt nhỏ nằm giữa hai tòa nhà mang phong cách kiến trúc Tudor.

Khi họ vào bên kia cổng, Tessa đã hiểu vì sao Will cười. Tòa nhà phía trước họ là một nhà thờ trông - ừ - thì – cũng – được có tường bao quanh và bãi cỏ xanh rì, nhưng nó không có dáng vẻ bề thế như thánh đường York. Khi Gottshall mở cửa xe ngựa và giúp Tessa bước xuống, cô thấp thoáng thấy những bia mộ trồi lên trên bãi cỏ ướt đẫm nước mưa, trông như thể có người định lập một nghĩa trang ở đây rồi cuối cùng lại bỏ dở nó. Bầu trời đã gần chuyển sang sắc đen , với đây đó thấp thoáng những đám mây gẩn như trong suốt dưới ánh sao. Đằng sau cô, giọng quen thuộc của Jem và Will đang thì thầm to nhỏ; phía trước cô, cửa nhà thờ mở rộng, và qua đó cô có thể thấy những ánh nến leo lét. Cô đột nhiên thấy như mình không có thực thể , như thể cô chỉ là một bóng ma của Tessa, đã váng vất ở nơi kì lạ này rất lâu, rất lâu sau khi cô rời New York. Cô rùng mình, không chỉ vì lạnh.

Một bàn tay khẽ chạm vào cánh tay Tessa, và hơi thở ấm áp khuấy động mái tóc cô. Cô biết đó là ai mà không phải quay lại. “Chúng ta vào chứ, vợ chưa cưới của anh?” Jem khẽ nói vào tai cô. Cô cảm giác được nụ cười đang làm rung người anh truyền sang mình. Cô suýt bật cười. “Chúng ta chui vào hang hùm nhổ lông hùm nào”. Cô đặt tay lên cách tay anh. Họ cùng nhau bước lên thềm nhà thờ, từ bậc trên cùng cô ngoái lại, thấy Will đang ngước nhìn họ, rõ ràng đầu óc đang ở tận đẩu tận đâu khi Gottshall vỗ vai và nói gì đó vào tai anh. Ánh mắt cô và Will giao nhau, nhưng cô vội lảng đi; giao mắt với Will khiến cô bối rối nhất, đau đầu nhất.

Không gian nhà thờ này nhỏ hơn và tối hơn so với Học Viện Luân Đôn. Những hang ghế nguyện sẫm màu thời gian chạy dọc chiều dài các bức tường và bên trên, đèn phù thủy sang lên trong bộ giá đỡ bằng sắt đã nhuốm bồ hóng. Trước mắt họ, trước một giá nến đang cháy, là một ông già mặc tuyền đồ đen của Thợ Săn Bóng Tối. Mái tóc và bộ râu quai nón dày, mang màu muối tiêu của lão dựng bờm xờm quanh gương mặt, đôi mắt đen xám nửa khuất dưới hàng lông mày chổi xể, da lốm đốm vết đồi mồi, chứng tích của thời gian. Lão đã gần chín mươi nhưng lưng vẫn thẳng còn bộ ngực dày như thân một cây lớn. “Cậu là cậu nhóc nhà Herondale, phỏng?” lão cắm cảu hỏi khi Will bước lên định giới thiệu. “Có mẹ là người phàm, bố là người Wales, và sinh ra cậu là cái đồ con lai tệ lậu vô cùng.”

Will cười lịch thiệp. “Diolch”

(*)Tiếng Wales, có nghĩa là cảm ơn.

Starkweather nổi giân. “Đồ tạp chủng” lão lầm bầm và nhìn sang Jem. “James CarStairs,” lão nói. “Một đứa trẻ hư khác của Học Viện. Ta thật lòng muốn khuyên tụi bay nên tự thiêu hết đi. Cái cô ả mới nổi, Charlotte Fairchild đó đó, dám không nói không rằng mà đẩy tụi bay tới đây.” Lão nói hơi có chút giọng vùng York như người gia nhân của mình, có điều không rõ bằng; nhưng cái cách lão nói “ta” nghe hơi hơi từa tựa “choa”. “không một người nào trong cái nhà đó biết phép lịch sự. Lão cha cũng vậy, đứa con gái cũng…” Sau đó đôi mắt sang quắc của lão dừng ở Tessa, và lão bỗng im bặt, miệng há ra như thể đang nói dở thì bị ăn một cái bạt tai. Tessa liếc nhìn Jem; lão thảng thốt cũng như cô giật mình trước sự im lặng đột ngột của Starkweather. Và Will là người phá vỡ sự im lặng.

“Thưa ông, đây là Tessa Gray,” anh nói. “Cô ấy là người phàm, nhưng là vị hôm thê của cậu CarStairs đây, đồng thời sắp được Tiến Cấp.” “Mi nói là người phàm sao?” Starkweather trợn mắt hỏi.

“Người sắp được Tiến Cấp,” Will nói bằng giọng êm dịu, mượt mà nhất. “Cô ấy là một người bạn đáng tin với Học Viện Luân Đôn, và chúng tôi mong sẽ sớm được đón cô ấy vào hàng ngũ của mình.” “Người phàm,” ông già nhắc lại và bỗng ho sù sụ một tràng. “Vậy là thời gian đã - Đúng, chắc phải vậy…” Đôi mắt lão lại lướt qua mặt Tessa, rồi quay sang Gottshall, người trông như sắp tử vì đạo giữa đống hành lí. “Bảo Cedric và Andrew giúp ông đưa hành lí của những vị khách này lên phòng.” Lão nói. “Và bảo Ellen kêu đầu bếp làm thêm thức ăn tối cho ba thực khách này. Hình như ta quên không bảo bà ấy rằng chúng ta có khách.”

Lão gia nhân há hốc mồm nhìn chủ nhân trước khi bối rối gật đầu. Tessa không trách ông ta. Rõ ràng Starkweather đã định tống cổ họ đi nhưng rồi thay đổi quyết định vào phút cuối. Cô liếc nhìn Jem, chính anh cũng bối rối hệt như cô; chỉ có Will, với đôi mắt xanh mở to và khuôn mặt thánh thiện như cậu bé trong dàn thánh ca, là tỏ vẻ chuyện chắc chắn phải đi theo đường hướng này. “Vậy đi nào,” Starkweather cộc lốc nói mà không nhìn Tessa. “Mấy đứa không phải đứng đó. Đi theo ta và ta sẽ chỉ phòng cho tụi bay.”

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play