Oromis và con rồng vàng vừa khuất dạng, Saphi­ra hí hởn:

“Er­agon, ai ngờ lại có một rồng khác nữa. Anh cũng không thể nào tin nổi, đúng không?”

Er­agon vỗ về cô em rồng, bảo: “Anh cũng thấy điều đó thật diệu kỳ.”

Từ cao nhìn xuống Du Welden­var­den, dấu hiệu dân cư của rừng giả chỉ là những cụm khói là đà trên những lùm cây rồi tản mạn vào làn không khí trong lành.

Saphi­ra tiếp tục thì thầm: “Không bao giờ em ngờ gặp được một rồng khác ngoài con con rồng Shruikan của Gal­ba­torix, hoặc giải cứu được mấy cái trứng còn trong tay bạo chúa. Nhưng… chuyện đó xa vời quá. Vậy mà bây giờ lại gặp Glae­dr! Thật khó tin! Anh chàng rồng vàng này… trên cả tuyệt vời. Lớn tuổi, mạnh mẽ, những cái vảy… long lanh lóng lánh… lóng lánh long lanh… Tuyệt vời! Anh ta lớn gấp hai, không, gấp ba em. Anh có nhìn những móng vuốt không? Chúng…

Cô ả trổ tài hùng biên, thao thao ca tụng những đặc tính của anh rồng vàng. Er­agon cảm thấy trong lòng cô em đang sôi nổi tình cảm lẫn lộn, vừa kính trọng vừa yêu thương. Dù biết đầu óc Saphi­ra đang bay bổng trên mây, Er­agon cố gắng kể lại những gì đã nghe được từ sư phụ Oromis, nhưng vẫn không thể lái cô ả qua đề tài khác. Nó lặng lẽ ngồi sau lưng Saphi­ra nhìn xuống màu cây xanh ngăn ngắt phía dưới, và cảm thấy mình là người cô đơn nhất trên đời.

Trở về chỗ nghỉ, Er­agon mệt lả vì những sự kiện trong ngày và vì mấy tuần lễ đi đường. Vì vậy, trong khi Saphi­ra ngồi nhòm nhõm trên ổ, lảm nhảm về anh rồng vàng thì Er­agon bắt đầu khám phá những bí mật của một phòng tắm theo kiểu thần tiên.

Buổi sáng, Er­agon nhận được gương và dao cạo như Oromis đã hứa. Tắm nước nóng xong, cầm gương lên ngắm mặt mình, Er­agon thầm nhủ: “Trông mình già hơn trước nhiều. Già và mệt mỏi.” Không chỉ vậy, mặt nó có góc cạnh hơn, trông giống như một người tu khổ hạnh. Dù không phải là thần tiên, nhưng bất kỳ ai quan sát nó thật kỹ, khó có thể bảo nó mang dòng máu thuần túy của loài người. Vén tóc để lộ hai tai, thêm một bằng chứng mối liên hệ giữa nó và Saphi­ra đã biến đổi thể xác nó đến thế nào: Er­agon rờ ngón tay lên vành tai đã bắt đầu hơi nhọn.

Dù biết sự biến đổi tất nhiên phải xảy ra - để dần dần hoàn toàn trở thành một kỵ sĩ rồng – nhưng Er­agon vẫn cảm thấy khó chấp nhận nổi chuyện này. Không được biết trước cơ thể mình đổi thay ra sao làm nó thấy như bị xúc phạm, tuy nhiên nó cũng háo hức chờ đợi những gì sắp xảy ra. Một điều nó biết rất rõ, nó vẫn đang ở giữa chính bản thân mình - một thanh niên của loài người – và những bí mật cam go của một vương quốc mà cái thân xác đó phải phục vụ.

“Bao giờ mình mới biết chính xác mình là ai? Là cái gì?”

Bắt chước cậu Gar­row vẫn thường làm, Er­agon đặt dao lên má, cạo nhè nhẹ. Râu bị xén lởm chởm cọng cao cọng thấp. Nó đổi chiều cầm dao và thấy khả quan honư. Nhưng khi vứa kéo lưỡi dao xuống cằm, khóe miệng nó bị cứa một đường dài. Máu chảy xuống tận cổ. Er­agon bật lên nói: “Wáise heill.” Vết thương khép ngay lại, không còn chút đau đớn nào nữa.

“Er­agon!” Saphi­ra kêu lớn, húc đầu mở tung cửa phòng, đánh hơi mùi máu.

Er­agon vội trấn an cô rồng: “Anh còn sống mà.”

“Làm ơn thận trọng một chút. Cứ để chòm râu dê cho đỡ rách việc, bầy dặt làm bảnh chi không biết nữa.”

“Thôi đi, anh có làm sao đâu.”

Saphi­ra càu nhàu rụt đầu, trở ra ngoài.

Er­agon lom lom nhìn lưỡi dao cạo, nói:

- Dẹp mày qua một bên.

Nó bình tĩnh ôn lại tất cả những từ cổ ngữ đã biết, chọn lựa những từ cần thiết, rồi lầm bầm niệm chú. Từ mặt nó bay ra một làn bụi màu đen và da mặt nó trở nên hoàn toàn nhẵn nhụi.

Ngay sau khi Er­agon khoan khoái leo lên yên, Saphi­ra bay vút lên không, thẳng tiến đến bờ vực Tel’náeir.

Oromis và Glae­dr đã đang đứng chờ trước cửa lều. Trước hết, ông xem xét từng chi tiết bộ yên của Saphi­ra, từ sợi dây cương, tới mỗi cái móc, rồi ông quả quyết đây là một món đồ thủ công:

- Brom bao giờ cũng rất khéo tay. Các con cứ tiếp tục sử dụng yên này những khi cần bay với tốc độ cao. Nhưng để an toàn hơn thì…

Ông trở vào lều rồi vác ra một cái yên lớn, trang trí những hình ảnh mạ vàng từ yên tới bàn đạp:

- … hãy dùng cái này. Nó đã được làm tại Vro­en­gard và đã được yểm bùa nhiều lần. Rất an toàn, không bao giờ làm các con thất vọng khi nguy cấp.

Er­agon lảo đảo khi đón cái yên từ tay sư phụ. Trông nó cũng tương tự như cái yên của ông Brom làm, với hai hàng móc để giữ chân ổn định. Nhưng chỗ ngồi sâu hơn để người cưỡi – dù ngồi thẳng hay rạp người xuống cổ rồng - vẫn có thể bay liền nhiều giờ rất thoải mái. Ngoài ra, những sợi dây quanh ngực Saphi­ra được khoan rất nhiều lỗ, để có thể nới ra khi cô rồng lớn hơn. Một loạt móc dây trên đầu cái yên làm Er­agon chú ý. Trả lời câu hỏi về mục đích của những sợi móc đó, Oromis nói:

- Đó là những móc an toàn cho cổ và cánh tay của con. Con sẽ không chết khiếp khi Saphi­ra cần phải sử dụng những đường bay phức tạp.

Sau đó, ông cùng Er­agon tháo bộ yên cương trên lưng Saphi­ra xuống:

- Saphi­ra, hôm nay con có thể đi cùng Glae­dr, để ta làm việc với Er­agon tại đây.

“Xin tuân lệnh.” Saphi­ra hí hửng nói rồi cất cánh bay theo con rồng vàng.

Oromis hướng dẫn Er­agon vào một khoảng đất nện cứng, vuông vắn dưới gốc một cây dương liễu. Đứng đối diện với đệ tử, ông chậm rãi nói:

- Er­agon, những gì thầy sắp dạy con, thuộc về Rim­gar, nghĩa là Xà-​Hạc quyền. Đó là những thế đánh được trang bị cho các chiến binh của chúng ta khi lâm trận, nhưng ngày nay tất cả thần tiên đều luyện tập để giữ gìn sức khỏe. Rim­gar gồm bốn đẳng cấp. Cấp sau khó hơn cấp trước. Bây giờ chúng ta bắt đầu từ cấp một.

Er­agon nắm chặt hai tay, gồng người đứng thẳng trong khi vết thương rần rần nhức nhối sau lưng.

Oromis nhẹ nhàng nói:

- Thả lỏng ra.

Er­agon mvơr nắm tay, nhưng hai tay ãn cứng ngác khép chặt hai bên sườn.

- Er­agon, thầy bảo con thả lỏng ra. Con không thể luyện Rim­gar với thân hình cứng ngắc như một thân cây được.

- Con hiểu rồi, thưa sư phụ.

Er­agon nhăn mặt cố gắng thả lỏng cơ bắp, khớp xương nhưng bụng nó vẫn còn căng cứng.

- Hai bàn chân đặt sát bên nhau. Hai tay buông xuôi theo thân hình. Mắt nhìn thẳng. Bây giờ con hãy hít vào thật sâu, trong khi từ từ đưa hai tay khỏi đầu, cho đến khi hai bàn tay úp vào nhau… Đúng rồi. Thở ra, cúi xuống, hai bàn tay úp trên mặt đất. Hít vào và… nhảy ra sau. Tốt. Hít vào, ngửa ra sau, nhìn lên trời, thở ra…

Er­agon bắt đầu yên tâm. Mấy thế tập nhẹ nhàng không làm chấn động vết thương, tuy nhiên cũng đủ làm trán nó lấm tấm mồ hôi. Bất chợt nó nhoẻn cười, sung sướng vì sức khỏe như đang dần hồi phục. Bao lo lắng hầu như tan biết hết, nó thoải mái vượt qua mọi tư thế, cùng với lòng tự tin, nội lực cũng tăng dần. Từ sau trận chiến trong lòng Far­then Dur, chưa bao giờ Er­agon có được niềm sáng khoái như lúc này.

Oromis đứng tấn, rồi bắt đầu cùng đệ tử đi bài Xà-​Hạc quyền. Những thế võ vừa mạnh mẽ vừa uyển chuyển của ông làm Er­agon kinh ngạc, nhất là đối với một người tuổi tác như ông. Oromis có thể chạm trán xuống tận mấy ngón chân. Đi suốt bài quyền, ông vẫn tỏ ra thanh thản, chẳng khác nào như chỉ đang dạo chơi trong vườn hoa. Những lời chỉ giáo của ông nhẹ nhàng, kiên nhẫn hơn ông Brom, nhưng vẫn đầy uy lực. Không một lỗi nhỏ nào qua khỏi mắt ông.

Tập xong, Oromis bảo:

- Nào, đi rửa ráy cho sạch mồ hôi chứ.

Hai thầy trò ra con suối nhỏ bên nhà, cởi áo. Er­agon lén nhìn, tò mò không biết một thần tiên khỏa thân sẽ ra sao. Sư phụ của nó gầy nhom, nhưng dưới làn da, cơ bắp hoàn hảo, rắn chắc như loài gỗ quý. Với Er­agon, thân thể ông dường như có vẻ khác thường nếu so sánh với dân làng Car­va­hall, vì toàn thân ông trơn tru không có một cọng lông. Tuy nhiên tấm thân đó lại có một vẻ cao nhã kỳ lạ, như một con mèo rừng dẻo dai, mềm mại.

Sau đó ỏm dẫn đệ tử tới một khoảng trống, cây cối chung quanh mọc ngả vào trong, cành lá đan nhau che kín bầu trời. Chân hai thầy trò lún trong lớp rêu dày tới mắt cá. Chung quanh hoàn toàn tĩnh mịch.

Chỉ một thân cây màu trắng, ngọn bằng phẳng và sáng bóng, mọc giữa khoảng trống, Oromis bảo Er­agon:

- Ngồi lên đó.

Er­agon ngồi lên thân cây. Ông nói tiếp:

- Khoanh chân, nhắm mắt lại.

Er­agon làm theo, trong mắt nó chỉ còn một màu đen, bên phải tiếng sư phụ thì thầm:

- Er­agon hãy khai tâm mở trí ra. Mở trí ra mà lắng nghe thế giới chung quanh, lắng nghe ý nghĩ của từng sinh vật trong khoảng trống dưới lùm cây này. Từ con kiến trên cành, tới con giun trong lòng đất. Hãy lắng nghe cho đến khi con hiểu được tất cả bản chất và mục đích của chúng. Khi nào con không còn nghe thêm được điều gì nữa, hãy đến cho ta biết con đã tìm hiểu được những gì.

Thế rồi, cả khu rừng chìm vào im lặng.

Không biết sư phụ đã rời đi chưa, nhưng Er­agon thử nới ý chí bao quanh tư tưởng để gi­ao tiếp với tri thức của mình, giống như những lần muốn liên lạc với Saphi­ra từ xa. Lúc đầu, chung quanh nó chỉ là một hố đen thăm thẳm, rồi những tia sáng ấm áp lóe lên, mạnh dần cho đến khi nó thấy mình đang ngồi giữa một chòm sao lóng lánh. Mỗi điểm sáng là hiện thân của một đời sống. Trước đây, mỗi lần muốn liên hệ với một sinh vật – như hai con ngựa Cadoc và Hỏa Tuyết hoặc ma mèo Solem­bum – tri thức nó tập trung vào đối tượng nó muốn gi­ao tiếp, nhưng…lần này… dường như nó đứng bất lực giữa một đám đông, tiêng rào rào trò chuyện chung quanh như những dòng sống đang ào ạt cháy.

Er­agon bỗng cảm thấy bất an. Ngay lúc này nếu kẻ nào muốn nhảy vào tâm trí nó, để điều khiển, thật quá dễ dàng. Một cách vô thức, nó rút vào nội tại: tất cả những gì nó mới nghe thấy đều biến hết.

Nhớ lại một bài dạy của thầy, Er­agon giữ nhịp thở điều hòa êm ả lại, cho đến khi hòan toàn thoải mái mở lại ý thức.

Cho đến lúc này, những sinh vật nó có thể nhận ra, hầu hết là côn trùng. Bầy đàn của chúng làm Er­agon khiếp đảm. Hàng chục ngàn con trên một thước vuông rêu; hàng triệu con lúc nhúc khắp khoảng trống nhỏ dưới lùm cây; hằng hà sa số nữa ở bên ngoài.

Vì Er­agon chỉ biết một vài giống côn trùng, trong đó có những loài sư phụ đã nhắc tới, nên Er­agon tập trung vào những đội quân kiến đỏ đang lũ lượt từng hàng leo lên một thân cây hoa hồng dại. Những gì thâu lượm được, cho Er­agon thấy bộ não của chúng quá đơn sơ, hầu như không thể suy nghĩ, nhưng… lại rất khẩn trương: khẩn trương tìm kiếm lương thực, khẩn trương tránh những thương tổn, khẩn trương bảo vệ lãnh địa và khẩn trương phối giống. Vừa bắt đầu quan sát bản năng của chúng, Er­agon đã bị bối rối bởi những hành động lạ lùng của loài kiến.

Chỉ vài chú kiến lang thang ngoài bầy, còn tất cả đều biết chính xác mục tiêu tiến tới. Không biết nhờ cơ quan nào điều khiển, đội quân kiến theo đúng lộ trình từ tổ tới nơi có lương thực, rồi trở lại. Nguồn lương thực của chúng lại càng đáng ngạc nhiên hơn. Er­agon vẫn tưởng kiến giết và ăn những giống côn trùng khác, nhưng bầy kiến này đang cố gắng thẳng tiến tới… vùng canh tác… một thứ gì đó lốm đốm trên cây hồng. Er­agon phải ráng hết sức tập trung tư tưởng vào những đốm li ti đó, và rồi nó bật cười ha hả khi khám phá ra: những chấm nhỏ đó chính là một loài rệp cây. Những chú kiến này đang làm công việc của dân chăn bò: chăn dắt, bảo vệ và “vắt sữa” bằng cách dùng râu vuốt ve bụng những con rệp vừng. Một khám phá quá bất ngờ, nhưng càng quan sát, Er­agon càng tin chắc đó là sự thật.

Nó theo dấu bầy kiến vào những mê lộ rắc rối trong lòng đất và quan sát chúng săn sóc cho một con cùng loài, nhưng to lớn nhiều lần hơn những con bình thường. Tuy nhiên, Er­agon không biết mục đích chúng định làm gì, chỉ thấy chúng tận tụy lần lượt vây quanh con kiến to đùng kia, giữ một khoảng cách với nhau rất có trật tự.

Một lúc sau, Er­agon cảm thấy những tìm hiểu về loài kiến như vậy là đã đủ, ngay khi nó vừa định thu hồi luồn tư tưởng, một con sóc nhảy vào khoảng trống. Hình ảnh con sóc, cũng như bầy kiến, như một luồn sáng hòa vào dòng tư tưởng Er­agon. Bàng hoàng, Er­agon chợt thấy trong lòng nó tràn ngập những cảm giác của con sóc. Nó đánh hơi rừng bằng cái mũi của sóc. Cảm thấy vỏ cây dưới bộ móng sóc. Gió phe phẩy cái đuôi nhổng cao của sóc. So sánh với loài kiến, con sóc cũng khẩn trương nhưng thông minh hơn.

Sau khi con sóc thoăn thoắt nhảy biến vào rừng. Er­agon mở mắt.

Rừng u tối và tĩnh mịch hơn lúc Er­agon mới ngồi lên gốc cây này. Hít sau một hơi, rồi nhìn quanh, lần đầu tiên nó hiểu rõ hơn về sự sinh tồn trên mặt đất. Duối hai chân tê cóng, Er­agon bước tới bên cây hồng dại.

Trên cành lá, Er­agon thấy những con “bò sữa” và đám “chắn dắt” màu đỏ. Gần gốc hồng một ụ lá thông với lối vào tổ kiến. Nhìn bằng mắt thường, không thể nào thấy được những gì Er­agon đã chứng kiến lúc nãy với vô vàn những hoạt động của chúng trong lòng đất.

Ghi nhớ tất cả vào tâm trí, Er­agon ra khỏi lùm cây, tự hỏi không biết dưới bước chân này những loài nào đang bị dẫm đạp lên.

Bên ngoài, mặt trời đã xuống. Er­agon đoán, có lẽ nó đã ngồi tại đây ba tiếng đồng hồ rồi.

Bước vào túp lều, Er­agon thấy syư phụ đang viết bằng một cây bút lông ngỗng. Viết xong dòng cuối cùng, ông ngẩng đầu lên hỏi:

- Con đã nghe được những gì, Er­agon?

Er­agon cao giọng hãnh diện kể rành mạch từng chi tiết đã thu lượm được. Khi nó nói xong, Oromis nhướng cao một chân mày, hỏi:

- Tất cả chỉ có vậy thôi sao?

- Dạ…

- Còn những sinh vật khác trong lòng đất, trên không trung? Con có thể cho ta biết chúng làm gì trong khi bầy kiến của con vỗ về đàn bò của chúng không?

- Dạ… không.

- Sai lầm của con là ở đó. Con phải tìm hiểu tất cả mọi điều. Đừng che hai bên mắt, để chỉ tập trung vào một vấn đề. Cho đến khi nào con chưa làm chủ được bài học quan trọng đó, hàng ngày con phải ngồi trên thân cây kia mà suy ngẫm trong một tiếng đồng hồ.

- Làm cách nào con biết đã làm chủ được bào học đó?

- Khi con nhìn một nhưng biết mười.

Ông ra hiệu cho Er­agon ngồi xuống bên bàn, rồi đặt trước mặt nó bút mực và một tờ giấy mới:

- Cho đến lúc này con vẫn còn thiếu hiểu biết rất nhiều về cổ ngữ. Không phải ai cũng thông thạo tất cả các từ của ngôn ngữ này. Nhưng ít ra con cần phải quen với văn phạm và cách cấu trúc của cổ ngữ. Vì như vậy sẽ tránh cho con khỏi tai nạn tự sát vì sai lầm khi chia không đúng một động từ hoặc vì những lỗi tương tự khác. Ta không hy vọng con nói trôi chảy như thần tiên – làm được điều đó, con phải học hỏi cả đời -, nhưng ta mong con có thể đạt được khả năng vô thức. Nghĩa là con phải có khả năng nói ngay mà không cần suy nghĩ. Con phải học đọc, học viết. Không chỉ để nhớ từ, mà phải nói trôi chảy những câu dài khi cần thiết. Tất cả những loài khác – như loài người và người lùn - đều phát triển chữ viết của họ từ nguyên mẫu cổ ngữ. Tuy nhiên đó chỉ là những phương pháp bất đắc dĩ, không thể diễn tả hết tự tinh tế của ngôn ngữ bằng Liduen Kvaed­hí của chúng ta. Liduen Kvaed­hí - Bản gốc thi ca – là những vần thơ khúc chiết, thanh cao, diễm lệ. Tập thơ đó gồm bốn mươi hai khổ thơ với những âm thanh khác biệt. Từng chữ từng câu đều thâm trầm ý nghĩa, tạo cảm hứng vô bờ cho những nét chạm khắc như nét khắc trên thanh Zar’roc hay trên chiếc nhẫn của con… Nào, bây giờ ta bắt đầu: những nguyên âm căn bản của cổ ngữ là gì?

- Dạ…

Khi đi cùng ông Brom, ông chỉ tập trung làm sao cho Er­agon nhớ và phát âm chuẩn xác được những câu thần chú để sống còn. Ngoài ra, nó đâu biết phân biệt một quán từ phủ định hay xác định.

Trước sự mất căn bản của Er­agon, Oromis vẫn bình thản kiên trì hướng dẫn lại cho nó từ đầu. Đang học Er­agon bỗng nói với thầy:

- Con chưa bao giờ cần sử dụng nhiều từ trong một câu thần chú. Ông Brom bảo, chỉ với một câu “bris­in­gr” mà con đã có thể làm được nhiều điều, là do thiên bẩm. Lần con sử dụng nhiều từ cổ ngữ nhất, là khi liên hệ qua tư tưởng với Arya và khi con chúc phúc cho một đứa trẻ mồ côi tại Far­then Dur…

Oromis lo lắng ngắt lời nó:

- Con đã chúc phúc cho một đứa trẻ bằng cổ ngữ ư? Con có nhớ mình đã nói gì không?

- Dạ có.

- Nói lại cho ta nghe.

Khi Er­agon lập lại lời chúc phúc, Oromis kêu lên khiếp đảm:

- Con nói skolir, chắc không? Hay Skoliro?

Er­agon nhăn mặt:

- Skolir mà. Skolir mới có nghĩa là che chở chứ. Cầu chúc mi được che chở khỏi những điều bất hạnh. Đó là một lời chức thật tốt lành.

- Đó không phải là một lời chúc, mà là một lời nguyền. Tiếp vĩ ngữ “o” đổi những đồng từ tận cùng với “r” và “i” thành quá khứ. Skoliro nghĩa là được chở che, còn Skolir lại có nghĩa là che chở cho. Những lời con nói, thay vì chúc phúc, lại trở thành lời nguyền đứa trẻ đó phải hy sinh, nhận hết mọi bất hạnh để… che chở cho kẻ khác tránh khỏi khổ đau.

Không, không thể như vậy được. Er­agon cuống cuồng cải chính:

- Tác dụng của một câu thần chú không chỉ quyết định vì những câu nói, mà từ ý định trong tâm người nói… Con không có ý định làm hại đứa trẻ đó…

- Con không thể cãi lại sự ấn định của tạo hóa đã dành cho một từ ngữ. Không thể vi phạm giới hạn của nó để biểu thị một ý hoàn toàn ngược lại. Ta tin là con không có ý hại đứa trẻ, nếu không ta đã từ chối tiếp tục dạy dỗ con. Nếu con thành thật với một tấm lòng trong sáng, có thể câu chúc của con sẽ không quá tác hại như ta đã lo ngại. Tuy nhiên điều đó sẽ vẫn là một nguyên nhân gây đau khổ nhiều hơn chúng ta tưởng.

Toàn thân Er­agon run bần bật vì những gì đã gây ra. Cố nuôi chút hy vọng, nó nói:

- Thưa sư phụ, có lẽ tình trạng sẽ không đến nỗi nghiêm trọng lắm, vì ngay sau đó Saphi­ra đã ghi lại một dấu vết lên trán đứa trẻ, giống như dấu hiệu ged­wey ig­na­sia trên bàn tay con.

Lần đầu tiên trong đời, Er­agon mới thấy một vị tiên sững sờ đến thế. Hai mắt Oromis trợn trừng, miệng há hốc, hai tay xiết chặt thành ghế:

- Mang dấu hiệu của kỵ sĩ, vẫn chưa phải là một kỵ sĩ. Suốt bấy nhiêu năm sống trên đời, ta chưa từng thấy ai giống như hai con. Tát cả những việc các con làm đều dẫn đến kết quả không ai tưởng tượng nổi. Các con làm đảo lộn thế giới như một trò đùa. Đứa trẻ đó bây giờ ở đâu?

- Ở với Var­den, tại Far­then Dur hoặc Sur­da. Sư phụ nghĩ dấu hiệu của Saphi­ra có giúp gì cho đứa trẻ đó không?

- Ta không biết. Trước đây chưa hề xảy ra chuyện đó bao giờ.

- Phải có cách nào hủy bỏ, vô hiệu hóa lời chúc đó chứ ạ?

- Có đấy. Nhưng muốn đạt kết quả hữu hiệu nhất, con phải đích thân làm chuyện đó. Tuy nhiên, trong tình trạng khả quan nhất, thì phần phép thuật còn sót lại của con cũng vẫn sẽ ám theo cô gái nhỏ mãi sau này. Đó là sức mạnh của cổ ngữ. Ta thấy con đã hiểu vấn đề nghiêm trọng đến thế nào, vì vậy ta phải nói cho con biết: con hoàn toàn lãnh trách nhiệm về số mạng của cô bé này. Và vì những gì con đã gây ra, con phải có bổn phận giúp đỡ cô ta trong mọi trường hợp. Theo luật kỵ sĩ, đứa trẻ đó là một điều hổ thẹn của con, nó như một đứa con ngoại hôn của con vậy.

Er­agon thì thầm:

- Con hiểu. Con hiểu là đã đẩy đứa trẻ tội nghiệp vào một định mệnh nghiệt ngã. Con người không thể thật sự có thiện tâm, khi không hề biết cái ác là gì. Con đã làm đứa trẻ trở thành một nô lệ mù quáng, chỉ biết hy sinh.

- Con đã hiểu, vậy chúng ta sẽ không nhắc lại chuyện này nữa.

- Vâng, thưa thầy.

Trong lòng nặng trĩu u buồn khi Er­agon theo thầy ra ngoài đón Glae­dr và Saphi­ra trở về. Cây cối ngả nghiêng khi hai con rồng vỗ cánh là là hạ xuống. Saphi­ra phởn phơ hãnh diện ra mặt. Cô ả vươn cổ, nhe hàm răng nhọn hoắt, ngoác miệng ra thành một nụ cười với ông anh.

Tiếng đá dập vỡ dưới sức nặng của anh rồng vàng khi quay hỏi Er­agon:

- Quy luật thứ ba để phát hiện gió xoáy là gì? Quy luật năm, phòng tránh cách nào?

Er­agon ngẩn người, chớp mắt lia lịa:

- Không biết.

Oromis hỏi Saphi­ra:

- Kiến chăn nuôi con gì và vắt sữa chúng ra sao?

Saphi­ra lí nhí trả lời:

- Con không biết.

Oromis khoanh tay, dù giọng nói vẫn trầm tĩnh, nhưng mắt thoáng vẻ giận dữ:

- Ta tưởng hai con phải biết bài học căn bản nhất khi trở thành Shur’tu­gal - Kỵ sĩ rồng: đó là chia sẻ tất cả những hiểu biết cho nhau. Con có thể cắt đứt tay phải của mình được không, Er­agon? Con có thể bay một cánh không, Saphi­ra? Không bao giờ. Vậy thì, tại sao các con không giữ dây liên lạc? Các con không thèm sử dụng đến khả năng và lợi thế lớn nhất đó để thắng bất kỳ đối thủ nào sao? Không chỉ chuyện trò với nhau bằng ý nghĩ, mà còn phải hòa hợp ý thức vào nhau, để từ hành động, suy nghĩ chỉ là một. Ta hy vọng từ nay, điều gì đứa này học được, thì đứa kia phải biết.

Er­agon nhăn nhó:

- Nhưng… còn những chuyện riêng tư của hcúng con?

Rồng vàng có ý kiến ngay: “Riêng tư gì? Bao giờ đi khỏi đây, nếu thích, hãy nói đến chuyện riêng tư. Trong thời gi­an huấn luyện không riêng tư gì hết.”

Er­agon nhìn Saphi­ra mà phát rầu. Cô ả né cái nhìn của nó, rồi chợt nhịp chân kênh kênh, hỏi: “Cái gì?”

“Họ nói đúng. Chúng mình lơ đãng quá.”

“Đâu phải lỗi em.”

Hừ, nó đoán được ý mình, thấy nó xoắn xuýt lấy con rồng vàng mà phát ghét. Nhưng Er­agon vẫn nói: “Anh em mình phải cố tiến bộ hơn. Đồng ý?”

“Tất nhiên.”

Vênh váo trả lời Er­agon xong, ả rồng ngoan ngoãn cúi đầu xin lỗi Oromis và anh rồng vàng.

Er­agon cũng cúi đầu nói:

- Con hứa sẽ không để sư phụ thất vọng nữa.

- Nếu vậy, ngày mai ta sẽ lần lượt kiểm tra, xem đứa này có hiểu bài học của đứa kia không.

Ông đưa ra một vật tròn bằng gỗ, nói:

- Hãy nhớ lên dây đều đặn, vật này sẽ đánh thức các con đúng giờ mỗi buổi sáng. Sau khi tắm và ăn điểm tâm, trở lại đây ngay.

Er­agon không ngờ món đồ chơi nhỏ xíu lại nặng thế. Hình dáng và kích cỡ nhỏ như một trái bồ đào với những đường trổ xoắn ốc quanh một cái núm. Er­agon xoay thử cái núm và nghe ba tiếng lách cách nhỏ, như những đường khớp răng cưa bắt đầu chuyển động. Nó cúi đầu nói:

- Đa tạ sư phụ.

Dưới bóng cây Menoa

Sau khi cúi đầu chào, Er­agon và Saphi­ra cùng bay về ngôi nhà cây. Bộ yên cương mới lủng lẳng dưới móng hai chân trước của Saphi­ra. Dù không đứa nào nhận lỗi, nhưng dần dần cả hai đều cởi mở tri giác để có thể gi­ao tiếp dễ dàng cùng nhau. Cảm xúc sôi nổi trong Er­agon làm Saphi­ra chú ý, nó vội hỏi: “Er­agon, chuyện gì vậy?”

Er­agon kể lại sai lầm khủng khiếp đã gây ra cho đứa nhỏ tại Far­then Dur làm Saphi­ra hoảng hốt không kém. Nhưng Er­agon bảo: “Món quà em ghi dấu trên trán, có thể giúp đứa trẻ phần nào, nhưng chuyện anh làm thật khó mà tha thứ.”

“Không thể đổ hết lỗi cho anh được. Em chia sẻ sự hiểu biết cổ ngữ cùng anh, em cũng đâu phát hiện ra sai sót đâu.”

Er­agon im lặng. Saphi­ra an ủi nói: “Điều đáng mừng là lưng anh hôm nay không còn đau nữa. Vậy là tốt rồi.”

Er­agon đổi đề tài: “Hôm nay em học được những gì?”

“Phát hiện và tránh thời tiết nguy hiểm.”

Thấy Er­agon vẫn bận tâm vì chuyện chúc phúc lầm, chẳng để ý gì đến những gì nó kể, Saphi­ra lại lẳng lặng tiếp tục bay.

Về tới phòng ngủ, Er­agon thấy một khay thức ăn đã để sẵn bên cửa như đêm qua. Cầm khay vào giường, nó vừa lèm bèm rủa thầm vì thiết thịt, vừa kề gối sau lưng để ngồi. Giữa lúc đó có tiéng gõ bên ngoài. Er­agon lên tiếng:

- Cứ vào.

Er­agon suýt sặc miệng nước vừa uống khi Arya bước qua ngưỡng cửa. Thay vì áo da như thường ngày, Arya mặc áo vải mềm màu xanh lục, thắt một cái đai đính đá trăng. Giải băng cố hữu trên đầu cũng không còn, mái tóc óng ả phủ quanh mặt, buông xuống hai vai. Nhưng sự đổi thay lớn nhất không chỉ do trang phục. Vẻ cứng rắn, xa cách trong thái độ từ lần đầu gặp cô, giờ hoàn toàn biến mất. Trông Arya thật thoải mái, dịu dàng.

- Arya, nàng tới đây có việc gì?

Nhẹ đặt hai ngón tay lên môi, Arya nói:

- Chàng định ở trong nhà suốt buổi chiều sao?

- Tôi…

- Chàng đã tới Ellesméra được ba ngày rồi, mà vẫn chưa biết gì về kinh thành của chúng tôi. Biết chàng rất muốn được khám phá nơi này, vậy hãy gác những lo nghĩ sang một bên. Đi theo tôi.

Vừa nói Arya vừa tiến lại cầm thanh Zar’roc, rồi ra dấu cho Er­agon đi theo.

Er­agon cùng cô tiến qua tiền sảnh, theo cầu thang cuốn vòng quanh một thân cây xuống đất. Trên đầu họ những cụm mây rực sáng trong ánh nắng cuối ngày.

Một mảnh vỏ cây rơi trúng đầu làm Er­agon ngẩng nhìn lên: Saphi­ra vươn ra từ phòng ngủ. Không cần mở cánh nó phóng thân hình đồ sộ từ độ cao mấy chục mét xuống. Một tiếng uỵch nặng nề vang trên mặt đất: “Em cũng đi.”

- Tất nhiên.

Arya thản nhiên nói trong khi Er­agon rủa thầm, vì nó chỉ mong được một mình bên nàng.

Họ đi dưới những tàn cây rậm rạp che phủ ánh mặt trời. Lác đác trong cành lá, những ngọn đèn xanh ngọc tỏa ánh sáng dịu dàng xuống lối đi.

Rải rác trong vùng sáng và bóng tối, các thần tiên say sưa làm việc đơn lẻ, thỉnh thoảng mới có một nhóm chỉ hai người. Nhiều vị vắt vẻo trên cành cao, véo von thổi sáo. Lại có những vị mơ màng, thanh thản nhìn trời. Một vị khoanh chân bên một bàn xoay nặn gốm; dưới tay ông, một chiếc bình tinh xảo đã thành hình. Kế bên, mèo ma Maud ẩn mình trong tối chăm chú nhìn ông làm việc. Đôi mắt nó rực sáng khi thấy Er­agon và Saphi­ra bước qua. Vị tiên ông, nhìn theo hướng mắt ma mèo, rồi gật đầu chào.

Er­agon thấy một thần tiên – không rõ nam hay nữ - ngồi trên một tảng đá giữa dòng suối, lẩm nhẩm niệm chú lên một quả cầu thủy tinh trên bàn tay. Quả cầu chợt biến mất.

Để không làm phiền ai, Er­agon thì thầm thật nhỏ, hỏi Arya:

- Thần tiên làm gì để kiếm sống.

- Khả năng phép thuật ban cho chúng tôi sự nhàn hạ thảnh thơi. Chúng tôi không săn mồi, không trồng tỉa; vì vậy thời gi­an chỉ dành để tu luyện hòng chế ngự những gì chúng tôi quan tâm.

Qua một đường hầm bằng cây dương đào phủ đầy dây leo, họ tiến vào một mảnh sân vây quanh bởi một vòng cây. Dưới mái lều giữa sân cỏ một lò rèn và những dụng cụ mà Er­agon biết chắc chú Horst hằng mơ ước. Một tiên nữ tay trái cầm cây kẹp sắt hơ trên lò than, tay phải đẩy bễ. Bà ta thoăn thoắt gần cái khoen nhỏ đỏ rực trên đầu kẹp vào một tấm áo giáp còn dang dở, đặt trên cái đe. Nắm chặt cây búa, bà đập mạnh lên cái khoen làm tung tóe những đốm lửa sáng rực.

Arya tiến vào lên tiếng:

- Atra seterní ono thel­duin.

Bà ta ngẩng nhìn. Ánh than hồng rọi lên làn da mặt và cổ nhăn nheo. Lần đầu tiên Er­agon nhìn thấy biểu hiện tuổi già của một thần tiên.

Bà không trả lời Arya - một thái độ chống đối và không lịch sự, nhất là với Arya, một vị công chúa, con gái của nữ hoàng, trong khi nàng đã lên tiếng chào hỏi trước.

Arya vẫn bình thản nói:

- Rhunon tiền bối, tôi đưa đến một kỵ sĩ mới, Er­agon Khắc-​Tinh của Tà-​Thần.

Rhunon nói với Arya:

- Ta nghe đồn công nương chết rồi mà.

Không giống những thần tiên khác, giọng bà ta cắm cẳn ồ ề, làm Er­agon nhớ lại mấy ông già dân làng Car­va­hall, chiều chiều ngồi ngoài hiên phì phèo tẩu thuốc, kể chuyện ngày xưa.

Arya mỉm cười hỏi:

- Bao lâu rồi tiền bối không ra khỏi nhà?

- Công nương phải biết chứ. Đó là lần công nương ép tôi đến Hội Mừng Hè.

- Ba năm qua rồi.

- Vậy sao? Hừ, hội với hè, toàn đám đàn bà ngồi lê đôi mách. Nhưng thôi, công nương tới đây làm gì? Chắc không ngoài ý định nhờ tôi rèn một thanh kiếm cho con người này? Công nương biết rõ, từ sau ngày tên kỵ sĩ phản bội đó dùng gươm của tôi để hủy hoại, giết chóc, tôi đã thề không bao giờ làm ra những vật giết người như thế nữa rồi mà.

- Không. Er­agon đã có kiếm rồi.

Arya nâng thanh Zar’roc trước mặt bà ta. Rhunon đón thanh kiếm với ánh mắt đầy kinh ngạc. Bà vuốt ve chuôi thanh kiếm đỏ rực, ngón tay ngập ngừng trên dấu khắc màu đen, rồi nắm tay rút kiếm ra khỏi vỏ uy nghi như một chiến binh dũng mãnh. Vung kiếm khỏi đầu, Rhunon chém mạnh một nhát, xẻ cái kẹp sắt trên đe đứt làm hai.

Ôm Zar’roc trong tay, Rhunon đong đưa như mẹ ru con:

- Ôi, Zar’roc, ta nhận ra mi rồi. Mi hoàn hảo như ngày mi mới ra lò. Suốt đời, ta đã rèn ra những thanh gươm quý như thế này từ quặng sắt. Thế rồi hắn đến, hủy hoại tất cả. Bao thế kỷ nhọc công tan tành trong thoáng chốc. Cho đến lúc này ta được biết, chỉ còn bốn tác phẩm của ta tồn tại. Một thanh của hắn, một của Oromis, còn hai thanh do hai gia đình cất giữ sau khi giải cứu chúng khỏi tay Wyrd­fell.

- Wyrd­fell là gì?

- Là phản đồ.

Rhunon quay lại Er­agon:

- Giờ thì Zar’roc đã trở về. Trong tất cả những thanh kiếm ta tạo ra, ta ít có hy vọng được ôm lại Zar’roc trong tay nhất. Làm sao mi có được thanh kiếm này của Morzan?

- Ông Brom đã cho cháu.

- Brom? Brom… Ta nhớ rồi. Hắn đã nài nỉ ta làm một thanh để thay thế thanh bị mất. Thật tình ta rất muốn giúp hắn, nhưng ta đã phát thệ rồi. Hắn giận điên lên vì bị ta từ chối. Oromis phải đánh cho hắn ngất đi, mới đưa được hắn ra khỏi nơi này.

- Tiền bối Rhunon, thanh kiếm của bà đã cứu cháu. Nếu không có Zar’roc, cháu chết từ lâu rồi. Cháu đã giết Tà Thần Durza bằng thanh kiếm này.

- Thật sao? Vậy là Zar’roc đã làm được điều tốt.

Rhunon gần như miễn cưỡng khi phải trao trả thanh Zar’roc cho Er­agon, rồi quay sang Saphi­ra:

- A, chào mi, Skul­bla­ka.

Saphi­ra biết Skul­bla­ka nghĩa là rồng trong cổ ngữ. Nó cúi đầu: “Xin chào tiền bối Rhunon.”

Không hề xin phép, bà tiên già leo lên cổ Saphi­ra, vỗ vỗ móng tay cụt ngủn lên một cái vảy rồng:

- Đẹp, đẹp lắm. Không lấm lem bùn đất như những con rồng khác. Nói một cách chính xác thì kiếm của một kỵ sĩ phải xứng hợp với màu sắc của rồng. Màu xanh này phải đi với một lưỡi gươm rực rỡ…

Ý nghĩ đó dường như vắt cạn hết sức lực, Rhunon nhìn hai mảnh kẹp, như không còn ý chí hàn lại nữa. Er­agon muốn tìm một câu để làm cho bà khuây khỏa nỗi buồn vì đã trót thề không bao giờ tôi rèn kiếm nữa, nhưng chưa biết nói gì. Nó chợt chú ý đến thân trên chiếc giáp và càng quan sát nó càng thêm kinh ngạc: mỗi chiếc khoen nhỏ li ti đều được hàn kín. Er­agon trầm trồ:

- Chưa bao giờ cháu thấy một áo giáp của người lùn. Làm cách nào bà có thể kiến nhẫn hàn từng mối nhỏ xíu như vậy được? Sao không dùng phép thuật cho công việc được nhẹ nhàng hơn?

Không ngờ nó đã làm bà tiên già sôi nổi hẳn lên:

- Phép thuật? Để chiếm đoạt hết niềm vui trong lao động của ta sao? Nếu muốn, thần tiên nào cũng có thể nhờ phép thuật để có được những gì mình muốn. Nhưng… như thế đời sống còn ý nghĩa gì? Cho ta biết, thời gi­an mi dùng làm gì?

Er­agon thú thật:

- Cháu không biết.

- Để theo đuổi những gì mi yêu thích nhất. Cần gì, chỉ niệm mấy câu thần chú là có ngay, mục đích sẽ trở thành vô giá trị. Hãy nhớ bài học đó. Sẽ có ngày mi phải lựa chọn giữa phép thuật và chính sức mình… Bây giờ thì đi đi, ta chán những chuyện tào lao này lắm rồi.

Nói xong, Rhunon trở lại cùng cái bễ và lò than.

Arya nói:

- Rhunon tiền bối, hãy nhớ là tôi sẽ trở lại đón tiền bối vào chiều tối Agaetí Blodhren.

Rhunon không ngẩng lên, chỉ ậm ừ trả lời. Tiếng đe búa chan chát và hình bóng bà tiên già bên lò than theo Er­agon suốt đoạn đường hầm ra tới đường. Nó hỏi Arya:

- Tất cả kiếm của các kỵ sĩ đều do tay bà tạo ra sao?

- Bà là một nhà luyện kiếm tài năng nhất của chúng tôi. Tôi nghĩ chàng nên gặp bà, vì bà và vì lợi ích của chính chàng.

- Cám ơn lời khuyên của nàng.

Saphi­ra chợt hỏi: “Lúc nào bà ta cũng cộc cằn dữ vậy sao?”

Arya cười lớn:

- Suốt bốn mùa. Bà không quan tâm tới gì khác ngoài công việc thủ công, bà còn nổi tiếng là người rất khó chịu với kẻ nào đến quấy rầy. Tuy nhiên, tính nết kỳ cục đó không làm ai giận, vì… tài năng và những sản phẩm tuyệt vời của bà.

Vừa nghe Arya nói, Er­agon vừa cố đoán Agaetí Blodhren nghĩa là gì. Blodh chắc chắn là máu rồi, nhưng còn agaetí? Nó chưa từng nghe bao giờ.

Đáp lại câu hỏi của Er­agon, Arya cắt nghĩa:

- Agaetí là lễ hội. Chúng tôi tổ chức lễ hội mừng Huyết Thệ mỗi thế kỉ một lần. Chàng và Saphi­ra đều may mắn khi có mặt tại đây… Số mệnh đã thu xếp cho sự ngẫu nhiên tốt lành này.

Arya làm Er­agon ngạc nhiên khi hướng dẫn nó đi sâu vào Du Welden­var­den, bước xuống những lối đi rắc rối, dưới những cành lá chi chít đan xen không để chút kẽ hở cho ánh sáng xuyên qua. Er­agon lần mò trong tối, đi theo đôi mắt tinh tường của Saphi­ra. Những thân cây cao lớn xù xì càng lúc càng như mọc sát nhau hơn. Ngay khi cây cối ken nhau nhơ một tấm rào chắn cuối rừng, tất cả tiến vào một hoảng trống chan hòa ánh trăng.

Chính giữa khoảng trống là một cây thông đơn lẻ, không cao hơn những cây anh em chung quanh nó, nhưng thân lớn hơn gấp trăm lần. Từ thân cây khổng lồ, cả một tấm thảm rễ - to lớn khỏe mạnh – bao phủ mặt đất như những mạch máu nuôi sống toàn thể khu rừng, như chính nó là trái tim của Du Welden­var­den. Sừng sững giữa rừng, cây thông đơn lẻ giống như bà mẹ hiền che chở đàn con dưới những cành lá vươn dài.

Arya thì thầm:

- Hãy chiêm ngưỡng cây Menoa. Chúng tôi tuân thủ lời huyết thệ dưới bóng râm của bà.

Er­agon lạnh người khi nghe Arya nói lên tên cây. Tại thành Teirm, sau khi bà phù thủy An­gela đoán vận mệnh cho nó, mèo ma Solem­bum đã căn dặn thêm: “Tới thời điểm mi cần một vũ khí, hãy nhìn xuống gốc cây Menoa. Sau đó, khi gần như tuyệt vọng, sức tàn lực kiệt, mi hãy tới trước tảng đá Kuthi­an, tự xưng tên và Cửa Linh Hồn sẽ mở.” Er­agon không tưởng tượng nổi loại vũ khí nào mà lại ở dưới gốc cây này và làm cách nào để tìm ra.

Saphi­ra hỏi: “Anh có thấy gì không?”

”Không. Nhưng anh tin những lời nói của Solem­bum sẽ sáng tỏ khi chúng ta thật sự cần đến.”

Er­agon kể cho Arya nghe hai lời tiên tri của ma mèo. Tuy nhiên, nó không thuật lại những lời của bà An­gela, vì ngại Arya đoán ra nỗi lòng của nó.

Arya nói:

- Ma mèo ít khi giúp ai, nhưng khi chúng đã giúp, chàng nên lưu tâm. Nhưng theo tôi biết, không có vũ khí nào chôn giấu tại đây, kể cả trong những bài ca và truyền thuyết cũng không thấy nhắc đến chuyện này. Còn tảng đá, hay núi đá Kuthi­an… cái tên nghe mơ hồ trong đầu như một giấc mơ, vừa quen vừa lạ. Hình như tôi đã nghe tên này, nhưng không nhớ ở đâu.

Tiến gần cây Menoa, Er­agon chợt chú ý tới bầy kiến đang bò trên gốc cây, tuy nhiên nó chỉ thấy những đốm đen lờ mờ; nhưng theo hướng dẫn của sư phụ, nó dễ dàng cảm nhận cuộc sống đang xảy ra chung quanh và có thể tiếp xúc với ý thức thô thiển của bầy kiến.

Nó phóng tư tưởng mạnh hơn để tìm hiểu những đời sống khác trong khoảng đất này. Hoàn toàn bất ngờ, Er­agon bắt gặp một thực thể bao la, một cảm giác sống động bao trùm cảnh vật, mà nó không thể biết giới hạn tới đâu. So sánh với trí năng của sư phụ Oromis – khi nó được gi­ao tiếp tại Far­then Dur – thì cái tinh thần này mạnh mẽ gấp bội lần. Ngay cả không gi­an dường như cũng bị chao đảo vì năng lực phát ra từ… cây Menoa.

Thong thả, bình thản, ý nghĩ của cây tính toán từng bước, như đang chậm rãi trườn mình trên mặt đá. Tư tưởng đó không quan tâm tới Er­agon, hay bất cứ cá nhân nào, mà chỉ hoàn toàn chú tâm trong việc làm cho cây cối cỏ hoa phát triển xanh tươi: hồng thắm, ngọc trâm, cúc quỳ, thược dược… đua nhau nở rộ.

Er­agon bàng hoàng reo lên:

- Nó thức dậy! Tôi muốn nói là… nó có… trí khôn!

Chắc chắn Saphi­ra cũng cảm thấy điều đó. Nó vươn cổ lắng nghe, rồi bay lên một cành cây. Đậu trên cành cây lớn như con đường từ làng Car­va­hall tới Therins­ford, Saphi­ra khoan khoái ve vẩy cái đuôi to đùng. Nhìn cảnh một con rồng đậu trên cành cây, Er­agon suýt phì cười.

Giọng Arya nho nhỏ hòa vào bóng đêm:

- Đúng là bà ấy đã thức dậy. Càng có muốn nghe kể chuyện về cây Menoa không?

- Tôi rất thích nghe.

Một vệt sáng trắng thoáng qua bầu trời, rồi hiện lên nguyên hình kế bên Saphi­ra: con quạ Blag­den vươn đầu, the thé kêu lên: “Wyr­da”.

- Ngày xưa, trong thời kỳ tràn ngập hương liệu và rượu nho, trước khi chiến tranh với loài rồng xảy ra… Một phụ nữ tên là Lin­nea sống một mình và hiến cả cuộc đời cho nghệ thuật ca hát để cây cối lớn lên. Bà không tha thiết đến chuyện chồng con. Thế rồi, một ngày kia có chàng trai trẻ đến ngỏ lời yêu thương. Tình cảm của chàng đánh thức trong lòng Lin­nea cảm giác mà bà tưởng không bao giờ có thật: niềm khao khát được yêu thương và được hy sinh cho người mình yêu. Vì vậy, lần chàng ngỏ lời lần sau, Lin­nea đã không thể cầm lòng. Bà rời bỏ công việc, sống hạnh phúc với người yêu… được một thời gi­an. Nhưng vì còn trẻ, chàng lại tìm thấy tình yêu mới với một cô gái ít tuổi hơn mình. Đôi mắt chàng luôn tràn ngập hình ảnh cô ta. Chàng chinh phục và sống hạnh phúc với người con gái đó. Khi Lin­nea khám phá ra sự phản bội, bà như phát điên vì đau khổ. Chàng tuổi trẻ đã gây nên một sai lầm tệ hại: đã cho Lin­nea tận hưởng hạnh phúc trong đời, rồi rũ bỏ bà không hề áy náy. Bà tìm gặp anh ta và cô gái kia. Trong một cơn phẫn nộ, Lin­nea đã đâm chết người tình cũ. Lin­nea biết mình đã gây ra tội ác và dù có được tha thứ, bà cũng không thể trở lại như xưa. Đời bà đã mất hết niềm vui sống. Vì vậy, bà tìm đến một cây cổ thụ tại Du Welden­var­den, ép mình vào cây, thề tuyệt đối trung thành cùng nòi giống. Bà đã hát suốt ba ngày cho đến khi bà và cây hòa vào nhau làm một. Từ đó, qua nhiều thiên niên kỷ, Lin­nea săn sóc và bảo vệ rừng cây. Cây Menoa đã được sinh ra như vậy đó.

Er­agon lặng lẽ ngồi bên Arya trên một rễ cây khổng lồ. Nó tự hỏi, không hiểu Arya vô tình, hay cố ý kể chuyện này để cảnh cáo nó. Sự nghi ngờ càng mạnh khi nó nghe nàng hỏi:

- Theo chàng, trong thảm kịch này, chàng thanh niên có đáng trách không?

Er­agon ngập ngừng lựa lời:

- Theo tôi… anh ta tỏ ra tàn nhẫn quá, còn phản ứng của Lin­nea lại thái quá…Cả hai đều có lỗi.

Arya trừng trừng nhìn cho đến khi Er­agon phải quay qua hướng khác. Cô nói rành mạch từng tiếng.

- Họ không xứng đôi. Chỉ có vậy thôi.

Er­agon định cãi lại, nhưng rồi lại nghĩ: Cô ta nói đúng. Arya tiếp tục nhìn làm nó phải nói ra lời:

- Có thể là vậy.

Sự yên lặng giữa hai người càng nặng nề hơn. Tiếng một con dế gáy vang đâu đó. Sau cùng, Arya lên tiếng hỏi:

- Chắc chàng muốn trở về rồi. Er­agon lặng lẽ gật đầu. Arya cúi nhặt mấy nhánh Menoa trên mặt đất và bắt đầu đan một cái giỏ nho nhỏ. Cảm thấy mặt nóng bừng bừng khi ngắm nhìn Arya, Er­agon mong ánh trăng không đủ sáng để cô không thể nhìn thấy màu đỏ trên hai má nó.

- Nàng… sống ở đâu? Trong cung hay lâu đài?

- Nữ hoàng và tôi sống trong cung điện Tial­darí, phía bắc Ellesméra. Mong có ngày chúng tôi sẽ tiếp chàng tại đó.

- A… ư… Arya, nàng có anh chị em ruột chứ?

Cô lắc đầu, Er­agon hỏi tiếp:

- Vậy, nàng là người kế vị ngai vàng duy nhất của thần tiên?

Arya có vẻ thú vị vì sự hiếu kỳ của Er­agon:

- Đúng vậy, nhưng chàng hỏi làm gì?

- Vì tôi không hiểu tại sao nàng lại được phép trở thành sứ thần tại nơi Var­den và người lùn, cũng như lãnh nhiệm vụ luân chuyển trứng Saphi­ra từ đây tới Tron­ji­heim. Đó là một công tác quá nguy hiểm cho một công chúa, chưa nói đến một bà hoàng tương lai.

- Chàng đang nói đến vấn đề… quá nguy hiểm đối với một cô gái của loài người. Trước đây tôi đã từng nói, tôi không phải là một trong số những con người yếu đuối đó. Chàng phải hiểu rằng, quan điểm của chúng tôi về chế độ quân chủ khác với loài người và người lùn. Với chúng tôi, nhiệm vụ cao quý nhất của một ông vua hay một bà hoàng là phục vụ thần dân khi có thể, bằng mọi cách, ở mọi nơi. Điều đó có nghĩa là, dù phải hy sinh mạng sống, chúng tôi sẵn sàng chứng tỏ tấm lòng tận tụy với… nói theo kiểu của người lùn… thì là: gia đình, vương triều và danh dự. Nếu tôi bị chết trong lúc thi hành nhiệm vụ, sẽ có người kế nhiệm được tuyển chọn trong những dòng tộc của hoàng gia. Chúng tôi không chọn người lãnh đạo thiếu nhiệt huyết cùng bổn phận.

Arya co chân trước ngực, dựa cằm lên đầu gối, ngập ngừng nói:

- Phải mất nhiều năm, mẹ con tôi mới hòa giải được vì những tranh cãi trong vấn đề này. Sao, việc học của chàng với Oromis tới đâu rồi?

Câu hỏi làm Er­agon cảm thấy giây phút bên nàng chợt kém vui:

- Tiền bối Oromis… rât uyên thâm…

Er­agon nhăn mặt vì bị Arya xiết chặt cánh tay, hỏi:

- Chuyện gì làm chàng không vừa ý vậy?

Cố kéo tay về, Er­agon nói ngay:

- Không có gì.

- Tôi cùng đi với chàng đủ lâu để hiểu, khi nào chàng vui vẻ, giận hờn hoặc… đau khổ. Chuyện gì đã xảy ra giữa chàng và Oromis? Hay vì vết thương đau lại? Chúng ta có thể…

- Không phải vì chuyện huấn luyện. Thôi, hỏi Saphi­ra đi, nó sẽ kể cho nghe.

- Tôi muốn nghe chính chàng nói ra.

Er­agon thì thầm kể lại chuyện làm nó đau khổ như đang có một con rắn độc cuộn mình trong lồng ngực: vụ chúc phúc cho đứa trẻ tại Far­then Dur.

Arya buông cánh tay Er­agon, nắm lấy rễ cây Menoa như cố ngồi cho vững vàng hơn.

- Barzul!

Lời nguyền rủa bằng ngôn ngữ người lùn làm Er­agon giật mình. Chưa bao giờ Arya mở miệng rủa một câu nào.

- Tôi có biết hành động đó của chàng tại Far­then Dur, nhưng không bao giờ tôi tưởng… Không bao giờ ngờ cớ sự lại xảy ra như vậy. Er­agon, tha lỗi cho tôi vì đã bắt chàng ra khỏi phòng tối nay. Đáng lẽ nên để chàng yên tĩnh nghỉ ngơi.

- Không đâu, trái lại, tôi rất sung sướng được đi cùng nàng, rất cám ơn nàng vì những hiểu biết hôm nay.

Er­agon mỉm cười nhìn Arya. Cô lặng lẽ nhìn lại rồi cũng nhoản miệng cười.

Hai chiếc bóng nhỏ bé ngồi kề bên nhau dưới gốc cây khổng lồ, cùng ngước nhìn vầng trăng lấp ló sau màn mây. Er­agon thì thầm:

- Tôi chỉ tự hỏi rồi đây chuyện gì sẽ xảy ra cho em nhỏ đó.

Tuốt trên cao, con quạ Blag­den vỗ đôi cánh trắng, choe chóe kêu vang: “Wyr­da!”

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play