Thình thịch.

Con rồng xuất hiện chói chang như mặt trời, đôi cánh khổng lồ phát ra những luồng gió xô dạt Er­agon và những người đang đứng bên bờ vực Tel’naeír. Những vẩy vàng trên toàn thân con rồng sáng rực như ánh lửa, rắc vô vàn những đốm sáng lung linh khắp mặt đất, cỏ cây. Nó to lớn hơn Saphi­ra nhiều - lớn đủ để đoán nó phải đến vài trăm năm tuổi - cổ, đuôi và bốn chân đồ số rất tương xứng với thân hình.

Trên lưng con rồng vàng đó là một kỵ sĩ trong trang phục trắng.

Er­agon ngửa mặt, hai gối quị xuống đất.

“Mình không còn đơn độc nữa rồi.” Trong lòng vừa thư thái vừa kính sợ, nó cảm thấy từ nay không còn một mình gánh vác trách nhiệm nặng nề phục vụ Var­den chống lại Gal­ba­torix nữa. Đây là một trong những chiến sĩ bảo vệ từ xa xưa, nay hồi sinh để hướng dẫn cho nó. Đây là một biểu tượng sống và là một di chúc của truyền thuyết mà nó từng được dạy bảo từ lúc lớn khôn. Và đây chính là sư phụ của nó.

Khi con rồng vàng đảo mình hạ cánh, Er­agon như nghẹn thở, nước mắt ứa ra: chân trái của rồng bị chặt đứt, chỉ còn trơ lại một mẩu màu trắng.

Một cơn trốt cuốn cành lá quay cuồng trên đỉnh đồi, khi còn rồng khép cánh, đầu xuống. Vị kỵ sĩ thận trong xuống khỏi lưng rồng, ở phía chân phải trước còn lành lặn của nó. Hai tay ôm ngực, ông tiến lại Er­agon.

Đó là một tiên ông với mái đầu màu bạc, không thể đoán được ông già đến ngần nào, vì dấu hiệu tuổi tác chỉ biển hiện bằng vẻ mặt đầy từ bi và u buồn của ông.

Er­agon lên tiếng:

- Thưa Os­tha­to Chetowa - Hiền-​nhân sám hối… theo lời người, cháu đã đến đây.

Giật mình nhớ lại, Er­agon đặt hai ngón tay lên môi, nói tiếp:

- Atra es­erní ono thel­duin.

Lão kỵ sĩ mỉm cười, kéo Er­agon đứng dậy. Đôi mắt ông nhìn Er­agon hiền hậu tới nỗi nó như bị cuốn hút vào đôi mắt thăm thẳm tình nhân ái của ông.

- Này, Er­agon Khắc-​Tinh của Tà-​Thần, tên thật của ta là Oromis.

Vẻ đau khổ của nữ hoàng Is­lanzadí chuển thành phẫn nộ, bà cao giọng bảo:

- Ông biết chuyện Er­agon, nhưng không cho ta biết. Vì sao ông phải giấu ta?

Oromis quay nhìn nữ hoàng:

- Tôi giữ im lặng là vì không chắc Arya, Er­agon và Saphi­ra có sống sót để về tới đây được không; tôi không muốn gây cho nữ hoàng một hy vọng quá mong manh như vậy.

Nữ hoàng quay đi, vạt áo lông thiên nga phất phới như đôi cánh:

- Ông không được phép dấu diễm ta những tin tức như thế. Nếu biết, ta đã cho quân đi bảo vệ Arya, Er­agon và Saphi­ra tại Far­then Dur và hộ tống chúng an toàn về tận đây rồi.

Oromis buồn rầu mỉm cười:

- Tôi không giấu diếm lệnh bà điều gì, chính lệnh bà đã không muốn nghe, không muốn nhìn gì hết. Nếu lệnh bà thu hình ảnh để quan sát – vì đó là bổn phận của lệnh bà - hẳn lệnh bà đã phát hiện những xáo trộn trên đất nước Ala­gae­sia và đã biết sự thật về Arya và Er­agon. Chuyện lệnh bà không quan tâm tới Var­den và người lùn vì nỗi buồn riêng, còn có thể thông cảm nổi, nhưng còn Brom? Còn Vinr Al­fakyn? Những Hảo-Bằng-​Hữu cuối cùng của thần tiên? Nữ hoàng Is­lanzadí, bà đã nhắm mắt làm ngơ với thế giới chung quanh, bỏ bê triều chính, tôi không thể liều lĩnh để bà đi xa hơn với một sai lầm khác nữa.

Hai vai xuôi xuống, mặt nhợt nhạt, nữ hoàng lẩm bẩm:

- Ta thật sai lầm.

Một làn mây nóng hổi phả lên Er­agon khi con rồng vàng cúi thấp đầu, quan sát nó bằng đôi mắt long lanh sáng: “Er­agon Khắc-​Tinh của Tà-​Thần, chúng ta gặp nhau là một duyên lành. Tên ta là Glae­dr.”

Giọng trầm, rõ ràng là của một anh rồng đực, rầm rầm trong trí Er­agon như núi long đá lở.

Er­agon đặt hai ngón tay lên môi, nói: “Rất hân hạnh.”

Glae­dr quay qua ngắm Saphi­ra. Cô ả im thin thít, cổ vươn ra cứng đơ khi bị con rồng vàng đánh hơi hai má và đôi cánh: “Cô em toàn hơi hướm loài người. Tất cả những gì em biết về nòi giống mình đều chỉ do bản năng hướng dẫn, tuy nhiên em biết về nòi giống mình đều chỉ do bản năng hướng dẫn, tuy nhiên em có một trái tim thật sự của loài rồng.”

Trong khi hai con rồng âm thầm trao đổi, ông lùn Orik tự giới thiệu với Oromis:

- Thật tình, sự hội nghộ này vượt ngoài cả mong ước của tôi. Ngài là một niềm vui bất ngờ trong thời đại u tối này, thưa kỵ sĩ.

Đặt nắm tay lên trái tim, Orik nói tiếp:

- Nếu ngài không kết tội tôi quá đường đột, mạn phép đại diện cho đức vua và dòng tộc, tôi xin ngài một ân huệ.

Oromis gật đầu:

- Tôi sẵn lòng, nếu điều đó nằm trong quyền hạn của tôi.

- Vậy thì, xin ngài cho biết: Vì sao ngài ẩn dật suốt bấy nhiêu năm? Bàn-​tay-​bạc, ngài biết sự có mặt của ngài là điều cần thiết đến ngần nào mà.

- A… quá nhiều nỗi khổ tồn tại trên cõi đời này, một vĩ nhân cũng không đủ khả năng xoa dịu những đau đớn đó. Lý do ẩn dật của tôi, chỉ vì tôi không dám liều mạng, vì lỡ tôi chết trước khi những trứng rồng trong tay Gal­ba­torix nở ra, thì đâu còn ai truyền lại những bí kíp cho những kỵ sĩ mới, và như vậy việc triệt hạ Gal­ba­torix càng thêm gay go gấp bội lần.

- Đó là lý luận của ngài. Nhưng những lời đó nên dành cho một kẻ hèn nhát thì hơn. Vì trứng rồng có thể không bao giờ nở. Chẳng lẽ ngài trốn tránh mãi sao?

Tất cả đều chết lặng, chỉ còn tiếng nghiến răng ken két của con rồng vàng.

Nữ hoàng giận dữ:

- Orik, nếu ông không là khác của ta, ta sẽ tự tay chém ông vì tội vô phép đó.

Oromis gi­ang hai tay:

- Không. Tôi không phản đối những lời thích đáng đó của Orik. Nhưng Orik, ông nên biết một điều: Glae­dr và tôi không còn khả năng chiến đấu nữa. Glae­dr bị tàn tật, còn tôi…

Lão kỵ sĩ đưa tay sờ lên thái dương:

- Tôi cũng là một kẻ tật nguyền. Khi bị bắt, những tên phản đồ đã hủy nội công của tôi, vì vậy tôi chỉ có thể dạy và học, không còn sử dụng được phép thuật, trừ những câu thần chú rất tầm thường. Dù có cố gắng vô cùng, nội công hầu như không hồi phuc. Nếu phải lâm trận tôi chỉ trở thành một gánh nặng; còn nếu bị bắt, chúng sẽ dùng tôi để gây sức ép với mọi người. Do đó, tôi tìm cách tránh khỏi ảnh hưởng của Gal­ba­torix là vì mong muốn điều tốt lành cho tất cả, mặc dù tôi luôn khao khát được công khai đối đầu cùng bạo chúa.

Er­agon lẩm bẩm:

- Tàn-​Mà-​Không-​Phế!

Orik áy náy cúi đầu:

- Xin tha lỗi cho tôi.

- Ông đừng ngại, không có chi đâu.

Oromis nói với ông lùn, rồi đặt tay lên vai Er­agon, quay lại nữ hoàng:

- Xin phép lệnh bà.

- Đi đi. Hãy làm tròn nhiệm vụ của ông.

Glae­dr hạ mình sát đất, Oromis lẹ làng leo lên chân, rồi thót lên yên trên lưng con rồng vàng.

- Đi nào Er­agon, Saphi­ra. Chúng ta còn nhiều chuyện phải bàn.

Con rồng vàng phóng mình khỏi miệng vực, rồi bay vút lên cao. Orik và Er­agon quyến luyến nắm tay nhau. Ông lùn căn dặn:

- Hãy đem vinh dự về cho bộ tộc.

Leo lên yên của Saphi­ra, Er­agon cảm thấy như sắp lên đường đi xa, và cần phải nói đôi lời chia tay với những người ở lại. Tuy vậy nó chỉ nhìn Arya hớn hở mỉm cười. Cô hơi nhíu mày, vẻ lo lắng. Rồi Er­agon biến mất trên bầu trời, sau mấy sải cánh đầy phấn khởi của Saphi­ra.

Hai con rồng cùng nhau bay nhiều dặm theo những triền núi trắng, về phương bắc. Niềm hân hoan của Saphi­ra truyền qua, làm cảm xúc của Er­agon càng thêm sôi nổi.

Tới mặt phẳng trên một bờ vực, có bức tường đá lởm chởm ngăn phía sau, hai con rồng hạ cánh, Từ bờ vực, mmột con đường mòn dẫn tới bực thêm của một căn lều mọc ra từ chính giữa bốn thân cây. Một trong bốn cây đứng bên bờ một dòng suối nhỏ, róc rách từ rừng thẳm tuôn ra. Căn lều bé nhỏ như lọt thỏm giữa những cặp xương sườn khổng lồ của con rồng vàng.

Oromis lên tiếng:

- Ta sống bên bờ vực tính mịch này để có thể suy nghĩ và luyện tập. Xa khỏi hoàng cung và những phiền muộn của mọi người, tâm trí ta được thư thái hơn.

Ông vào lều, rồi trở ra với hai ghế đẩu và hai cốc nước lã trong veo. Er­agon nhấp từng ngụm nước, ngắm cảnh chung quanh để che dấu sự bối rối. Nó hồi hộp tự nhủ: “Mình đang được ngồi trước mặt một lão tiền bối kỵ sĩ rồng.” Saphi­ra nằm kế bên, mắt gắn vào Glae­dr, móng nhè nhẹ cào trên nền đất.

Yên lặng kéo dài mười phút… nửa tiếng… rồi một tiếng… Er­agon lẳng lặng nhìn bóng mặt trời trôi qua.

Rồi Oromis chợt lên tiếng:

- Con đã học được giá trị của sự kiễn nhẫn. Điều đó rất tốt.

Một lát say Er­agon mới tìm được câu trả lời:

- Hấp tấp không thể theo dõi được nau rừng.

- Chính xác. Đưa bàn tay cho ta coi. Ta nghe đồn rất nhiều về bàn tay này.

Er­agon lột găng, để vị tiên ông cầm cổ tay nó bằng những ngón tay gầy gò, khô khốc của ông. Quan sát những vết chai sần trên lòng bàn tay Er­agon, ông nói:

- Cho ta biết, nếu ta không nói đúng nhé. Con cầm lưỡi hái, cầm cày nhiều hơn cầm kiếm, dù con rất quen sử dụng cung tên.

- Dạ.

- Ít khi vẽ hoặc viết. Có lẽ chẳng bao giờ viết thì đúng hơn.

- Khi ở thành Teirm, ông Brom có dạy chữ cho con.

- Hừ, hình như con còn tỏ ra quá bất cẩn với sự an toàn của bản thân mình nữa.

- Thưa tiền bối, vì sao người lại nói vậy?

- Đừng gọi ta là tiền bối. Con có thể gọi ta là sư phụ bằng ngôn ngữ này, hoặc ebrithil bằng cổ ngữ. Con cũng phải lễ phép với Glae­dr vì chúng ta đều là thầy của con.

Giọng ông dịu dàng nhưng nghiêm khắc. Er­agon cúi đầu:

- Con hiểu rồi, thưa sư phụ.

- Mi cũng vậy, Saphi­ra.

Er­agon thấy rõ ràng Saphi­ra phải cố nén tự ái để thốt lên: “Dạ, thưa sư phụ.”

Lão tiên gật đầu:

- Er­agon, bất kỳ ai bị những vết thương như thế, nếu không đau khổ trong tuyệt vọng, cũng chiến đấu như một kẻ điên rồ, hoặc mù quáng đâm đầu vào hiểm nguy. Con có chiến đấu như một kẻ mất trí không?

- Thưa không.

- Ta thấy con cũng không tỏ ra tuyệt vọng, mà còn ngược lại. Con nghĩ sao?

Er­agon ôn lại tất cả những gì xảy ra với nó từ khi còn ở quê nhà, tới khi lang thang trên đường thiên lý, để lý giải thái độ của nó:

- Con xin thưa là, khi con đã chọn một con đường, hay một công việc thì con phải làm cho trọn với bất cứ giá nào… nhất là khi những người thân yêu của con gặp cảnh hiểm nghèo.

- Con có dám đương đầu với những việc đầy thử thách cam go không?

- Thưa sư phụ, con rất mong được thử thách.

- Vậy là con cảm thấy cần tự đặt mình vào những tai ương để kiểm tra khả năng chính mình sao?

- Thưa, con muốn vượt qua thử thách, nhưng con đã từng gặp nhiều cam go, đủ để hiểu rằng làm cho mọi việc trở thành khó khăn hơn là ngu ngốc.

- Tuy vật, con đã chọn con đường truy lòng Ra’zac, thay vì con đường nhẹ nhàng hơn, là ở lại thung lũng Palan­car. Và… con đã quyết định tới nơi này.

- Đó là điều chính đáng, cần phải làm, thưa sư phụ.

Lại thêm nhiều phút lặng im. Er­agon không thể đoán được đằng sau vẻ mặt bình thản của Oromis, sư phụ nó đang nghĩ gì.

Sau cùng ông hỏi:

- Khi ở Tar­nag, có ai tặng cho con một món gì - một món trang sức nhỏ, cái áo giáp hoặc một đồng tiền xu chẳng hạn.

Er­agon lần trong áo, lấy ra sợi dây chuyền với cái búa bằng bạc nhỏ xíu:

- Gan­nel làm cái này cho con theo lệnh đực vua Hroth­gar, để ngăn không cho ai có thể thu được hình ảnh của con và Saphi­ra. Họ sợ Gal­ba­torix biết được ngoại hình con… Sao… sao sư phụ biết?

- Vì ta đã không thể liên lạc được với con.

- Khoảng một tuần trước, có người đình thu hình ảnh con. Chắc là sư phụ?

Ông lắc đầu:

- Từ sau lần đầu tiên thu hình ảnh con và Arya, ta không cần đến phương pháp thô thiển đó để tìm con nữa. Ta liên lạc với con bằng ý chi như khi con bị thương tại Far­then Dur.

Cầm lá bùa của Gan­nel lên, ông lẩm nhẩm nhiều câu thần chú, rồi trao lại cho Er­agon:

- Ta đã hủy sức mạnh ngăn ta liên lạc với con. Giữ lấy, đây là một món quà quý giá rất có ích cho con. Vì sao con có mặt tại đây, Er­agon?

- Để hoàn tất việc huấn luyện cho con.

- Con nghĩ là còn cần phải học tập thêm những gì?

- Học tập thêm về phép thuật và tác chiến, Ông Brom đã không đủ thời gi­an dạy con tất cả những gì ông biết.

- Phép thuật, kiếm thuật và những khả năng khác đều vô ích, nếu con không biết phải ứng dụng khi nào. Điều này ta sẽ dạy con. Nhưng vì quyền năng của Gal­ba­torix biến ảo vô cùng, ta sẽ giúp con và Saphi­ra hiểu rõ phải theo nguyên tắc nào để chống trả. Như vậy, con sẽ không tạo những cơ may thành vận rủi. Con phải tìm hiểu thêm về bản thân mình: Con là ai? Điều gì con có khả năng làm được? Đó là lý do con có mặt tại đây.

Saphi­ra hỏi: “Bao giờ chúng con được bắt đầu?”

Oromis vừa mở miệng trả lời, bỗng ông cứng người, cái cốc trên tay rơi xuống đất. Mặt ông đỏ bừng, mấy ngón tay nắm chặt vạt áo. Nhưng hiện tượng hãi hùng đó chỉ thoáng qua, Er­agon chưa kịp có phản ứng, Oromis đã bình thản lại.

Er­agon lo lắng, rụt rè hỏi:

- Sư phụ có sao không?

Gượng cười, Oromis bảo:

- Đừng lo, không sao đâu. Thần tiên chúng ta thường tự dối mình là chúng ta bất tử, nhưng chúng ta có tránh nổi những bệnh tật thể xác đâu. Điều đó vượt qua cả sự hiểu biết của phép thuật.

Ông thở dài tiếp:

- Mấy chục năm qua, ta đã tự phong bế nội thương bằng hàng trăm câu thần chú; lớp này chồng chất lên lớp khác, đến nỗi ta không còn kiểm soát được sức mình. Ta cố sống để chứng kiến sự ra đời của những con rồng cuối cùng và để được dưỡng dục những kỵ sĩ tái sinh từ đống điêu tàn do sai lầm của chúng ta.

- Còn được bao lâu…

- Còn được bao lâu nữa thì ta chết, phải không? Còn thời gi­an, nhưng thời gi­an quý giá đó quá ngắn ngủy cho thầy trò mình, con ạ. Nhất là Var­den đang trông ngóng sự giúp đỡ của con. Saphi­ra, thầy trả lời câu hỏi của con đây: chúng ta sẽ bắt đầu chương trình huấn luyện ngay bây giờ. Và các con sẽ phải gấp rút học tập hơn bất cứ một kỵ sĩ nào trong quá khứ hoặc sau này, vì thầy sẽ cô đọng sự hiểu biết trong mấy chục năm để dạy các con trong vòng mấy tháng.

Cố vượt qua sự e ngại, bối rối làm hai má đỏ bừng, Er­agon ngập ngừng nói:

- Sư phụ… sư phụ… nên biết về… khiếm khuyết của con. Con cũng… tàn tật như sư phụ.

Ánh nhìn của Oromis đầy thương yêu, nhưng giọng ông rất cứng rắn:

- Er­agon, người ta chỉ tàn tật, khi người ta tự coi mình là tàn tật. Ta hiểu con đang cảm thấy thế nào, nhưng phải giữ lạc quan. Sống tiêu cực còn nguy hại hơn bất kỳ chấn thương thể chất nào. Ta nói với con những lời này bằng chính kinh nghiệm bản thân. Than thân trách phận, không giúp gì cho con và cả Saphi­ra. Ta và các pháp sư sẽ chẩn bệnh và tìm cách chữa trị cho con, nhưng đồng thời, việc huấn luyện cho con sẽ vẫn tiến hành như thường.

- Con đau kinh khủng. Đau có thể chết được, nếu…

- Không, Er­agon. Con không chết được đâu. Thầy biết rõ sức chịu đựng của con mà. Tuy nhiên chúng ta đều có trách nhiệm. Con có trách nhiệm với Var­den. Ta có trách nhiệm với con. Chúng ta không thể trốn tránh trách nhiệm chỉ vì sự đau đớn của một chấn thương. Tuy nhiên, Er­agon, con phải lãnh trách nhiệm này một cách hoàn toàn thoải mái tự nguyện. Không có ai hay một điều gì làm con muốn hy sinh cho người đó hay điều đó sao?

Ý nghĩ đầu tiên là Saphi­ra, nhưng Er­agon làm chuyện này không phải là vì cô em rồng. Cũng không vì Na­sua­da hay Arya. Vậy điều gì đã thúc dục nó tới đây? Khi phải tuyên thệ với Na­sua­da, nó mong đó sẽ là một điều tốt cho Ro­ran và những người còn kẹt trong vòng tay của triều đình. Nhưng họ có là lý do đủ cho nó phải trải qua nỗi thông khổ này không? “Có. Họ là lý do chính đáng để mình hy sinh, vì mình là người duy nhất có cơ hội cứu họ, và mình sẽ không bao giờ thoát khỏi cái bóng của Gal­ba­torix, nếu họ chưa được tự do. Và còn vì đó là mục đích duy nhất của mình trong đời. Nếu không, còn gì khác để mình làm nữa đây?”

Er­agon rùng mình khi mở miệng nói:

- Nhân danh những người vì họ mà con chiến đấu: những người đang khốn khổ dưới ách thống trị tàn bạo của Gal­ba­torix. Con tự nguyện chấp nhận trách nhiệm – dù phải chịu gi­an khổ, đau đớn -, con xin thề sẽ quyết tâm học tập chuyên cần hơn bất kỳ đệ tử nào trước kia của sư phụ.

Oromis gật đầu:

- Ta không đòi hỏi gì hơn. Đứng dậy, cởi áo cho ta coi vết thương.

Saphi­ra vội nói: “Khoan, sư phụ. Ông Brom có được biết sư phụ sống tại đây không?”

- Tất nhiên. Hắn là đệ tử của ta từ khi còn là một đứa trẻ ở Ilirea. Ta rất vui mừng vì còn đã làm cho hắn một ngôi mộ đàng hoàng. Brom đã sống một đời bất hạnh, hiếm khi được ai đối xử ân cần như vậy. Ta mong hắn được an lành về cõi vĩnh hằng.

Er­agon ngập ngừng hỏi:

- Hẳn sư phụ cũng biết Morzan?

- Hắn là đồ đệ của ta, sư huynh của Brom.

- Còn Gal­ba­torix?

- Ta chính là một trong những tiền bối đã từ chối cấp cho hắn một con rồng khác, sau khi con rồng của hắn bị giết chết. Nhưng, không. Ta chưa bao giờ có được sự bất hạnh làm sư phụ hắn. Chính hắn đã đích thân truy lùng, lần lượt hạ sát từng vị ân sư của mình.

Còn rất nhiều điều muốn hỏi, nhưng Er­agon đứng dậy cởi nút áo, bảo Saphi­ra: “Hình như chúng mình khong bao giờ có thể biết hết bí ẩn về ông Brom.”

Rùng mình vì lãnh, Er­agon đứng thẳng người ưỡn ngực. Oromis đi quanh nó, thảng thốt k kêu lên khi thấy vết sẹo rạch ngang lưng Er­agon, rồi hỏi:

- Arya và những người Var­den không tìm cách nào tẩy xóa dấu vết này đi sao?

- Arya đã định làm, nhưng…

Ngập ngừng, Er­agon không thể diễn tả cảm xúc của mình cho sư phụ hiểu. Sau cùng nó nói:

- Bây giờ nó đã trở thành một phần của cơ thể con, cũng như vết sẹo của Murtagh là một phần của anh ấy.

- Vết sẹo của Murtagh?

- Murtagh cũng có một cái sẹo giống như con. Cha của Murtagh là Morzan đã phóng thanh Zar’roc trúng lưng khi anh ta còn nhỏ.

Oromis trầm ngâm nhìn Er­agon một hồi lâu rồi mới gật đầu nói:

- Cơ bắp của con tốt lắm, người con lại không bị lệch về một bên như những kiếm khách khác. Con thuận cả hai tay sao?

- Không hẳn vậy. Sau khi bị gãy cổ tay tại thành Teirm, con đã cố tập tác chiến bằng tay trái.

- Tốt. Như vậy sẽ rút ngắn được thời gi­an tập luyện. Nào, nắm hai tay ra sau lưng, rồi nâng lên càng cao càng tốt.

Er­agon làm theo lời ông, nhưng tư thế này làm vai nó đau buốt. Nó chỉ có thể để hai bàn tay chạm vào nhau.

- Bây giờ cúi xuống trước, giữ đầu gối thật thẳng. Cố chạm hai bàn tay lên mặt đất.

Động tác này còn lmà Er­agon khổ sở hơn. Nó đứng lom khom như một người gù, gân gót chân như bị lửa đốt, hai bàn tay lửng lơ trên mặt đất.

- Ít ra thì con còn có thể co duỗi chân tay, ta không mong gì hơn thế. Rồi con sẽ được tập một số động tác để cơ thể mềm dẻo lại.

Quay qua Saphi­ra, Oromis bảo:

- Rồng, ta cũng cần biết những khả năng của con.

Ông bảo nó tho hành một số động tác phức tạp, như vừa uốn vặn thân hình dài thòng, khúc khuỷu của nó đủ tư thế lạ lùng vừa nhào lộn trên không. Toàn những động tác Er­agon chưa từng thấy Saphi­ra thực hành bao giờ. Chỉ có vài động tác – như lượn vòng xoắn ốc, rồi bật ngửa ra sau – là vượt quá khả năng của cô rồng cái.

Khi Saphi­ra hạ cánh, Glae­dr bảo: “Anh e là chúng ta quá nuông chiều theo ý các kỵ sĩ. Nếu từ khi mới nở, rồng bắt buộc phải tự lo cho mình trong thiên nhiên – như em và tổ tiên chúng ta – thì có lẽ cũng sẽ có được tài năng khéo léo như em.”

Oromis nói ngay:

- Không. Cho dù nếu Saphi­ra được nuôi dạy theo những phương pháp đã được định hình tại Vro­en­gard, nó vẫn sẽ là một tay cự phách trên không. Ta chưa hề thấy một con rồng nào thích nghi với bầu trời tuyệt vời như vậy.

Saphi­ra e lệ chớp mắt lia lịa. Cô ả khép cánh, giấu mặt vào hai chân trước.

Oromis đứng thẳng người, rồi suốt mấy tiếng đồng hồ ông cặn kẽ hỏi từng chi tiết về kiến thức của Er­agon và Saphi­ra. Từ thực vật tới luyện kim, cho đến vấn đề y học, mặc dù Er­agon chỉ có một nhúm kiến thức về lịch sử và cổ ngữ. Cuộc chất vấn làm Er­agon nhớ lại những câu hỏi sát hạch của ông Brom trong những ngày dài dong duổi tới Teirm và Dras-​Leona.

Khi nghỉ ăn trưa, Oromis mời Er­agon vào nhà. Nơi ở của ông thật trống trải, chỉ đơn sơ vài vật dụng thật sự cần thiết cho vấn đề ăn uống, vệ sinh và tu dưỡng. Trên hai bức tường là những hốc chứa hàng trăm cuốn giấy. Kế bên bàn, treo một bao kiếm bằng vàng, rực rỡ như những cái vảy của Glae­dr, và một lưỡi kiếm long lanh ngũ sắc. Chính giữa mặt sau cửa ra vào, trên miếng ván cao một gang, rộng hai gang tay là phong cảnh một thành phố nằm bên bờ dốc, chìm ngập trong ánh trăng vàng tháng chín. Mặt trăng loang lổ bị đường chân trời cắt đôi và nhô khỏi mặt đất, lớn như quả núi, giống một mái vòm vấy bẩn. Bức tranh sống đồng từng chi tiết, lúc đầu Er­agon tưởng đây là một cửa sổ ma thuật. Nó hỏi:

- Cảnh này ở đâu, thưa sư phụ?

Thoáng một giây căng thẳng, Oromis nói:

- Con phải cố ghi nhớ lấy cảnh này, vì chính đây là trung tâm sự khốn khổ của con. Hình ảnh con đang nhìn đã từng là thành phố Ilirea của chúng ta. Nó bị thiêu hủy và bỏ hoang trong Du Fyrn Skl­bla­ka - Chiến tranh với loài rồng - rồi trở thành thủ đô của vương quốc Brod­dring, và bây giờ là thành phố hắc án Uru’baen. Ta làm cái fairth này trong đêm chúng ta bắt buộc phải ra đi trước khi Gal­ba­torix tới.

- Chính sư phụ đã vẽ cái… fairth này?

- Ồ, không phải là vẽ. Fairth là hình ảnh được ghép lên bề mặt một phiến đá, bằng phép thuật. Phong cảnh trên cánh cửa kia chính xác là Ilirea khi ta niệm thần chú.

- Còn… vương quốc Brod­dring là gì?

Oromis trợn mắt kinh ngạc:

- Con không biết sao?

Er­agon lắc đầu. Ông hỏi như quát:

- Sao lại không biết? Xét từ hoàn cảnh hãi hùng của người dân nước con dưới ách thống trị của Gal­ba­torix, ta có thể hiểu con đã phải lớn lên trong tối tăm ngu muội. Nhưng ta không ngờ Brom lại xao lãng, không dạy bảo con về những vấn đề đơn giản liên quan đến lịch sử mà những đứa trẻ của thần tiên, thậm chí cả người lùn đều biết. Đám trẻ con của Var­den còn biết nhiều về quá khứ hơn con.

- Ông Brom quan tâm đến sự sống của con hơn là dạy con về những người đã chết.

Những lời nói của Er­agon làm Oromis trầm ngâm một lúc, rồi mới nói:

- Thầy xin lỗi. Ta không phản đối sự tính toán của Brom. Nhưng ta lo ngại, nếu kiến thức của con quá thiếu, e không đủ thời gi­an học hỏi.

Lấy bánh mvì à một bát trái cây từ một kệ khuất sau tường, ông đặt lên bàn, rồi nhắm mắt, vừa nhai vừa thủng thẳng nói:

- Vương quốc Brod­ding là quê hương của loài người trước khi kỵ sĩ suy tàn. Sau khi Gal­ba­torix hạ sát Vrael, hắn bay tới Ilirea với các phản đồ và truất phế vua An­grenost, rồi tự xưng vương. Vương quốc Brod­ding trở thành cái nôi cho cuộc chinh phục của Gal­ba­torix. Hắn sát nhập Vro­en­gard và những vùng đất khác vào vương quốc Ala­gae­sia bây giờ. Tên vương quốc Brod­ding chỉ còn trên giấy tờ mà thôi.

Tuy Er­agon chăm chú ăn, nhưng Oromis biết nó đang có điều thắc mắc:

- Con làm ta nhớ tới Brom khi ta mới nhận hắn làm đệ tử. Lúc đó hắn mới lên mười, còn ít tuổi hơn con bây giờ, nhưng suốt cả năm trời ta luôn phải nghe hắn liên tục hỏi: Thế nào? Cái gì? Bao giờ? Và nhất là… tại sao? Con thắc mắc gì, đừng ngại hỏi:

- Thưa…con thắc mắc nhiều thứ lắm. Như… sư phụ là ai? Sư phụ từ đâu tới? Quê hương ông Brom ở đâu? Morzan là người như thế nào? Và… con muốn biết tất cả những gì về Vro­en­gard và các kỵ sĩ. Có thể những hiểu biết đó sẽ giúp con tìm cho mình một hướng đi rõ ràng hơn.

Oromis bỏ một vốc dâu vào miệng, lặng lẽ nhai. Mật dâu làm đôi môi ông đỏ hồng lên. Ăn xong, Oromis phủi hai tay vào nhau, nói:

- Vậy thì ta cho con biết: ta ra đời cách nay mất thế kỷ, tài thành phố Luthivíra. Đó là một thành phố nằm trong một khu rừng bên hồ Tu­dosten. Năm hai mươi tuổi, cũng như những tiên đồng khác, ta được đưa tới trước những cái trứng mà loài rồng đã trao tặng cho các kỵ sĩ. Glae­dr đã nở ra cho ta. Từ đó, gần một thế kỷ, ta đã cùng Glae­dr bay khắp thế giới để hoàn thành những công tác thủ lãnh Vrael gi­ao phó. Sau đó, ta được trao nhiệm vụ truyền dạy kinh nghiệm cho thế hệ tiếp theo, huấn luyện những tân kỵ sĩ tại Ilirea, cho đến khi Gal­ba­torix hủy diệt chúng ta.

- Còn ông Brom?

- Brom đến từ một gia đình tại Kuas­ta. Cha là Hol­comb, mẹ là Nel­da. Do núi Spine ngăn cách, Kuas­ta biệt lập hẳn với Ala­gae­sia. Đó là một nơi hoàn toàn dị biệt, đầy rẫy mê tín và những phong tục lạ lùng. Khi mới tới Ilirea, Brom vẫn còn thói quen: trước khi ra hay vào đều gõ cửa ba lần. Hắn bị các bạn đồng mên trêu chọc cho đến khi hắn bẻ hẳn những tập quán cũ ở quê nhà. Còn Morzan… Nó là một thất bại lớn trong đời ta. Nhưng Brom rất sùng bái nó. Hắn không rời Morzan nửa bước, không bao giờ cãi lại Morzan, không dám giấu Morzan một điều gì. Morzan biết Brom coi nó như thần tượng, nó không bỏ lỡ cơ hội lợi dụng Brom bằng trăm phương ngàn kế. Càng ngày càng kiêu ngạo và tàn nhẫn. Ta chưa kịp phân cách hai đứa thì xảy ra vụ Morzan tiếp tay Gal­ba­torix bắt trộm con rồng mới nở, Shruikan. Sau đó Morzan bỏ trốn cùng Gal­ba­torix, chính thức mở màn ngày tàn của chúng ta. Nếu không hiểu tình cảm của Brom đối với Morzan sâu đậm đến thế nào, thì con không thể hiểu ảnh hưởng chuyện Morzan phản bội đối với Brom ra sao. Vì vậy khi Gal­ba­torix xuất đầu lộ diễn và tên phản đồ Morzan giết chết con rồng của Brom, Brom đã trút hết bao đau đớn căm hờn lên kẻ mà hắn nghĩ là có trách nhiệm đối với sự hủy hoại thế giới của hắn.

Oromis ngừng nói. Một lát sau ông nghiêm trang hỏi:

- Er­agon, con có biết vì sao nếu rồng bị giết, hay ngược lại, kỵ sĩ bị giết, thường gây nên cái chết cho kẻ còn lại không?

- Con có thể đoán được điều đó.

Vừa trả lời, Er­agon vừa phát hoảng khi nghĩ đến nó và Saphi­ra.

- Sự đau khổ là rất lớn, vẫn chưa hẳn là nguyên nhân, nguyên nhân thật sự gây nên cái chết là cái cảm giác một phần cả hồn lẫn xác mình không còn nữa. Khi chuyện đó xả ra, ta đã lo sợ Brom sẽ hóa điên. Vì vậy sau khi ta bị bắt rồi trốn thoát, ta đã đưa Brom tới Ellesméra. Nhưng hắn không chịu sống an toàn tại đó, một mình tìm đường đến đồng bằng Ilirea, nơi vua Evan­dar đã bị giết. Lúc đó tình hình vô cùng phức tạp: Gal­ba­torix lo củng cố quyền uy bằng mọi giá, người lùn trên đường rút vào bóng tối, miền tây nam chiến tranh bùng nổ khắp nơi, vì loài người nổi dậy đấu tranh để lập nên một nước Sur­da tự trị, còn chúng ta thì vừa bị mất một quân vương. Thúc dục bởi lòng khao khát phục thù, Brom sử dụng sự hỗn loạn thời cuộc làm lợi thế. Hắn tập hợp rất đông những người phải rời bỏ quê hương, những tù nhân vượt ngục và lập nên đoàn quân cách mạng Var­den. Brom lãnh đạo tổ chức này mấy năm, rồi trao lại cho người khác, để tiếp tục theo đuổi niềm đam mê thật sự của hắn: chứng kiến ngày tàn của Morzan. Chính tay Brom đã hạ sát ba tên phản đồ, trong đó có Morzan và năm người khác nữa. Suốt đời gần như Brom không có hạnh phúc, tuy nhiên hắn là một người tốt và một kỵ sĩ có tài. Ta rất hãnh diện khi nhận Brom là đệ tử.

- Con chưa bao giờ nghe tên ông Brom liên quan đến những cái chết của phản đồ.

- Gal­ba­torix không muốn phổ biến tên bất kỳ kẻ nào còn sống đã hạ gục được đệ tử của nó. Hầu hết sức mạnh của nó nằm trong vỏ ngoài bất khả xâm phạm đó.

Lại một lần nữa, Er­agon phải xét lại quan niệm về Brom: từ một ông già kể chuyện trong làng, tới một chiến binh biết phép thuật, rồi một kỵ sĩ, và bây giờ nó lại được biết thêm ông còn là một kẻ sát nhân, một con người khơi dậy ngọn lửa căm hờn, một lãnh đạo cách mạng. Làm cách nào tất cả những vai trò đó hòa hợp trong một con người. Nhưng nó chỉ còn biết gật đầu đồng ý với Oromis.

- Dạ, đúng vậy, ông Brom là một người tốt.

Nhìn qua một khung cửa sổ tròn hướng ra bờ vực, Er­agon nhìn thấy hình như cả Saphi­ra và Glae­dr đều đang tỏ ra e ngại thẹn thùng. Cô em rồng của nó hết uốn éo vờ vịt ngắm cảnh chung quanh, lại khép cánh mon men lết gần anh rồng đực. Đuôi cô nàng ngoáy tít như sửa soạn phóng tới, vồ một con nai. Saphi­ra làm Er­agon tưởng như đang nhìn một cô miu đang cố dụ khị chú chuột già vui đùa cùng nó. Nhưng mặc cô rồng giở đủ trò õng ẽo, anh rồng vàng cứ tỉnh bơ, nằm lù lù một đống.

“Saphi­ra.” Đáp lại tiếng gọi của Er­agon, cô em chỉ hơi ngúng nguẩy, như chẳng nghe thấy gì. “Saphi­ra, trả lời anh đi chứ.”

“Cái gì?”

“Anh biết em… sốt ruột rồi, nhưng đừng tỏ ra ngốc vậy chứ.”

“Xì! Biết bao lần anh còn tỏ ra hơi bị ngốc hơn tôi nhiều. Dẹp đi, đừng dạy đời”

Er­agon sững người, không ngờ miệng lưỡi cô em rồng ngoa ngoắt chẳng thua con người. Quay lại, nó bắt gặp đôi mắt đầy hiểu biết của Oromis đang nhìn nó. Er­agon gượng cười, hất đầu ra ngoài:

- Dù có mối liên hệ tinh thần chặt chẽ, con vẫn không thể đoán trước những gì nó làm. Càng tìm hiểu con càng thấy chúng con khác biệt nhau.

- Những kẻ ta thương yêu, thường lại khó hiểu nhất đố với ta.

Er­agon thấy lời nói của sư phụ quá là chính xác. Ông lặng lẽ tiếp:

- Cả hai con còn quá trẻ. Ta và Glae­dr sống bên nhau mấy chục năm mới hoàn toàn hiểu nhau. Sự gắn bó giữa một kỵ sĩ và con rồng của anh ta giống như bất cứ mối liên hệ nào, sẽ tiến triển theo thời gi­an. Con có tin tưởng Saphi­ra không?

- Con tin như mạng sống của con.

- Nó có tin tưởng con không?

- Thưa có.

- Vậy thì hãy làm cho nó vui. Con lớn lên là một đứa trẻ mồ côi. Nó lớn lên trong niềm tin: nó là cá thể độc nhất còn lại của loài rồng. Bây giờ nó phát hiện ra là mình đã lầm. Đừng ngạc nhiên là nó sẽ còn bận tâm nhiều đến Glae­dr mấy tháng nữa, rồi mới trở lại bình thường với con.

Vân vê trái dâu trên mấy ngón tay, Er­agon hỏi:

- Vì sao thần tiên không ăn thịt?

- Vì sao chúng ta phải ăn thịt? Chúng ta cần gì, muốn gì, kể cả thức ăn, chỉ việc hát cho cây mọc ra. Thật man rợ, khi bắt loài vật phải chịu đau khổ, chỉ để thêm vài đĩa thịt trên bàn ăn. Từ xa xưa, tinh thần chúng ta đã cao cả hơn loài người của con rồi.

Vụ này Er­agon không thể đồng ý với sư phụ được. Thịt luôn là món khoái khẩu và nó chẳng tha thiết gì chuyện ăn chay suốt thời gi­an ở Ellesméra.

- Sư phụ không thèm thịt sao?

- Người ta sẽ không hề thèm một món chưa từng nếm qua bao giờ.

- Nhưng còn Glae­dr đây có thể sống hoàn toàn bằng cỏ?

- Không. Nhưng kể cả nó cũng không gây ra những sự đau đớn không cần thiết. Mỗi chúng ta đều cố gắng sống với những gì được thiên nhiên ban tặng.

- Còn nữ hoàng? Áo choàng của bà bằng lông thiên nga…

- Đó là những chiếc lông rụng được tích góp qua nhiều năm. Không con chim nào bị giết để làm áo cho nữ hoàng.

Ăn xng, Er­agon phụ Oromis lau chùi chén đĩa bằng cát, ông chợt hỏi:

- Sáng nay con đã tắm chưa?

Câu hỏi làm nó giật mình nhưng cũng bảo là chưa. Ông nói:

- Vậy thì sáng mai phải tắm và nhớ tắm mỗi ngày.

- Mỗi ngày? Nước lạnh buốt như thế, con sẽ bị cảm mất.

- Làm cho nước ấm lên chứ.

- Con chưa đủ sức làm nước của cả một con suối ấm lên bằng phép thuật.

Căn lều vang dội tiếng cười của Oromis, làm anh rồng vàng phải tò mò vươn đầu nhìn qua cửa sổ. Ông cố nín cười hỏi:

- Đêm qua con quan sát chỗ ở rồi chứ?

- Dạ.

- Con có thấy căn phòng nhỏ với một lỗ hõm trên sàn không?

- Con tưởng đó là… để giặt quần áo.

- Ha ha! Để… giặt con thì đúng hơn. Phía trên lỗ hõm đó, có hai cái núm ẩn trong tường. Hãy mở ra, nước sẽ tự điều hòa nhiệt độ theo ý con. Còn chuyện này nữa…

Ông chỉ vào cằm Er­agon:

- Là đệ tử của ta, ta mong con cạo phéng những sợi râu lún phún này đi. Chừng nào râu ria đầy đủ, muốn để hãy để. Thần tiên thì không cạo râu, nhưng ta sẽ kiếm gương và dao cạo cho con.

Er­agon nhăn mặt vì hơi bị quê, nhưng đành gật đầu tuân lệnh.

Oromis cùng Er­agon trở ra ngoài. Con rồng vàng bảo Er­agon: “Chương trình huấn luyện cho kỵ sĩ và Saphi­ra đã sẵn sàng. Sáng mai hãy trở lại đây đúng một tiếng sau lúc mặt trời lên.”

Oromis nói thêm:

- Saphi­ra, nhớ đem theo cái yên Brom đã làm cho con. Còn bây giờ cứ thoải mái thưởng thức cảnh quan kỳ diệu của Ellesméra đi.

Er­agon bảo Glae­dr: “Tôi sẽ nhớ đến đúng giờ.” Rồi nó cúi đầu trước Oromis:

- Thưa sư phụ, con vô vàn biết ơn sư phụ đã cứu mạng sau lần con giết tà thần tại Tron­jheim. Không có sự bổ trợ đó của sư phụ chắc con đã chết rồi.

Saphi­ra cũng cúi đầu: “Cả hai anh em con đều nhớ ơn sư phụ.”

Tiên ông hiền hòa gật đầu, tủm tỉm cười.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play