Er­agon thức dậy đã thấy một người lùn đứng chờ. Sau khi cúi chào, anh ta lắp bắp:

- Thưa Ar­get­lam, Knurla Orik đang chờ ngài.

Anh ta vừa lui ra, Saphi­ra nhảy xuống sàn, cắp thanh Zar'rac trao cho Er­agon: “Đeo vào. Anh là một Kỵ Sĩ, phải đeo một thanh kiếm của Kỵ Sĩ. Có thể thanh Zar'rac này có một lịch sử đẫm máu, nhưng hãy hãnh diện mà đeo nó, tạo cho nó một lịch sử mới.”

“Em quên Aji­had khuyên đừng đeo Zar'rac sao?”

“Nếu anh muốn vượt lên khỏi những thế lực ở đây, đừng để họ điều khiển từng hành động của anh. Cứ đeo nó đi.”

Er­agon miễn cưỡng đeo thanh kiếm. Trong khi bay xuống thành phố trong lòng núi, nó kể cho Saphi­ra nghe chuyện gặp bà phù thủy An­gela.

Vừa hạ xuống một cổng thành Tron­jheim, ông lùn Orik chạy lại, nói ngay:

- Đức vua Hroth­gar của chúng tôi đang chờ cả hai. Xuống đi, chúng ta cùng đi bộ vào.

Vừa rảo chân theo Orik qua một hành lang đầy người dòm ngó, Er­agon vừa hỏi:

- Chúng ta gặp đức vua tại đâu?

- Trong cung điện. Bên dưới thành phố này. Đức vua cho cậu được triệu kiến riêng, để chứng tỏ một hành động....rất otho, nghĩa là sự chân thành. Cậu không phải thi lễ theo triều nghi, nhưng hãy nói năng tôn kính. Đức vua rất nóng tính, nhưng rất anh minh, vì vậy phải thận trọng trong từng lời nói.

Tới phòng trung tâm, Orik đi trước, hướng dẫn Er­agon và Saphi­ra xuống một cầu thang bên phải, rồi tới một lối đi có mái vòm dài chừng ba mươi thước, chấm dứt trước hai cánh cửa lớn bằng đá hoa cương. Một vương miện được khắc trùm trên bề mặt hai cánh cửa.

Trước mặt họ là một tiền sảnh tối. Triều đình là một hang động thiên nhiên, dọc hai vách hang là những hàng thạch nhũ, từ trên rũ xuống, và từ nền mọc lên, cao lớn hơn một con người. Những ngọn đèn rải rác tỏa một nguồn ánh sáng âm u. Nền đá nâu và nhẵn bóng. Cuối hang, một bóng người ngồi bất động trên chiếc ngai màu đen.

- Đức vua đang chờ.

Orik cúi đầu nói rồi quay ra. Er­agon nắm chặt chuôi kiếm tiến bước bên Saphi­ra. Cánh cửa phía sau khép lại.

Tiếng bước chân của nó và Saphi­ra vang vọng khi cả hai đi qua những bức tượng đặt trong hốc giữa những hàng thạch nhũ. Mỗi bức tượng là một vị vua của người lùn, đội vương miện, ngồi trên ngai vàng, đôi mắt nghiêm khắc hướng về cõi xa xăm. Dưới chân tượng là hàng chữ khắc tên của vị vua.

Qua hai hàng tượng của hơn bốn chục vị tiên vương, tới những hốc còn bỏ trống, dành cho các vua sẽ qua đời trong tương lai, Er­agon và Saphi­ra ngừng trước ngai vàng.

Ông vua lùn ngồi im lìm trên ngai tạc bằng nguyên khối đá đen, chẳng khác gì một bức tượng. Chiếc ngai không trang trí, không được tạo theo một hình dáng nào, tỏa ra một sức mạnh, sức mạnh gợi nhớ lại thuở xa xưa, khi những người lùn cai trị Alagea­sia, không có bàn tay của thần tiên hay con người thường can thiệp vào. Vua Hroth­gar đội một mũ đính hồng ngọc và kim cương thay cho chiếc vương miện. Mặt ông trang nghiêm hằn những kinh nghiệm của những năm dài cai trị. Dưới vầng trán nhăn, đôi mắt sâu sáng rực. Một tấm giáp sắt che trước ngực. Chòm râu bạc phủ xuống tận thắt lưng và trên đùi ông là một cay búa với biểu hiệu của bộ tộc, giống như trên nón sắt của Orik.

Er­agon cúi đầu, quì gối. Nhà vua nhích người, như vừa tỉnh giấc, cất giọng sang sảng nói:

- Kỵ Sĩ hãy đứng lên. Ngươi không phải thủ lễ với ta.

Er­agon đứng thẳng dậy. Hroth­gar chăm chăm nhìn rồi nói:

- Âz knurl dei­mi lanok. Đó là một châm ngôn cổ. Coi chừng đá đổi thay...Nhưng ngày nay đá đổi thay mau chóng thật. Ta không thể gặp nhà ngươi sớm hơn vì buộc phải giải quyết cho xong một số việc với những kẻ chống đối trong các bộ tộc. Họ xin ta không cho nhà ngươi ẩn trú và trục xuất ra khỏi Far­then Dur. Ta đã phải cố gắng thuyết phục để họ đồng ý chuyện nhà ngươi ở lại vương quốc này.

- Đa tạ bệ hạ. Thần không ngờ đã gây ra nhiều phiền toái thế.

- Hãy nhìn kìa, Kỵ Sĩ Er­agon. Đó là bốn mươi mốt đấng tiên vương của ta. Ta là vua thứ bốn mươi hai của vương quốc. Khi ta dời bỏ trần gi­an này để về cùng chư thần, tượng của ta cũng sẽ được đặt lên cùng các tiên vương. Bức tượng thư nhất kia giống hệt đại tổ Ko­rgan của ta, chính đại tổ đã rèn nên cây chùy Vol­und này. Suốt tám thiên niên kỷ - từ buổi bình minh của nòi giống chúng ta - dưới lòng núi Far­then Dur hùng vĩ này đều do người lùn cai trị. Chúng ta là xương của đất, lâu đời hơn những thần tiên cao nhã và loài rồng man rợ.

Saphi­ra hơi rướn mình lên. Vua Hroth­gar trầm giọng tiếp:

- Ta đã già, già đủ để thấy những tháng năm huy hoàng của Kỵ Sĩ, để chuyện trò cùng Varel, người Kỵ Sĩ lãnh đạo cuối cùng của họ, khi ông ta tới đây triệu kiến ta chính trong bốn bức tường này. Vẫn có vài kẻ còn sống, có thể làm chứng cho điều ta nói. Ta còn nhớ những sự can thiệp của Kỵ Sĩ vào triều đình của ta, nhưng ta cũng vẫn nhớ nền hòa bình họ đem lại, để có thể bình yên đi bộ từ Tron­jheim tới Nar­da. Giờ đây, nhà ngươi - một truyền thuyết đã mai một, lại hồi sinh - đứng trước mặt ta. Hãy thành thật cho ta biết, vì sao nhà ngươi tới Far­then Dur này. Ta đã nghe những việc làm nhà ngươi phải trốn chạy triều đình Gal­ba­torix. Nhưng hiện nay mục đích của nhà ngươi là gì?

- Hiện nay thần và Saphi­ra chỉ mong bình phục trong những ngày tá túc tại đây. Thần không đến đây với ý định gây rối, mà chỉ xin được ẩn trốn khỏi những hiểm nghèo đã gặp trong mấy tháng qua. Có thể ông Aji­had sẽ chuyển thần và Saphi­ra sang với thần tiên, nhưng cho tới khi đó, thần cầu mong được ở lại quí quốc.

- Như thế là nhà ngươi chỉ có một nhu cầu là được sống yên thân tại đây và....bỏ qua hết những gì triều đình Gal­ba­torix đã gây ra cho nhà ngươi?

Er­agon lắc đầu, kiêu hãnh nói:

- Nếu bệ hạ đã nghe ông Aji­had tâu trình, hẳn bệ hạ đã biết những thống khổ của hạ thần. Dù tan thây nát thịt, thần vẫn quyết đấu cùng Gal­ba­torix. Hơn thế nữa, tâm nguyện của thần là phải cứu giúp những con người chưa thoát khỏi vòng kiềm tỏa của ông ta, trong số đó có người anh họ Ro­ran của thần.

Nhà vua tỏ ra hài lòng vì câu trả lời của Er­agon. Ông quay qua Saphi­ra hỏi:

- Rồng, mi nghĩ sao về vấn đề này? Lý do gì mi tới đây?

Saphi­ra nhếch mép gầm gừ: “Nói với ông ta, em khát máu kẻ thù và đang sôi gan chờ ngày ra trận để choảng nhau với Gal­ba­torix. Em không thể có cảm tình đối với quân phản bội, những kẻ đã đập vỡ trứng rồng như lão vua giả đó. Lão đã gi­am giữ em suốt bao thế kỷ. Thậm chí đến bây giờ, còn hai anh em của em trong tay lão. Em phải giải phóng cho họ. Và anh cũng nói cho nhà vua biết, em thấy là anh cũng đã sẵn sàng.”

Er­agon nhăn nhó, nhưng cũng đành chuyển lại lời của Saphi­ra. Ông vua già thích thú cười nhăn cả mặt:

- Ha ha ta thấy bao nhiêu thế kỷ rồi loài rồng vẫn chẳng hề thay đổi. Các ngươi biết vì sao ngai vàng này được đẽo chẳng ra hình dáng gì, mà lại gồ ghề thế này không? Để không ai có thể thoải mái ngồi yên trên nó. Ta cũng vậy, khi phải từ bỏ ngai vàng, ta không tiếc nuối gì. Er­agon, điều gì đã thúc dục, nhắc nhở ngươi tới trách nhiệm vậy? Có phải vì ngai vàng của Gal­ba­torix hay không?

- Thần không cố gắng để được ngai vàng hay quyền lợi. Trách nhiệm của một Kỵ Sĩ đã quá đủ rồi. Không, thần sẽ không dành vương miện của kinh đô Uru'baen...trừ khi không có người kế vị hay không ai đủ tài đức để lãnh trách nhiệm này.

- Chắc chắn ngươi sẽ là một nhà vua đức độ hơn Gal­ba­torix, nhưng không một đất nước nào nên có một người trị vì còn ít tuổi và muốn dẹp bỏ ngai vàng. Thời đại Kỵ Sĩ qua rồi, Er­agon ạ. Họ sẽ không bao giờ thành công như xưa đâu. Cho dù hai cái trứng rồng của Gal­ba­torix có nở ra.

Mặt ông tối lại khi nhìn bên sườn Er­agon:

- Ta thấy ngươi đang đeo thanh kiếm của kẻ thù. Ta cũng được nghe kể, ngươi đi cùng con trai của một phản đồ. Lòng ta không vui khi thấy thanh kiếm đó, nhưng đưa ta nhìn kỹ xem sao.

Er­agon tháo kiếm, dâng lên, chuôi kiếm đưa lên trước. Nhà vua ngắm nghía màu đỏ của thanh kiếm rực sáng dưới ánh đèn. Vừa vuốt ve lưỡi kiếm, ông vừa gật gù nói:

- Tuyệt hảo! Quả là bậc thầy tôi luyện kiếm. Thần tiên chỉ chuyên sử dụng cung tên, thương giáo, nhưng khi họ đã rèn kiếm thì cũng không ai bì kịp. Đây là một thanh kiếm bất hạnh, ta không muốn thấy nó trong vương quốc của ta. Nhưng nếu muốn, ngươi cứ đeo, biết đâu số phận của nó đã được đổi thay.

Ông trao lại thanh Zar'rac và hỏi:

- Cháu ta có tận tình giúp đỡ ngươi không?

- Thưa....là ai?

- Orik. Con trai quận chúa út của triều đình. Orik phục vụ Aji­had để chứng tỏ việc ta ủng hộ Var­den. Tuy nhiên, hình như Orik đã trở lại dưới quyền ta. Ta rất hài lòng chuyện ngươi đã lên tiếng bênh vực cho Orik.

Er­agon hiểu đây lại thêm một dấu hiệu otho - chân thành - nữa. Nó cúi đầu thưa:

- Orik đã giúp thần rất tận tình

- Tốt. Nhưng ta không thể chuyện trò với nhà ngươi lâu hơn nữa. Còn nhiều vấn đề chờ ta giải quyết. Tuy nhiên, ta có lời khuyên: nếu muốn có được sự ủng hộ của người lùn trong vương quốc của ta, trước hết hãy tự chứng tỏ mình. Đừng hấp tấp quyết định. Lời nói chẳng là gì, phải chứng tỏ bằng hành động.

- Thần xin ghi nhớ.

- Các ngươi được phép lui ra.

Orik đứng chờ sẵn bên ngoài. Vừa ra tới phòng trung tâm, ông lùn lo lắng hỏi:

- Mọi chuyện tốt đẹp không?

- Tôi nghĩ là tốt đẹp, nhưng đức vua của ông thận trọng lắm.

- Nhờ vậy ngài mới có thể sống lâu đến thế.

Saphi­ra nhận xét: “Em không muốn nhà vua nổi giận với chúng mình.”

“Anh cũng vậy. Khó đoán được ông ta nghĩ gì về em. Hình như ông ta không có cảm tình với rồng, nhưng không nói ra.”

Orik nói:

- Việc chúc phúc cho đứa trẻ hôm qua làm huyên náo cả phe Var­den. Dấu vết của Saphi­ra để lại trên trán con bé làm nó được đón chào như một vị anh hùng tương lai. Bà bảo mẫu và nó được cấp mấy căn phòng đẹp nhất. Mọi người đều bàn tán về “phép lạ” của Saphi­ra. Các bà mẹ đang tìm cả hai để xin chúc phúc cho con cái họ.

Er­agon lo lắng nhìn quanh:

- Tôi phải làm sao bây giờ?

- Tránh mặt đi. Mọi người đang xúm đầy gần cửa lên nhà nghỉ của rồng.

Trời còn sớm, Er­agon cũng chưa muốn trở về. Nó muốn cùng Saphi­ra khám phá Tron­jheim, nhưng có Saphi­ra lại khó tránh được mọi người. “Em tính sao, Saphi­ra?” “Em về trước. Vì em có khách chờ. Anh cứ đi đi.”

“Được, nhưng ai chờ em?” Cô ả chỉ nháy đôi mắt thô lố làm duyên rồi quay đi. Er­agon nói với Orik:

- Tôi muốn đi ăn sáng rồi tham quan thành phố. Ngày mai hãy ra bãi tập, tôi chưa cảm thấy hoàn toàn khoẻ hẳn.

- Cậu có muốn thăm thư viện không? Rất nhiều sách có giá trị. Cậu sẽ thích thú tìm hiểu lịch sử Alagea­sia khi chưa bị bàn tay Gal­ba­torix làm ô uế.

Lúc này Er­agon mới nhớ lại ông Brom đã từng dạy nó đọc ra sao. Không biết nó còn nhớ gì không. Lâu quá rồi Er­agon không để mắt tới một con chữ nào.

Điểm tâm xong, hai người tới thư viện.

Gi­an phòng làm Er­agon nhớ những khu rừng. Những hàng cột vươn lên trong bóng tối, đỡ một mái trần năm tầng phía trên. Giữa những hàng cột, những kệ đá đen đối lưng nhau, ngồn ngộn sách. Nhiều băng đá dài và bàn kê sát tường.

Orik cắt nghĩa:

- Nơi này đúng thật là di sản của cha ông chúng tôi. Ở đây lưu giữ những trang viết của những vị vua, những học giả vĩ đại nhất từ thượng cổ tới ngày nay. Cả những ghi chép, sưu tầm những bài ca, truyện cổ của những nghệ nhân. Tuy nhiên, không phải tất cả đều là tác phảm của chúng tôi, ở đây cũng có những tác phẩm của con người thường. Giống người các cậu, tuy đời sống ngắn ngủi, nhưng rất phong phú. Thư viện này rất ít, hay gần như không có những gì của thần tiên. Họ giữ gìn rất bí mật.

- Tôi có thể ở lại đây chừng bao lâu?

- Tùy cầu. Cần gì thì lại tìm tôi.

Er­agon hăm hở lục tìm những quyển sách có những tên hấp dẫn hay bìa đẹp. Nó không ngờ chữ viết của người lùn cũng giống người thường. Nhưng nó hơi nản vì phải chật vật để nhớ ra mặt chữ. Dần dần nó đi sâu mãi về cuối thư viện.

Khi Er­agon đang lẩm nhẩm mấy vần thơ dịch từ một bài thơ của vị vua thứ mười, chợt nó nghe bước chân lạ sau kệ sách. Nhưng nó cười thầm vì biết trong thư viện không có ai. Tuy nhiên, Er­agon cũng nhẹ nhàng đặt quyển sách xuống, lắng nghe. Tiếng chân lại nổi lên, không phải một, mà là hai người. Nó nhìn quanh cố nhớ Orik ngồi chỗ nào. Bước qua một góc phòng, Er­agon giật thót người: cặp song sinh đứng lù lù trước mặt.

Chúng đứng vai sát vai, mặt trơ trơ. Bốn con mắt rắn đen ngòm chiếu thẳng vào Er­agon. Hai tay chúng thu trong vạt áo. Cả hai cúi đầu, nhưng với bộ dạng đầy vẻ nhạo báng xấc xược:

- Chúng tôi tìm cậu khắp nơi.

- Để làm gì?

Er­agon cố nén rùng mình, hỏi. Vì giọng chúng gai góc khó chịu giống giọng tụi Ra'zac. Nó vội phóng tư tưởng liên lạc với Saphi­ra.

Một tên lên tiếng, vẫn bằng giọng lễ phép giả tạo, nhưng Er­agon không thể nào bắt bẻ:

- Từ sau hôm cậu gặp thủ lĩnh Aji­had, tôi muốn...có dịp xin lỗi vì những hành động đã qua. Hôm nay anh em chúng tôi đến để tỏ lòng tôn kính.

Er­agon đỏ mặt tức giận khi cặp song sinh cúi rạp người như làm trò hề. Nghe Saphi­ra nhắc nhở: “Thận trọng.” Ráng nén tức, nhưng không thể để cho anh em nhà này trêu chọc mãi, Er­agon cười cười:

- Tôi mới là người phải nhớ ơn hai anh chứ. Các anh không cho phép, làm sao tôi vào được nơi này.

Nó cúi đầu đáp lễ rồi ngạo mạn quay đi. Cặp song sinh thoáng vẻ bất mãn, nhưng vẫn nói:

- Chúng tôi rất hân hạnh vì được một người rất....quá quan trọng ban cho những lời vàng ngọc đó. Chúng tôi mong được trả ơn này....

- Tôi sẽ nhớ những lời anh vừa nói, khi nào cần thiết.

Saphi­ra nổ ngay với Er­agon: “Anh cương quá rồi đấy. Chúng sẽ ghim thái độ của anh, đợi dịp trả thù cho mà xem.”

“Đừng ý kiến ý cò nữa. Bực lắm rồi.”

Cặp song sinh tiến lại gần hơn. Giọng chúng chợt hòa nhã vui vẻ:

- Chúng tôi tìm cậu còn vì một lý do khác nữa. Kỵ Sĩ, một số người biết phép thuật tại thành phố ngầm này đã thành lập một nhóm, với tên gọi là Du Vran­gr Ga­ta, nghĩa là....

- Đường Phiêu Lãng, tôi biết.

Nó nhớ lại An­gela đã kể về vụ này. Một trong hai tên lên tiếng nịnh:

- Sự am tường của Kỵ Sĩ về ngôn ngữ cổ thật sâu rộng. Và cũng vì tài trí và những chiến công hiển hách của Kỵ Sĩ mà chúng tôi được cử đến mời Kỵ Sĩ gia nhập nhóm Du Vran­gr Ga­ta. Chúng tôi có thể hướng dẫn cậu....những câu thần chú mà chúng tôi đã khám phá được. Không gì vinh hạnh cho chúng tôi hơn là góp chút tài mọn trên đường tiến tới vinh quang của cậu. Chúng tôi không dám đòi hỏi gì. Nhưng....nếu có thể, cậu san sẻ cho chúng tôi chút ít hiểu biết của cậu, chúng tôi không dám quên ơn...

- Các anh tưởng tôi là thằng ngốc sao? Vì những gì ông Brom dạy tôi, các anh đã không thể làm gì được tôi. Các anh tức điên lên vì vậy. Tôi không học hành, chia sẻ gì với hai anh hết.

Nụ cười biến mất ngay trên mặt chúng:

- Chúng ta không đùa đâu, nhóc. Chính anh em ta sẽ kiểm tra khả năng phép thuật của mi. Nhớ cho kỹ, chỉ một chút “sơ xảy” cố ý của ta là mi mất mạng. Cho dù mi là Kỵ Sĩ, nhưng hai anh em ta cộng lại vẫn mạnh hơn mi.

Er­agon cố bình thản nói:

- Ta sẽ cân nhắc lại lời mời. Nhưng...

- Tốt. Chúng tôi sẽ đợi câu trả lời vào ngày mai. Hãy suy nghĩ kỹ và...trả lời sao cho nghe được.

Chúng cười lạnh tanh, quanh lưng, đi về cuối thư viện. Er­agon cho Saphi­ra biết: “Dù chúng làm gì, anh cũng không gia nhập cái nhóm mắc dịch đó.”

“Anh nên nói chuyện này với bà An­gela. Bà đã từng đụng độ với hai tên này rồi. Có thể bà ấy cũng sẽ có mặt khi chúng kiểm tra anh, như vậy may ra anh tránh khỏi bị chúng âm mưu hãm hại.”

Er­agon tìm thấy Orik đang ngồi lau chùi cây rìu chiến đấu. Ông dẫn Er­agon ra khỏi thư viện, tới nơi Saphi­ra đang chờ sẵn. Đám đông chưa kịp tụ tập tới, Saphi­ra đã bay vút lên. Vừa đậu trên Ngôi Sao Ngọc, Saphi­ra nói ngay: “Phải giải quyết vấn đề này gấp. Anh không thể để chúng nó hăm dọa mãi được.”

“Anh biết. Nhưng anh không muốn làm chúng giận.”

“Vậy là anh định nhập nhóm với chúng à?”

“Không, ngày mai anh sẽ cho chúng biết là anh từ chối.”

Saphi­ra vào hang, còn Er­agon đi tới đi lui suy nghĩ. Nó muốn gặp bà An­gela, nhưng không nhớ đường. Ra hành lang, đi lung tung, chỉ gặp những gi­an phòng bỏ trống, Er­agon trở lại nhà nghỉ của rồng. Nó chợt nghe trong phòng có tiếng người nói. “Saphi­ra, ai ở trong đó vậy?”

“Một cô gái...vẻ có uy lắm. Để em làm cho cô ấy chú ý tới em, cho anh vào nhé.” Er­agon thắc mắc, vì chính Orik cho biết, không ai được lên đây, nếu không được mời.

Er­agon nắm chặt kiếm, bước vào. Một thiếu nữ đứng giữa phòng, đang tò mò nhìn cái đầu khổng lồ của Saphia ló ra khỏi hang. Ánh sáng từ ngôi sao ngọc tỏa xuống làn da sẫm màu như da của Aji­had. Cô ta chừng mười bảy tuổi. Áo nhung màu rượu nho. Chuôi dao găm nạm ngọc ló khỏi bao da cô đeo bên mình.

Er­agon đứng khoanh tay, chờ cô gái quay lại. Nhưng cô vẫn chăm chú ngắm Saphi­ra, rồi duyên dáng nghiêm mình, ngọt ngào hỏi:

- Làm ơn cho biết Kỵ Sĩ Er­agon đang ở đâu?

Đôi mắt láu cá của ả rồng sáng lên thích thú. Er­agon mỉm cười lên tiếng:

- Tôi đây.

Bàn tay đặt ngay vào dao găm, cô gái quay phắt lại. Đôi mắt hình trái hạnh, cặp môi đầy đặn, gò má tròn. Cô gái lại nghiêng mình mình chào, nói:

- Tôi là Na­sua­da.

- Chắc cô đã biết tôi là ai. Nhưng cô cần gì?

- Cha tôi, ông Aji­had, có tin nhắn cho anh. Anh nghe chứ?

Thủ lãnh Var­den có vợ con không làm Er­agon ngạc nhiên, nó chỉ tự nhủ, người đàn bà nào lọt vào mắt Aji­had chắc phải là một người đặc biệt.

- Vâng, tôi sẵn sàng nghe đây.

- Cha tôi rất hài lòng với những gì anh đã làm. Nhưng ông cảnh giác anh về những chuyện như vụ chúc phúc hôm qua. Nó tạo ra nhiều vấn đề khó khăn hơn là làm dịu tình thế. Ông cũng hối thúc anh mau ra bãi tập để kiểm tra càng sớm càng tốt. Cha tôi muốn biết khả năng toàn diện của anh, trước khi ông liên hệ với thần tiên.

- Cô leo cầu thang suốt từ dưới đó lên tận đây sao?

Nó nghĩ đến chiều dài thăm thẳm của cầu thang vô tận. Cô ta lắc đầu:

- Tôi lên bằng một ròng rọc vẫn chuyển lương thực và đồ đạc lên đây. Có thể nhắn tin bằng tín hiệu, nhưng tôi muốn tự gặp anh để chuyển lời cha tôi.

Er­agon chỉ vào hang Saphi­ra:

- Cô muốn ngồi một chút không?

- Không, tôi còn việc ở nơi khác nữa. Cha tôi cũng cho phép anh đến thăm Murtagh, nếu anh muốn.

Giọng cô ta chợt thoáng buồn:

- Murtagh rất mong được chuyện trò cùng anh. Anh nên đến thăm anh ấy. Hình như Murtagh...cô đơn lắm.

Na­sua­da chỉ đường tới phòng gi­am Murtagh cho Er­agon. Nó cám ơn rồi hỏi thăm về Arya. Cô gái cười tinh quái:

- Cũng như những thần tiên khác, Arya bình phục rất nhanh. Chưa ai được phép vào thăm Arya, trừ đức vua, cha tôi, và các thầy thuốc. Đức vua và cha tôi đã biết hết những chuyện thời gi­an Arya bị gi­am cầm. Bây giờ tôi phải đi, anh có điều gì muốn tôi chuyển lại cha tôi không?

- Cho tôi gửi lời cám ơn tất cả nhiệt tình ông đối với chúng tôi. Và tôi mong mỏi được thăm Arya.

- Tạm biệt, Kỵ Sĩ Er­agon. Mong sớm gặp lại.

Khi Na­sua­da đi khỏi, Er­agon thắc mắc: “Chẳng lẽ cô ta lặn lội lên tận đây chỉ nói vài chuyện phiếm đó sao?”

“Ôi dào, suy luận cho rách việc” Saphi­ra lèm bèm rồi thụt đầu vào hang. Er­agon vừa lên tới nơi, chợt kinh ngạc thấy Solem­bum đang cuộn mình trong cái hốc kế bên đầu Saphi­ra. Cả con ma mèo và ả rồng đều trố mắt nhìn Er­agon như hỏi: “Thì sao nào?”

Er­agon cười sằng sặc hỏi: “Saphi­ra, khách chờ em là Solem­bum hả?”

Cả hai đứa đều chớp mắt trả lời: “Chính xác.” Er­agon lắc đầu thú vị. Cặp này kết bạn với nhau là đúng quá rồi, cá tính giống nhau, cùng là sinh vật của phép thuật. Nó hỏi: “Solem­bum, mi biết bà An­gela đang ở đâu không?”

“Ở đâu đó trong thành phố này.”

“Bao giờ bà trở lại? Ta cần hỏi ý kiến bà ngay hôm nay.”

“Bà ấy chưa về sớm thế đâu.”

Con mèo ma trả lời xong im thin thít, không chịu nói thêm gì nữa. Er­agon chán nản nằm xuống cạnh Saphria tự nhủ, ngày mai mình phải đi thăm Murtagh.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play