Ánh nắng ban mai sưởi ấm mặt Er­agon. Vừa dụi mắt, nó vừa ngồi dậy bên mép giường. Sàn gỗ lạnh ngắt dưới bàn chân, nó duỗi thẳng đùi và ngáp.

Bên cạnh giường là dãy kệ, chất đầy những món nó sưu tầm được. Những mảnh gỗ cong queo, những vỏ sò hình dáng ngộ nghĩnh, những viên đá vỡ để lộ phần ruột sáng bóng và những bó cỏ khô thắt nút. Món nó thích nhất là bộ rễ xoắn xúyt. Nó ngắm hòai không biết chán. Phần còn lại, căn phòng trống trơn, ngọai trừ một tủ áo và cái bàn rửa mặt.

Nó xỏ đôi ủng, nhìn xuống sàn nghĩ ngợi. Hôm nay là một ngày đặc biệt. Khoảng giờ này, mười sáu năm trước, là ngày Sale­na - mẹ nó, trở về Car­va­hall một mình, bụng mang thai nó. Bà đã bỏ đi, ra thành phố sống được sáu năm. Khi trở về, bà mặc toàn trang phục đắt tiền, tóc bó trong một cái lưới bằng ngọc trai. Bà xin với anh trai cho ở lại nhà tới khi sinh nở. Năm tháng sau, thằng bé ra đời, cả nhà đều sững sờ khi Sale­na khóc lóc năn nỉ vợ chồng anh, Gar­row và Mar­ian, nuôi nấng đứa trẻ. Trả lời câu hỏi vì sao, bà chỉ khóc bảo bắt buộc phải làm như thế. Nhưng lời năn nỉ gần như tuyệt vọng, cho đến khi anh và chị dâu chấp nhận. Bà đặt tên con là Er­agon, rồi ra đi ngay sáng sớm hôm sau và không bao giờ trở lại.

Er­agon còn nhớ như in, cái cảm giác khi mợ nó cho nó biết sự thật trước khi bà chết. Khám phá ra cậu Gar­row và mợ Mar­ian không phải là cha mẹ ruột, nó đã bối rối đến thế nào. Nó đã sống bình thản suốt bao năm, chẳng vẩn chút nghi ngờ. Rồi dần dần nó cũng tập làm quen với cuộc sống này, nhưng Er­agon luôn canh cánh một điều, chắc nó đã gây ra sự bất hạnh cho mẹ. Nó tự nhủ, mình tin chắc phải có lý do chính đáng trong việc mẹ đã làm, ước sao mình biết được đó là chuyện gì.

Một điều nữa cũng làm nó khổ tâm: Cha nó là ai? Mẹ nó không hề cho người nào biết. Nhưng dù cha nó là ai, ông ta cũng chưa một lần tới tìm nó. Er­agon ước ao được biết cha là ai, dù chỉ là biết tên thôi. Biết được nguồn gốc của mình, sung sướng biết bao!

Nó thở dài, đến bên bàn vỗ nước lên mặt. Nước lạnh chảy xuống cổ làm nó rùng mình. Tỉnh táo hẳn, nó lấy viên đá từ gầm giường đặt lên kệ. Nắng sớm vuốt ve viên đá, rọi cái bóng ấm áp của nó lên tường. Er­agon vuốt viên đá thêm lần nữa, rồi chạy vào bếp. Cậu Gar­row và anh Ro­ran đang ăn thịt gà. Er­agon chào cậu và anh. Ro­ran cười với nó. Ro­ran hơn Er­agon hai tuổi, người rắn chắc, mạnh mẽ, rất thận trọng trong mọi hành động. Anh em ruột thật sự cũng không thân nhau bằng hai đứa. Ro­ran cười bảo:

- Thấy mày về là anh mừng rồi. Chuyến đi ra sao?

- Căng lắm. Cậu kể cho anh nghe chưa?

- Chưa.

Er­agon bốc thịt gà vừa ăn ngấu nghiến vừa kể những gì đã xảy ra. Vì Ro­ran năn nỉ, Er­agon phải ngừng ăn, chạy về phòng lấy viên đá cho Ro­ran xem. Ro­ran thỏa mãn tò mò nhưng hơi sợ. Rồi anh lo lắng hỏi nhỏ:

- Mày có dịp nhắn Ka­tri­na chưa?

- Không, sau màn cãi nhau với ông Sloan, làm sao em gặp chị ấy được. Nhưng chị ấy sẽ đợi anh, khi nhà buôn đến. Em nhờ chú Horst nhắn giúp rồi.

- Mày nói cho chú Horst biết? Đó là chuyện riêng tư của tao. Trời đất, nếu tao muốn thiên hạ biết hết như thế, thà tao bắt loa mà nói. Ông Sloan biết chuyện này, ông không để tao gặp cô ấy nữa đâu.

- Chú Horst giữ bí mật mà. Chú ấy không cho ai biết đâu.

Ro­ran không tin tưởng lắm, nhưng không nói gì thêm. Hai anh em tiếp tục ăn trước vẻ mặt trầm ngâm của cậu Gar­row. Xong bữa, cả ba người cùng ra cánh đồng.

Dưới bầu trời xanh xao, lạnh lẽo, rồi đám lúa mạch cuối cùng cũng được gặt xong và chuyển vào kho. Sau đó, ba người cũng hái nho, củ cải đỏ và đậu để chuyển xuống đáy hầm. Mùa màng thu họach xong, cha con cậu cháu nằm sóng xòai vui mừng hưởng thú nghỉ ngơi.

Những ngày tiếp theo lại tất bật việc tách hạt, muối củ quả, đem bán và sửa soạn lương thực cho mùa đông.

Ngày thứ chín kể từ khi Er­agon về nhà, một cơn bão tuyết bất ngờ từ trên núi kéo về thung lũng. Tuyết phủ dày đặc cánh đồng, làng xóm. Người ta chỉ bắt buộc ra khỏi nhà để lấy củi và cho gia súc ăn, vì ai cũng sợ bị lạc trong những trận gió ào ào, cảnh vật mịt mù, chẳng nhìn rõ vật gì. Mọi người co ro bên bếp lửa trong khi gió gào rú đập rầm rầm lên những cánh cửa sổ nặng nề, đóng kín mít. Mấy ngày sau, cơn bão chấm dứt, một thế giới khác hẳn hiện ra với những bông tuyết bồng bềnh trắng nõn.

Cậu Gar­row bảo:

- Tình trạng này, cậu e năm nay những nhà buôn sẽ không đến. Nhưng dù sao cũng phải chờ trước khi đi Car­va­hall. Nếu họ không tới sớm, mình đành phải mua lương thực dự trữ của mấy người thành phố vậy.

Ông đã nản lòng và cả nhà mỗi ngày càng thêm lo lắng, vì chẳng thấy dấu hiệu nào của đám thương gia. Mọi người ít chuyện trò, không khí trong nhà nặng nề, buồn tẻ.

Buổi sáng ngày thứ tám, Ro­ran ra đường cái và xác nhận chẳng có dấu vết nào của những người buôn bán đi qua. Suốt ngày hôm đó, cả nhà sửa soạn cho chuyến đi Car­va­hall. Nhưng chiều tối, còn nuôi chút hy vọng, Er­agon ra đường kiểm tra lần nữa. Nó thấy nhiều vết bánh xe và dấu chân ngựa lún sâu trong tuyết. Nó mừng quýnh, chạy vội về, hớn hở báo tin.

Trước khi mặt trời lên, cả nhà chuyển hoa màu lên xe. Cậu Gar­row bỏ hết tiền dành dụm cả năm vào một túi da, thắt chặt lên dây lưng. Er­agon nhét kỹ gói đựng viên đá giữa những bao hoa màu, sợ xe lắc lư, lăn mất.

Sau bữa ăn sáng qua loa, mọi người thúc ngựa lên đường. Theo vết tuyết tan do những xe của đám thương gia để lại, xe nhà Gar­row dễ dành di chuyển hơn. Buổi trưa họ đã nhìn thấy Car­va­hall.

Ngôi làng nhỏ rộn ràng tiếng nói cười. Những thương gia dựng trại trên bãi đất trống ngọai ô thành phố. Xe cộ, lều bạt, bếp lửa ngổn ngang rải rác. Đủ màu sắc nổi bật trên nền tuyết trắng. Bốn căn lều của những nghệ sĩ hát rong trang hoàng sặc sỡ. Dòng người đông đúc nối nhau từ bãi đất cắm trại tới làng.

Đám đông xúm xít quanh những lều và những gi­an hàng dọc hai bên đường chính. Tiếng ngựa hí vang trời. Tuyết bị dẫm đạp thành mặt băng bằng phẳng, nhiều nơi tan chảy thành nước vì những đống lửa đốt mừng. Không khí thơm lừng mùi hạt dẻ rang.

Gar­row đậu xe và cột mấy con ngựa, rồi lấy chút tiền đưa cho Ro­ran và Er­agon, bảo:

- Ro­ran, con vui chơi chút đi. Nhưng muốn làm gì, cũng phải nhớ về nhà chú Horst ăn cho đúng giờ. Còn Er­agon, cầm viên đá đi theo cậu.

Er­agon đút tiền vào túi, cười toe tóet với Ro­ran, nó đã có kế họach xài món tiền này. Ro­ran quay đi ngay, mặt nó hằn một vẻ cả quyết. Cậu Gar­row đẩy vai Er­agon đi qua đám đông náo nhiệt. Đàn bà vây quanh hàng vải, trong khi các ông chồng săm soi đồ nông cụ. Trẻ con khóai trá la hét chạy nhảy khắp nơi. Chỗ này bày bán dao, chỗ kia hương liệu, nồi soong, thau chậu sáng bóng nằm kề quầy bán yên cương bằng da.

Er­agon tò mò nhìn những nhà buôn. Trông họ dường như không được phát đạt bằng năm ngóai. Con cái họ nhìn ngó với vẻ e dè sợ sệt, quần áo vá víu. Cánh đàn ông khư khư thanh kiếm hay con dao găm, mặt mày hốc hác khác thường. Cả đám phụ nữ của họ cũng cài dao găm bên mình.

Er­agon tự hỏi, chuyện gì làm họ phải trang bị ghê gớm thế? Tại sao năm nay họ tới đây trễ quá vậy? Nó nhớ là những nhà buôn lúc nào cũng vui vẻ nói cười, vậy mà lúc này chẳng ai cười nói gì.

Cậu Gar­row đẩy nó đi về cuối đường. Ông tìm kiếm Mer­lock, một người chuyên buôn bán nữ trang. Hai cậu cháu thấy Mer­lock đứng sau một quầy, đang bày cho một đám phụ nữ xem những chiếc trâm cài tóc. Er­agon thầm đoán, sẽ không ít quí bà nhẵn túi vì những món trang sức này. Mer­lock có vẻ tươi tỉnh hẳn lên trước những tiếng trầm trồ của khách hàng. Với chùm râu dê dưới cằm, Mer­lock tỏ vẻ khinh khỉnh với tất cả mọi người.

Đám khách đàn bà sôi nổi, không thèm quan tâm tới cậu cháu Er­agon, vì vậy hai cậu cháu phải đứng lùi lại sau chờ đợi. Ngay khi Mer­lock vãn khách, hai cậu cháu vội vã tiến lại. Mer­lock hỏi:

- Quí ông cần tìm thứ gì đây? Bùa hay nữ trang?

Hắn đưa ra một bông hồng bằng bạc rất tinh xảo, tán tiếp:

- Hàng quí hiếm do thủy thủ đem về tận Be­la­tona, mà chỉ ba đồng thôi.

Gar­row nói nhỏ:

- Chúng tôi không mua, mà bán.

Mer­lock cất biến ngay bông hồng, ngó sững hai cậu cháu.

- Hiểu rồi. Ông có món gì quí hiếm muốn đổi lấy mấy món nữ trang, phải không? Ông có đem theo đây chứ?

- Có. Nhưng tôi muốn đưa ông coi ở chỗ khác thì hơn.

- Nếu vậy, mời ông vào lều của tôi.

Hắn dọn hàng, nhẹ nhành bỏ vào một hộp sắt, rồi khóa lại. Hắn đẩy hai cậu cháu về đầu đường, tới khu trại dựng tạm. Len lỏi qua những xe ngựa, họ tới một cái lều tách biệt với tất cả những nhà buôn khác. Nóc lều màu đỏ tía, nhưng dưới chân là màu đen. Mer­lock cởi dây cửa lều, hất cánh lều sang một bên.

Trong lều xếp đầy những món nữ trang rẻ tiền và những bàn ghế lạ mắt, chẳng hạn như một cái giường hình tròn, ba cái ghế đẽo từ gốc cây.

Mer­lock khép cánh lều lại, nói:

- Mời ngồi. Nào, bây giờ cho tôi biết lý do phải gặp kín đáo thế này.

Er­agon mở gói, đặt viên đá giữa hai người.

Mer­lock đưa tay ra, mắt sáng lên, nhưng hắn ngừng lại hỏi:

- Tôi được phép chứ?

Gar­row đồng ý, hắn mới cầm viên đá lên. Đặt viên đá trên đùi, Mer­lock với tay lấy một hộp mỏng. Mở hộp, hắn kéo ra một cái chân bằng đồng, đặt trên mặt đất. Sau khi cân, hắn dùng kính chuyên môn của thợ kim hoàn xem xét kỹ lưỡng bề mặt, rồi hắn gõ nhẹ bằng một cái vồ gỗ nhỏ, đo chiều dài, đường kính của viên đá. Mer­lock trầm ngâm cân nhắc kết quả, một lúc sau lên tiếng hỏi:

- Ông biết viên đá này trị giá bao nhiêu không?

- Không.

Cậu Gar­row thú thật, nhấp nhổm không yên trên ghế.

Mer­lock nhăn nhó:

- Khổ nỗi là tôi cũng không rõ. Nhưng tôi có thể cho ông biết: những vân trắng có cùng chất liệu giống phần xanh. Tuy nhiên, chất liệu này là gì, tôi chưa biết được. Nó rắn hơn tất cả những lọai đá mà tôi từng biết, rắn hơn cả kim cương. Kẻ nào đã mài dũa, đánh bóng nó, chắc phải có những dụng cụ mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy, hay là...phải nhờ ma thuật. Tuy nhiên, tôi biết là viên đá này rỗng ruột.

- Sao?

Gar­row kêu lên. Giọng Mer­lock hơi bực:

- Đã bao giờ ông nghe âm thanh một viên đá như thế này chưa?

Hắn dùng sống lưng một con dao găm gõ lên viên đá. Một âm thanh trong trẻo ngân lên, rồi êm đềm lịm tắt. Er­agon chỉ sợ viên đá bị nứt. Mer­lock xoay viên đá về phía hai cậu cháu, nói:

- Không trầy xước chút xíu. Tôi ngờ lấy búa đập cũng chẳng ăn thua gì đâu.

Căn lều chìm trong im lặng. Er­agon bối rối nghĩ, mình biết ngay viên đá này xuất hiện trong rừng do phép thuật mà, nhưng chẳng lẽ nó cũng được tạo nên bằng phép thuật? Er­agon buột miệng hỏi:

- Nhưng nó trị giá bao nhiêu?

- Tôi không thể cho cháu biết chính xác được. Tôi chắc chắn có người sẽ trả giá cao, nhưng không phải những người ở Car­va­hall này. Cháu phải đi về những thành phố miền nam mới tìm được người mua. Đối với hầu hết mọi người thì viên đá này kỳ lạ thật đó, nhưng không phải một vật để họ phải bỏ tiền ra mua, trong khi còn bao nhiêu nhu cầu cấp thiết khác.

Gar­row nhìn trừng trừng lên nóc lều, như một tay cờ bạc đang tính nước:

- Vậy ông có định mua không?

- Tôi không định liều như vậy. Tôi chỉ có thể tìm một nhà buôn giàu có trong chuyến đi vào mùa xuân. Nhưng nếu tìm được người mua, thì phải năm tới tôi mới trở lại đây trả tiền cho ông được. Thôi, ông phải tìm người khác vậy. Nhưng tại sao ông lại muốn nói với tôi vụ này một cách riêng tư vậy?

Er­agon gói lại viên đá, ngước nhìn Mer­lock, trả lời mà chẳng biết ông thương gia này có nổi trận lôi đình như lão chủ hàng thịt không:

- Vì....cháu lượm được nó trong núi Spine. Và những người quanh vùng không ưa chuyện này.

Mer­lock giật mình hỏi:

- Cháu có biết vì sao cánh nhà buôn chúng tôi đến đây trễ vậy không?

Er­agon lắc đầu. Mer­lock tiếp:

- Suốt chuyến đi của chúng tôi gặp toàn chuyện không may. Sự hỗn loạn dường như ngự trị khắp nước Ala­gae­sia. Bệnh tật, những vụ tấn công, và nhất là những lời trù ếm xui xẻo. Đám Var­den tăng cười những cuộc xâm lăng. Triều đình Gal­ba­torix thúc đẩy các thành phố chi viện thêm binh sĩ, để chống lại bầy quái thú Ur­gals. Lũ quái vật tàn bạo này đang tràn vào phía nam, để tiến đến sa mạc Hadarac. Chẳng ai hiểu vì sao, và chẳng ai quan tâm, cho đến khi chúng tiến qua vùng dân cư, người ta phát hiện ra chúng trên các ngả đường rất gần thành thị. Tệ hại nhất là có tin báo, trong đám chùng còn có một Tà Thần. Tuy nhiên, nguồn tin này chưa chắc lắm. Nhưng những cuộc đụng độ như thế xảy ra, khó có người sống sót.

- Vớ vẩn. Ở đây chẳng bao giờ có ai nhìn thấy một con quái Ur­gal nào. Họa chăng là có cặp sừng của nó treo lù lù trước cửa quán rượu của thằng cha Morn.

- Có thể vậy. Nhưng đây chỉ là một cái làng bé nhỏ, khuất sau dãy núi. Nhưng tôi đoán chẳng bao lâu nữa đâu, nơi này cũng sẽ không yên, nên báo để các vị biết, vì đã có những chuyện lạ xảy ra tại đây, chẳng hạn như chuyện tìm thấy viên đá như thế này trong vùng núi Spine.

Hắn nghiêm trang nói và cúi chào với một thoáng cười.

Trên đường trở lại Car­va­hall, Gar­row hỏi cháu:

- Er­agon, cháu nghĩ sao? Cậu sẽ dò hỏi thêm tin tức, mới quyết định được. Đem viên đá về xe, rồi muốn làm gì thì làm. Cậu gặp lại cháu trong bữa ăn tài nhà chú Horst.

Er­agon mừng rỡ lách qua đám đông, trở lại xe. Việc mua bán của cậu nó sẽ kéo dài mấy giờ, nó tha hồ vui chơi. Dấu viên đá vào xe xong, nó hấp tấp trở vào thành phố.

Đi hết cửa hàng này sang cửa hàng khác, Er­agon đánh giá từng món cứ như một dân mua sành sỏi dù trong túi chỉ có vài đồng. Chuyện trò với dân buôn bán, họ chắc chắn những gì nó đã nghe qua Mer­lock là có thật. Tin tức lập đi lập lại: chẳng có ai bảo vệ, nguy hiểm xuất hiện tràn lan.

Cuối ngày, nó mua ba cây kẹo bạc hà và một cái bánh mứt nóng. Sau nhiều giờ đứng trong tuyết lạnh, cái bánh nóng mới khóai khẩu làm sao. Nó thòm thèm liếm láp mấy ngón tay dính nước đường. Ngồi trên bức tường đá thấp, nó ăn dè từng chút kẹo. Hai thằng nhóc vật nhau gần đó, nhưng Er­agon không hào hứng tham gia.

Xế chiều, việc buôn bán chuyển vào những nhà dân. Er­agon chỉ mong tới giờ này để xem các nghệ sĩ hát rong biểu diễn và kể chuyện. Nó rất mê chuyện cổ tích, thần tiên, nhất là nếu may mắn, được nghe kể chuyện về những Kỵ Sĩ Rồng. Car­va­hall có riêng một người kể chuyện. Đó chính là ông già Brom, một người quen của nó. Nhưng chuyện của ông lão mỗi năm mỗi cũ thêm, trong khi đám hát rong lần nào trở lại cũng có nhiều chuyện mới.

Chợt Er­agon nhìn thấy lão chủ hàng thịt gần đó, nó vội vòng qua một góc đường, tiến tới quán rượu của Morn.

Bên trong quán nóng hực, khét lẹt mùi mỡ tỏa ra từ đám khói của hai cây nến cao nghễu nghện. Ngay trên khung cửa, một cặp sừng quái thú Ur­gal đen bóng. Cặp sừng xoắn, dang rộng như hai cánh tay. Quán dài và thấp. Morn tíu tít tiếp khách. Nửa phần dưới mặt hắn méo mó, ngắn chủn, cứ như hắn đã để cằm lên cái cối xay thóc. Mọi người chen chúc quanh mấy cái bàn gỗ, lắng nghe chuyện của hai nhà buôn đã bán hết hàng, vào quán lai rai.

Đang lau cốc, Morn ngẩng lên bảo Er­agon:

- A, Er­agon. Gặp cháu chú vui lắm. Cậu cháu đâu?

- Mua sắm. Cậu cháu cũng sắp tới rồi.

- Còn Ro­ran?

- Có chứ. Chẳng có gì giữ anh ấy ở nhà mùa này được.

- Tốt! Tốt!

Er­agon chỉ hai con buôn hỏi:

- Ai vậy?

- Dân buôn ngũ cốc. Chúng nó mua giá rẻ mạt. Giờ đang nói toàn chuyện dóc tổ mà bắt mình tin mới ghét chứ.

- Họ kể chuyện gì vậy?

- Chúng bảo, nhóm Var­den kết hợp với lũ quái Ur­gals và đang tập trung để tấn công chúng ta. Mày ra nghe thử đi. Tao đang bận tối tăm mặt mũi, chẳng thì giờ đâu nghe chuyện tào lao.

Gã tay buôn thứ nhất cố nhồi nhét thân hình quá hổ trong cái ghế. Gã đang oang oang:

- Không, không, các người chẳng hiểu gì cả. Chính nhờ sự cố gắng lớn lao của nhà vua, mà các người mới có thể yên ổn ngồi đây mà tranh cãi với chúng tôi. Nếu nhà vui khôn ngoan của chúng ta không còn bảo vệ cho các người nữa, bất hạnh sẽ đổ lên đầu các người.

Có người lên tiếng:

- Sao anh không nói luôn là các Kỵ Sĩ Rồng đã trở lại và hai anh đã tiêu diệt cả trăm vị thần tiên. Tưởng tụi này là con nít, tin tuốt tuột mấy chuyện bá láp của các anh chắc? Tụi này dư sức tự lo cho thân mình.

Đám đông ồn ào hẳn lên. Gã lái buôn vừa mở miệng trở lời, gã đồng nghiệp gầy nhom của hắn đưa bàn tay sáng ngời những chiếc nhẫn lên:

- Các vị hiểu lầm rồi. Chúng tôi biết triều đình không thể lo cho từng cá nhân chúng ta, như các vị mong muốn chứ. Nhưng triều đình có thể ngăn chặn lũ quái thú Ur­gals và những kẻ đáng ghê tởm khác tàn phá...nơi này. Các vị tức giận vì sự đối xử không công minh, thiếu quan tâm của triều đình với dân chúng. Nhưng một chính phủ không thể làm vừa lòng tất cả mọi người. Những bất đồng, tranh luận là không thể nào tránh được. Đất nước nào cũng có những nhóm nhỏ bất mãn, những kẻ không thỏa mãn với quyền lực cân bằng.

Một người đàn bà hét toáng lên:

- Anh gọi Var­den là một nhóm nhỏ được à?

Gã mập thở dài:

- Chúng tôi đã cắt nghĩa rồi. Tụi Var­den chẳng quan tâm gì đến chuyện giúp đỡ các người đâu. Đó chỉ là những lời đường mật giả dối của những quân phản nghịch, hòng lật đổ triều đình. Chúng cố làm chúng ta tin rằng mầm mống nguy hiểm là từ bên trong, chứ không phải từ bên ngòai biên cương của chúng ta. Tất cả những gì chúng muốn, là hạ bệ nhà vui và thâu tóm đất đai của chúng ta. Để sửa soạn cho cuộc xâm lăng này, chúng có gián điệp ở khắp nơi. Các người không thể biết được kẻ nào đang làm việc cho chúng đâu.

Er­agon không đồng ý. Nhưng gã nói thật trơn tru, làm đám đông gật gù như thấm ý. Nó bước lên, hỏi:

- Sao các chú biết chuyện này? Cháu có thể nói mây xanh lè, nhưng chưa chắc đó là sự thật. Các chú hãy chứng minh những gì các chú nói là sự thật đi.

Hai gã lái buôn lom lom nhìn nó, trong khi mọi người im lặng chờ câu trả lời.

Gã gầy ốm lên tiếng trước:

- Trẻ con của quí vị không được học lễ phép sao? Hay ở đây các vị cho trẻ con cái quyền thách thức cả người lớn?

Mọi người nhìn Er­agon khó chịu, nhưng một ông lên tiếng:

- Thì cứ trả lời nó coi.

Mồ hôi đổ hột trên mép gã mập. Gã bật nói:

- Đồ khùng.

Câu nói như chọc tức mọi người. Rầm rầm tiếng phản đối, cãi nhau như cái chợ.

Miệng đắng chát, Er­agon trở lại quầy rượu. Chưa bao giờ nó thấy ai quí trọng triều đình, đem thân đi chống kẻ thù của nhà vua cả. Mối căm ghét triều đình ăn sâu bám rễ khắp Car­va­hall, như một sự di truyền tự nhiên. Những năm thời tiết khắc nghiệt, dân chúng gần như chết đói, chẳng hề thấy một sự giúp đỡ nào của triều đình. Các quan thu thuế thì chẳng có chút quan tâm. Nó cảm thấy có lý khi phản đối hai gã con buôn ca tụng công đức nhà vua, mà quên nghĩ đến Var­den.

Var­den là một nhóm nổi loạn, liên tục đột kích và tấn công triều đình. Điều bí mật là không ai biết kẻ nào cầm đầu, ai đã hình thành nên nhóm này sau nhiều năm triều đình Gal­ba­torix trở nên lớn mạnh trong cả thế kỷ. Var­den đã chiếm được cảm tình dân chúng, khi tài giỏi thoát khỏi những cố gắng nhằm tiêu diệt họ của Gal­ba­torix. Chẳng ai biết gì về nhóm Var­den, ngọai trừ chuyện có ai đó cần nơi ẩn trốn, hay là người căm ghét triều đình, họ sẽ chấp nhận cho theo. Nhưng vấn đề là phải tìm ra họ.

Morn nghiêng mình trên quầy rượu, nói với Er­agon:

- Toàn chuyện khó tin, phải không? Chúng nó như kên kên lượn vòng vòng trên con thú sắp chết. Chúng không xéo khỏi đây cho sớm là rắc rối.

- Rắc rối cho mình hay cho họ?

- Cho chúng nó.

Giọng Morn giận dữ vang khắp quán. Er­agon bỏ đi khi đám cãi nhau gay go, sắp trở thành bạo lực.

Cánh cửa đóng sập sau lưng nó, ngăn cách tiếng om sòm. Mặt trời đang xuống, những ngôi nhà trải bóng dài trên nền đất. Đang cắm cúi đi, Er­agon chợt thấy Ro­ran và Ka­tri­na đứng trong một ngõ hẻm. Ro­ran nói gì đó, nó không nghe được. Ka­tri­na nhìn xuống hai bàn tay, thì thầm trả lời, rồi cô nhón chân, hôn Ro­ran trước lúc chia tay. Nó nhảy lại chọc giận Ro­ran:

- Thoải mái chưa?

Ro­ran ậm ừ bước đi. Er­agon hỏi:

- Anh có nghe được tin tức gì của những người buôn bán không?

- Có. Mày nghĩ gì về ông Sloan?

- Anh biết quá rõ rồi mà.

- Nếu khám phá ra chuyện tao với Ka­tri­na, chắc ông ấy với tao có đổ máu.

Một bông tuyết rơi trên mũi Er­agon, nó ngửa mặt nhìn bầu trời đã chuyển sang màu xám. Nó chẳng biết nói gì, vì Ro­ran có lý. Nó choàng vai người anh họ, tiếp tục bước xuống con đường nhỏ.

Bữa ăn tối ở nhà chú Horst thật thân mật, ấm cúng. Căn phòng tràn ngập tiếng nói cười. Món ăn ngon, rượu mạnh ê hề cộng thêm bầu không khí náo nhiệt vui vẻ. Ăn uống xong, khách khứa của chú Horst rời nhà thả bộ đến bãi đất trống, nơi đám thương nhân cắm trại. Một vòng cọc, trên thắp nến, cắm quanh một khoảng đất rộng. Dân làng từ từ vây quanh, nôn nao chờ đợi trong giá lạnh.

Những nghệ sĩ hát rong, với trang phục đính tua, từ trong các lều ồ ạt bước ra. Theo sau là những nhạc công. Các nhạc công này sẽ tấu nhạc và minh họa cho các diễn viên trẻ diễn xuất theo những cốt truyện. Màn mở đầu chỉ là những trò hài hước, bỡn cợt. Sau đó, khi những ngọn nến lách tách trên giá và mọi người xúm xúit quanh thành một vòng tròn chật ních, ông lão kể chuyện tên Brom mới tiến ra. Chòm râu bạc thắt tím, thả dài trước ngực, áo trùm đen phủ kín từ đôi vai xuống thân hình, ông dang hahi tay, với những ngón tay chĩa ra như móng vuốt của lòai dã thú, rồi ngân nga kể:

- Không thể nào ngăn cản được thời gi­an. Năm tháng cứ trôi qua, dù chúng ta muốn hay không....Nhưng những gì đã mất, vẫn có thể còn lại trong ký ức chúng ta. Do đó, những gì các người sắp nghe, sẽ không trọn vẹn và rời rạc, tuy nhiên đó là sự cần thiết để mà lưu giữ. Vì không có các người, những chuyện đó sẽ không thể tồn tại. Ta kể cho các người nghe một chuyện đã bị lãng quên, hay chỉ còn mơ hồ trong ký ức của chúng ta.

Đôi mắt sắc sảo của ông quan sát những khuôn mặt đang chăm chú lắng nghe, sau cùng ánh nhìn ngừng lại trên mặt Er­agon:

- Trước khi tổ tiên các người sinh ra, thì những Kỵ Sĩ Rồng đã được hình thành. Suốt nhiều ngàn năm, họ đã thành công trong bổn phận bảo vệ và canh giữ. Sự dũng mãnh của họ trong chiến trận không gì so sánh được, vì mỗi một người trong số họ sức lực gấp mười người bình thường. Họ bất tử với bệnh tật, chỉ có thuốc độc và gươm giáo mới có thể lấy đi sinh mạng họ...Sự dũng mãnh của họ chỉ để phục vụ điều tốt lành, vì vậy, dưới sự bảo hộ của họ, lâu dài cao lớn, thành phố to rộng được mọc lên. Nhờ họ gìn giữ hòa bình, mà đất đai màu mỡ, dân chúng trù phú ấm no. Thần tiên là đồng minh, người lùn là bằng hữu của chúng ta. Đó là một thời đại hoàng kim. Nhưng bây giờ chúng ta phải khóc vì những điều đó đã mất hết rồi.

Lão lặng lẽ cúi đầu, giọng buồn thảm mênh mông:

- Mặc dù kẻ thù không tiêu diệt được họ, nhưng họ đã không tự bảo vệ được sự chống đối lẫn nhau. Tất cả chỉ vì một đứa trẻ tên Gal­ba­torix, sinh ra tại vùng quê Inz­ibeth. Theo tục lệ, năm lên mười, thằng nhỏ được khảo thí và người ta phát hiện nó có một nội lực phi thường. Các Kỵ Sĩ đã chấp nhận cho nó vào hàng ngũ.

Kết thúc gi­ai đoạn huấn luyện, tài năng nó vượt trội hơn tất cả. Với thể lực cường tráng và một trí tuệ thiên phú cực kỳ sắc bén, nó mau chóng chiếm được địa vị ngang hàng với những Kỵ Sĩ tiền bối. Có người thấy sự thăng tiến cấp kỳ của nó như vậy là một điều nguy hiểm, lên tiếng cảnh giác các Kỵ Sĩ. Nhưng các Kỵ Sĩ đã trở nên kiêu hãnh về uy lực của họ, nên làm ngơ trước những lời khuyên. Hỡi ôi, thống khổ nẩy mầm từ khi đó.

Vậy là chẳng bao lâu sau khi huấn luyện, Gal­ba­torix rủ hai người bạn đồng môn làm một chuyến du hành liều lĩnh. Chúng bay tới tận miền nam xa xôi, vượt qua lãnh địa của tụi Ur­gals, yên tâm vì có quyền lực mới bảo vệ cho chúng. Tại đó, nơi băng đóng dày đặc, ngay cả mùa hè cũng không tan rã, chúng bị phục kích trong khi ngủ. Dù hai người bạn và hai con rồng của chúng bị giết chết và nó cũng bị thương nặng, nhưng Gal­ba­torix đã vùng lên giết những kẻ tấn công. Chẳng may, con rồng của nó bị một mũi tên lạc xuyên thấu tim. Không biết phương pháp điều trị, con rồng đã chết trên tay Gal­ba­torix. Hạt giống điên loạn nẩy mầm từ đây.

Ông lão kể chuyện chậm chạp nhìn quanh, nét mặt thoáng vẻ u sầu. Những lời kể tiếp theo, nghe như hồi chuông cầu hồn buồn thảm:

- Sức lực mất quá nhiều, lại gần như điên loạn vì những mất mát, một mình lang thang vô vọng trong nơi hoang vắng, hắn đi tìm cái chết. Nhưng cái chết không đến với hắn, mặc dù hắn không hề khiếp sợ, lăn xả vào chiến đấu với bất cứ sinh vật nào hắn gặp. Tụi quỉ sứ Ur­gals và những quái vật khác đều tìm cách chạy trốn khỏi sự lùng sục điên cuồng của hắn. Trong thời gi­an này, hắn chợt nẩy ra ý nghĩ là có thể các kỵ sĩ sẽ tặng hắn con rồng khác. Thúc dục bởi ý tưởng này, hắn bắt đầu chuyến trở về đầy cam go chỉ bằng đôi chân, xuyên qua vùng núi Spine. Vùng núi rừng hắng đã bay qua, không tốn chút sức lực, vì ngự trên lưng rồng, nay phải vượt qua trong nhiều tháng trời. Hắn có thể dùng phép thuật để săn bắn, nhưng thường thì những nơi hắn đi ngang, chẳng có con thú nào lảng vảng. Do đó, khi qua khỏi được vùng rừng núi, hắn đã cận kề cái chết. Một nông dân bắt gặp hắn gục ngã trong vũng bùn, vội đi gọi các Kỵ Sĩ.

Trong cơn hôn mê, hắn được họ đem về săn sóc, và vết thương trên cơ thể hắn được chữa lành. Ngủ li bì suốt bốn ngày, khi hắn tỉnh dậy, không có dấu hiệu bất thường nào của bệnh tinh thần. Được đưa tới trước hội đồng xét xử, Gal­ba­torix thản nhiên đề nghị được cung cấp một con rồng khác. Đòi hỏi quá đáng đó chứng tỏ hắn đã loạn trí và hội đồng mới nhận ra tình trạng thực sự của hắn. Với tư tưởng lệch lạc của một kẻ điên loạn, sự từ chối cho niềm hy vọng được cấp rồng, làm hắn tin rằng chính những Kỵ Sĩ là kẻ có lỗi gây ra cái chết cho con rồng của hắn. Suốt đêm ngày hắn nung nấu ý tưởng tính toán một kế họach trả thù hiệu quả nhất.

Hắn kiếm được một kỵ sĩ có cảm tình, gieo rắc những lời đầy xảo trá. Bằng sự thuyết phục triền miên và sử dụng cả những ma thuật hắc ám hắn đã lén lút học được từ một Tà Thần, kích thích kỵ sĩ này chống lại cấp trên. Cả hai âm mưu lừu gạt, rồi giết một bậc tiền bối. Công việc bất chánh hoàn tất, hắn quay lại giết cả kẻ cộng sự. Ngay khi đó, các Kỵ Sĩ xuất hiện, tay hắn còn sũng máu. Gal­ba­torix rú lên một tiếng, thoát vào đêm tối. Vì hắn rất tinh quái trong cơn điên, họ đã không tìm ra hắn.

Suốt nhiều năm, hắn chui nhủi trong vùng hoang dã, như một con thú bị săn đuổi, luôn cảnh giác kẻ truy tìm. Tuy mọi người không quên được sự bất nhân, bạc ác của hắn, nhưng việc truy lùng hắn cũng giảm dần. Rồi bất hạnh đẩy đưa một kỵ sĩ trẻ, tên Morzan gặp gỡ hắn. Morzan là một người thể xác mạnh mẽ, nhưng tinh thần yếu đuối. Gal­ba­torix dụ dỗ để Morzan không gài một cánh cổng của doanh trại Ilirea, nơi bây giờ được gọi là Uru'baen. Gal­ba­torix đã lẻn qua cổng này để ăn cắp một con rồng mới nở.

Hắn và đệ tử mới cùng trốn tại một nơi xấu xa, hắc ám đến các Kỵ Sĩ cũng không dám liều lĩnh xâm nhập. Tại đây, Morzan được truyền dạy những tà thuật kỳ bí từng bị cấm mà không sợ bị phát hiện. Khi huấn luyện cho Morzan xong và con rồng đen Shruikan của hắn đã trưởng thành, Gal­ba­torix mới xuất đầu lộ diện, với sự túc trực sát bên của Morzan. Chúng cùng nhau truy dấu bất cứ Kỵ Sĩ nào chúng gặp. Giết được một mạng, sức mạnh của chúng lại tăng thêm. Dù biết là sai lầm, nhưng vì khát khao quyền lực và trả thù, mười hai kỵ sĩ đã đi theo Gal­ba­torix. Mười hai cộng với Morzan, chúng trở thành nhóm Mười - Ba - Phản - Đồ. Quá bất ngờ, các Kỹ Sĩ đã thất thế khi bị tấn công. Các thần tiên cũng phải chiến đấu cam go trong cuộc chiến chống lại Gal­ba­torix, nhưng họ vẫn bị đánh bại và phải bắt buộc chạy trốn vào những nơi bí mật. Kể từ đó, họ không xuất hiện nữa.

Chỉ còn Vrael, lãnh tụ Kỵ Sĩ, có thể chống trả lại Gal­ba­torix và mười ba tên phản đồ. Lớn tuổi và khôn ngoan, ông ráng chiến đấu để giữ lại nhựng gì còn có thể và giữ những con rồng còn lại khỏi rơi vào tay kẻ thù. Trong trận chiến cuối cùng, trước cổng thành Doru' Are­aba, ông đã đánh bại Gal­ba­torix, nhưng lại ngần ngừ hạ thủ. Gal­ba­torix chớp thời cơ, đánh hết sức bình sinh vào mạng sườn ông. Bị thương nặng, ông tránh vào núi Ut­gard, nơi đây ông hy vọng thu hồi lại dần sức lực. Nhưng Gal­ba­torix đã tìm ra. Khi hai bên chiến đấu, hắn đã tung cú đá trúng ngay hạ bộ của Vrael. Với chiêu đánh hèn hạ này, hắn đã chiếm được ưu thế, vung lưỡi kiếm sáng ngời, chặt đầu ông.

Ngay khi hội đủ uy quyền, Gal­ba­torix tự phong mình là vua trên toàn đất nước Ala­gae­sia. Và kể từ ngày đó, hắn đã cai trị chúng ta.

Kể xong, ông lê bước ra đi cùng nhóm hát rong. Er­agon nghĩ là nó đã nhìn thấy những giọt nước mắt long lanh trên má ông. Đám đông tản mát, thì thầm bàn tán. Gar­row nói với con và cháu:

- Các con may mắn lắm đó. Suốt đời ta mới chỉ được nghe chuyện này có hai lần. Nhưng nếu triều đình biết vụ này, cụ Brom sẽ không sống nổi tới tháng sau.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play