Sáng hôm sau, Er­agon thức dậy với những vết bầm tím và tứ chi đau nhức. Thấy ông già đang hì hục xách yên và hành lí của nó, chất lên lưng Saphi­ra, Er­agon ráng nét mệt mỏi dậy lo bữa điểm tâm.

Ăn xong, nó lẳng lặng cầm cung tên tiến lại Saphi­ra. Brom dặn dò:

- Nhớ khép chặt đầu gối, điều khiển Saphi­ra bằng ý tưởng. Càng nằm sát lưng nó càng tốt. Nếu cháu không hốt hoảng sẽ không sao đâu.

Er­agon gật đầu, bỏ cung vào bao, rồi để ông đỡ lên yên. Nó rúm cả người khi Saphi­ra thu mình lấy đà rồi chỉ với một cái quẫy đuôi cô ả vọt lên trời. Gió vù vù như hút hết hơi thở Er­agon.

Nó nhớ lần sau cùng bay trên lưng rồng, Saphi­ra ráng sức vỗ cánh. Nhưng bây giờ cô ả bay thật vững vàng, mạnh mẽ. Saphi­ra đảo vòng, bay cặp bờ con sông màu xám kéo dài phía dưới. Mây bềnh bồng trôi qua Er­agon. Rừng cây chỉ còn là những chấm nho nhỏ. Không khí nhẹ nhàng, trong suốt. Er­agon vừa thốt lên: “Tuyệt vời …”, mặt đất phía dưới thấp xoáy vòng đến chóng mặt, nó kêu lên: “Làm trò gì vậy. Anh lộn cổ xuống mất.”

“Tập cho quen đi. Lỡ mình bị tấn công trên không, phải chơi trò này mới né được chứ.” Er­agon cứng họng, đành tập trung cho bụng đỡ nhộn nhạo cơn buồn nôn. Chị rồng khoái trá, biểu diễn một màn rơi tự do, gần mặt đất mới là là bay tiếp. Er­agon nghiêng mình ngắm cảnh. Saphi­ra bảo: “Để em cho anh thấy bay thật sự như thế nào nhé.” Tư tưởng nó cuốn hút Er­agon thoát khỏi thân xác. Er­agon cố chống chọi, xong đành chịu thua, không tự kiểm soát được nữa. Mắt nó mờ đi, nó cảm thấy đang nhìn sự vật xuyên qua đôi mắt của Saphi­ra. Tất cả đều biến dạng: màu sắc trở nên kỳ lạ khác thường, màu lam nổi bật lên, những gì màu xanh lục và đỏ đều dịu xuống. Er­agon không thể nào xoay trở thân mình, nó cảm thấy như một hồn ma đang trôi trên bầu trời.

Càng bay lên cao, niềm vui thuần khiết từ Saphi­ra càng lan tỏa. Nó sung sướng được tự do bay bổng. Nó quay nhìn Er­agon, và Er­agon nhìn thấy chính mình trong mắt rồng. Nó cảm thấy xương thịt rồng như chính xương thịt nó và chính nó đang vươn mình bay bổng trên không, chiếc đuôi rẽ mấy như một bánh lái khổng lồ.

Mối liên hệ giữa rồng và người tăng dần cho đến khi nhận thức của cả hai không còn sự tách biệt nào. Sự phấn chấn của Saphi­ra làm tiêu tan nỗi khiếp đảm trong Er­agon. Ngay cả khi hạ cánh, cả hai kết hợp sức mạnh một cách rất nhịp nhàng.

Er­agon thở hổn hển, lịm đi khi hai tư tưởng tách rời. Ngay khi tỉnh táo hẳn lại, nó nói với Saphi­ra: “Thật không thể nào tin nổi! Tại sao em lại chịu xuống đất, trong khi bay bổng thú vị đến như vậy?”

“Em cũng phải ăn chứ. Anh thích bay là em mừng rồi.”

“Tiếc là anh không được bay nhiều hơn. Em vẫn thường thấy màu lam nhiều như vậy sao?”

“Đúng vậy. Chúng ta sẽ thường xuyên bay chứ?”

“Tất nhiên, có dịp là bay.”

Ả hài lòng ra mặt. Trong chuyện bay Saphi­ra chỉ cho Er­agon những nơi nó thường ẩn náu, những lối mòn khám phá cho người dưới đất, luc sđó Er­agon mới hiểu sự gi­an khổ của Saphi­ra nhiều hơn nó tưởng. Vì qua những tàn cây rậm rạp, Saphi­ra đã phải liều mình sà xuống thấp mới có thể phát hiện những lối đi.

Gần trưa, một âm thanh ù ù trong tai Er­agon. Nó lắc đầu, âm thanh đó càng lớn hơn. Tiếng ông già Brom đang cố nốil­iên lạc với nó: “Cháu đang làm cái trò gì thế? Xuống đây ngay. Ta mới thấy một việc rất quan trọng.”

“Ông Brom ạ?”

“Còn ai nữa? Bảo cái con thằn lằn khổng lồ của cháu trở lại đây ngay.”

Ông gửi hình ảnh nơi ông đang đứng chờ cho Er­agon. cho Er­agon. Er­agon sẵn sàng cung tên trong tay, cùng Saphi­ra tìm nơi hạ cánh.

Tới nơi, Er­agon nhảy vội xuống đất.

- Chuyện gì vậy, ông?

- Chuyện gì à? Lần sau đừng giở trò cắt liên lạc như vậy, nghe chưa?

- Cháu xin lỗi.

- Ta lần xuống bờ sông, rồi thấy mất dấu tụi Ra’zac. Nhìn mặt đất coi, cho ta biết cháu thấy gì.

Dấu chân Ra’zac lộn xộn chồng lên nhau đầy mặt đất. Nổi rõ trên những vết chân chừng hai ngày qua của chúng, là những vết cào dài rất rõ. Thấy quen quen, nhưng Er­agon chưa xác định là dấu vết gì. Rồi nó chợt nhìn Saphi­ra. Mỗi khi cần lấy đà, lưng nó cào nát mặt đất giống như thế này. Er­agon nói:

- Cháu chỉ có thể cho rằng tụi Ra’zac này đã bay khỏi đây với những con rồng. Nếu không, thì cũng phải là một loài chim khổng lồ.

- Ta thường nghe Ra’zac di chuyển với một tốc độ phi thường. Nhưng đây là chứng cứ đầu tiên ta được thấy. Nếu chúng bay như thế này, khó lòng chúng ta tìm gặp được. Nhưng ta biết chắc, đây không phải là rồng. Một con rồng không khi nào chịu để cho một tên Ra’zac cưỡi.

- Làm sao bây giờ. Saphi­ra không thể theo dấu chúng trên không, mà nếu có thể, thì ông lại ở quá xa.

- Không nóng vội được. Vừa ăn trưa vừa tính.

Hai người vừa ăn vừa lặng lẽ nhìn trời suy nghĩ. Er­agon lại nghĩ đến gia đình. Hình ảnh cửa nhà điêu tàn bốc cháy làm nó đau khổ đến thắt ruột. Nó tự hỏi giờ này anh Ro­ran đang làm gì? Nếu không tìm ra tụi Ra’zac mình sẽ đi về đâu, với mục đích gì đây? Sẽ trở lại Car­va­hall hay đi theo ông già Brom tiếp tục luyện tập?

Ăn xong, ông Brom đứng dậy lật bỏ áo trùm đầu, nói:

- Ta đã suy tính đến tất cả những mánh khóe, những câu thần chú, tất cả khả năng mà chúng ta có được, Saphi­ra có thể xuất hiện trong vài thành phố, để quyến rũ tụi Ra’zac như mật phủ ruồi, nhưng như vậy là quá liều lĩnh. Chúng sẽ đưa quân lính tới. Chưa kể nhà vua rất có thể sẽ tự thân chinh lâm trận. Lúc đó ta và cháu không thể nào thoát chết.

- Bây giờ phải làm sao? Có ý kiến gì không, Saphi­ra?

“Không.”

Ông già cũng bảo:

- Tùy cháu quyết định. Đây là cuộc trường chinh của chính cháu.

Er­agon nghiến răng tức giận, bỏ đi khỏi ông già và con rồng đỏng đảnh. Nhưng mới tới bìa rừng, chân nó đạp phải một cái bình bằng sắt. Bình có một quai da đủ dài để choàng qua vai và trên thân bình là một dấu hiệu bằng bạc, mà Er­agon đã từng nhìn thấy trên áo hai tên Ra’zac.

Nhặt cái bình lên, Er­agon tò mò mở nắp, một mùi nồng gắt tỏa trong không khí, giống như mùi nó đã bắt gặp khi phát hiện cậu Gar­row trong gi­an nhà đổ. Nó nghiêng miệng bình, một giọt chất lỏng trong vắt, ngời sáng rớt vào ngón tay và lập tức ngón tay nó bị đốt như chạm vào ngọn lửa. Er­agon thét lên, chìu tay xuống đất. Chỉ một thoáng, một khoảng da bị ăn lõm xuống.

Nhăn nhó, Er­agon chạy bay về chỗ ông già, kêu lên:

- Ông coi cháu nhặt được cái gì đây?

Ông cầm bình quan sát rồi đổ một chút chất lỏng lên mũ. Er­agon vội cảnh cáo:

- Coi chừng, nó cháy…

- Cháy da ông chứ gì? May là cháu còn đủ khôn, mới chỉ rót lên ngón tay chứ chưa uống đấy. Một chút thôi là cháu tiêu rồi.

- Nhưng nó là cái gì vậy ông?

- Một chất dầu từ hoa của cây Sei­th. Loại cây này mọc trên một hòn đảo hoang vu lạnh giá ngoài biển bắc. Trong trạng thái tự nhiên, chất dầu này dùng bảo quản và làm sáng bóng ngọc trai. Nhưng sau khi được phù phép bằng những câu thần chú cùng với máu, nó có một đặc tính là: chuyên ăn thịt tươi. Nếu chỉ có vậy thôi thì công có gì đặc biệt, vì có nhiều loại ax­it cũng làm tan nát thịt xương, sắt thép. Riêng chất dầu này vô hại với tất cả các vật khác. Cháu có thể những bất kỳ thứ gì vào nó, cũng không bị hề hấn gì, trừ những gì thuộc cơ thể con người hay thú vật. Nó được tạo ra để tra khảo và giết người. Có thể lưu giữ trong gỗ, bôi lên ngọn giáo, rải trên tấm trải giường, để địch thủ bị đốt cháy khi đụng phải. Tùy khả năng, kỹ xảo, nó có vô số cách dùng. Những vết thương do nó tạo ra rất lâu lành. Đây là một chất rất hiếm và đắt tiền, đặc biệt ở thể đã được biến đổi đặc tính như thế này.

Er­agon nhớ lại những vết bỏng khắp người của Gar­row. Nó khiếp đảm nhận ra, chúng đã hại cậu bằng chất dầu mà quỷ này đây.

- Nhưng nếu quý giá như vậy, sao tụi Ra’zac bỏ lại?

- Có thể chúng làm rơi khi bay đi.

- Sao chúng không trở lại tìm. Cháu nghi đây là mục đích của nhà vua. Ông ta vui mừng nếu cháu bị hại vì thứ dầu quỷ quái này.

- Không đâu. Ông ta sẽ chỉ vui mừng khi chúng đem cho ông ta tin tức về cháu. Nếu lúc này chúng đã gặp nàh vua, chắc chắn ông ta đã biết tin cháu rồi. Như vậy có nghĩa là chúng ta càng phải thận trọng hơn khi vào các thành phố. Những thông cáo về cháu sẽ tràn lan khắp nơi trên đế quốc này.

- Chính xác thì thứ dầu này hiếm hoi đến cỡ nào?

- Hiếm như cháu…tìm được viên kim cương trong máng heo vậy. Thật ra, loại dầu bình thường vẫn được các thợ kim hoàn dùng.

- Vậy thì phải có người mua bán nó chứ.

- Có lẽ độ một vài người thôi.

- Tốt rồi. Những thành phố dọc vùng biển này, có ai giữ giấy tờ mua bán không?

Mắt ông già sáng lên:

- Ồ, tất nhiên. Nếu chúng ta có thể coi những giấy tờ này, sẽ biết ai đưa dầu tới miền nam và từ đó chuyển đi đâu.

- Và hồ sơ mua bán của triều đình sẽ cho chúng ta biết tụi Ra’zac ở đâu. Cháu không biết bao nhiêu người làm nghề này, nhưng không khó khăn tìm ra những người không làm tay sai cho triều đình.

- Đại tài! Phải chi ta nghĩ đến điều này từ nhiều năm trước, ta đâu đến nỗi điên đầu. Dọc duyên hải này có rất nhiều thành phố cho tàu vào đậu. Nhưng ta nên tới Teirm trước, đây là nơi kiểm soát hầu hết chuyện buôn bán. Ta có một người bạn vẫn còn sống tại đó. Tuy nhiều năm chưa gặp lại, nhưng ta tin ông ấy sẽ sẵn lòng giúp đỡ. Là một nhà buôn, ông ta dễ đến gần hồ sơ mua bán hơn chúng ta.

- Chúng ta đến Teirm bằng cách nào?

- Đi về hướng tây nam, cho tới dốc núi Spine. Vượt qua bên kia, là chúng ta đã có thể đến thẳng Teirm.

- Trong vòng một tuần, chúng ta tới kịp con đường dốc đó không?

- Rất dễ. Nếu ta rẽ phải từ sông Ni­nor, sáng mai đã nhìn thấy rặng núi rồi.

Trước khi leo lên lưng Saphi­ra, Er­agon bảo:

- Cháu sẽ gặp ông trong bữa ăn tối.

Lên cao rồi, nó mới cho Saphi­ra biết: “Ngày mai anh sẽ cưỡi Cadoc, để bàn việc với ông già.”

“Mấy ngày sắp tới anh cứ cưỡi ngựa đi với ông ấy để học, còn em phải đi săn.”

“Em không bực chứ?”

“Công việc cần thiết vậy mà.”

Cuối ngày, khi hạ xuống mặt đất, Er­agon mừng rỡ thấy chân nó không hề đau đớn trầy trụa gì.

Buổi tập kiếm sau bữa ăn tôi kém phần hào hứng, vì ai cũng bận tâm đến những sự việc xảy ra trong ngày.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play