Gần trưa đội của Roran tới khu lều cạnh
đường. Những căn lều trông xám xịt và khó phân biệt vì lúc này sự mệt mỏi của
Roran đã giăng mây che tầm nhìn cuae anh. Cách đó 1 dặm về phía nam là thành phố
Aroughs nhưng anh chỉ nhận ra những đặc trưng cơ bản nhất của một thành phố:
tường trắng như bang, cổng thành rộng lớn đóng im ỉm và những tòa tháp xây bằng
đá vuông.
Anh nhảy khỏi ngựa khi đoàn người tới
trại. Những con ngựa gần như ngã quỵ. Một thanh niên gầy nhẳng chạy tới chỗ anh
và nắm lấy cương kéo cho tới khi con vật dừng hẳn.
Roran cúi xuống nhìn cậu nhóc và chưa hiểu
chuyện gì xảy ra. Một lúc lâu sau anh mới nói được một câu gọn lỏn, “Đưa tôi tới
gặp Brigman.”
Thằng nhóc không nói tới một lời thằng nhỏ
xoay người bước đi, để lại lớp bụi bay mù dưới gót chân
trần.
Roran cảm thấy như anh phải ngồi đợi hơn
một tiếng đồng hồ. Con ngựa thở hổn hển đứt đoạn còn anh chảy máu tai. Khi anh
nhìn xuống đất, dường như máu vẫn tiếp tục chảy thành dòng. Từ đâu đó vang lên
tiếng thúc ngựa.Tầm mười hai chiến binh tụ tập gần đó, chống lên giáo và khiên,
vẻ mặt thể hiện nét tò mò.
Từ đằng xa một người đàn ông vai rộng mặc
áo trấn thủ xanh lơ đi khập khiễng về phía Roran, sử dụng một cây giáo gẫy thay
cho gậy chống. Ông để râu xồm xoàm dù ria cạo sạch và lấm tấm mồ hôi – Roran không biết vì ông
đang thấy đau hay do nóng.
“Anh là Cây Búa Dũng Mãnh?” ông
hỏi.
Roran ừm nhẹ một tiếng xác nhận. Anh thả
tay đang cầm cương, cho vào trong áo và đưa cho Brigman một phong thư da dê có
lệnh của Nasuada.
Brigman bóc niêm phong. Ông đọc một hồi
rồi hạ lá thư xuống và nhìn Roran không biểu cảm.
“Chúng tôi đang đợi anh,” ông nói. “Một
trong những thầy bùa thân cận của Nasuada đã liên lạc với tôi từ bốn ngày trước
và nói anh đã đi, nhưng tôi không nghĩ anh sẽ tới sớm thế
này.”
“Không dễ dàng gì,” Roran
nói.
Môi trên của Brigman cong lên. “Tôi chắc
chắn vậy thưa...ngài.” Ông đưa tấm da dê lại cho Roran. “Binh sĩ ở đây sẽ nghe
lệnh ngài thưa Cây Búa Dũng Mãnh. Chúng tôi chuẩn bị tấn công cổng tây. Có thể
ngài muốn chỉ huy chăng?” Câu hỏi sắc nhọn như một mũi
dao.
Thế giới xung quanh Roran dường như
nghiêng nghả và anh cầm chắc cương hơn. Anh quá mệt không thể tán dóc với ai nữa
rồi.
“Ra lệnh cho họ nghỉ một ngày,” anh
nói.
“Ngài có còn minh mẫn không? Ngài làm thế
nào để chiếm thành vậy? Chúng tôi phải mất cả buổi sáng để chuẩn bị tấn công và
tôi sẽ không ăn không ngồi rồi chờ ngài ngủ đâu. Nasuada mong chúng tôi chiếm
thành trong vài ngày và, vì Angvard, tôi sẽ làm được điều
đó!”
Roran gầm nhẹ chỉ mình Brigman nghe thấy,
“Ra lệnh cho binh sĩ rút lui, không tôi sẽ đánh ông què cẳng vì bất tuân quân
lệnh. Tôi sẽ không cho phép bất kỳ cuộc tấn công nào diễn ra cho tới khi tôi
nghỉ ngơi và quan sát tình hình.”
“Ngài thật là ngu ngốc. Điều này có
thể...”
“Nếu ông không câm miệng và làm nhiệm vụ
của mình đi, tôi sẽ tự tay đập ông một trận – ngay đây và ngay lúc
này.”
Cánh mũi Brigman phập phồng. “Trong tình
trạng này sao? Ngài không có cơ hội đâu.”
“Sai rồi,” Roran nói. Và anh nói thật. Anh
không chắc mình sẽ đánh bại Brigman bằng cách nào nhưng anh biết anh có
thể.
Brigman có vẻ đang đấu tranh tư tưởng ghê
gớm. “Vâng,” ông quát lên. “Tốt hơn hết là không nên để cho quân sĩ thấy nội bộ
tướng lĩnh lục đục. Chúng tôi sẽ ở nguyên vị trí nếu đó là điều ngài muốn, nhưng
tôi không chịu trách nhiệm vì bỏ lỡ thời cơ. Đó là trách nhiệm của
ngài.”
“Tất nhiên rồi,” Roran nói, cổ họng bỏng
rát vì đau. “Cũng như ông phải chịu trách nhiệm vì những tổn thất ông đã gây cho
cuộc vây thành lần này.”
Mắt Brigman tối lại và Roran có thể thấy
ông tướng đã chuyển từ không thích anh sang thù ghét. Anh ước gì anh đã phản ứng
nhã nhặn hơn.
“Lều của ngài ở đằng
này.”
Sáng hôm sau Roran tỉnh
giấc.
Ánh sáng mờ mờ chiếu vào lều khiến anh lên
tinh thần. Trong một lúc, anh nghĩ anh chỉ ngủ có vài phút. Nhưng rồi anh nhận
ra đầu óc anh đã sáng suốt và tỉnh táo hơn nhiều.
Anh tự rủa thầm, tức giận vì để lỡ cả
ngày.
Anh đắp một tấm chăn mỏng, thực sự không
cần thiết cho thời tiết phương nam dễ chịu, đặc biệt là khi anh vẫn đeo giầy và
mặc quần áo. Anh bỏ chăn sang bên rồi ngồi thẳng dậy.
Anh rên lên một tiếng vì toàn bộ cơ thể
anh như căng cứng và gẫy vụn. Anh nằm xuống thở hổn hển. Cú choáng ban đầu nhanh
chóng tan đi chỉ để lại những cơn đau ê ẩm.
Anh mất vài phút mới tập trung toàn bộ sức
lực lăn sang một bên và bỏ chân xuống võng. Anh dừng lại thở trước khi cố sức
đứng lên.
Khi đã đứng được lên anh
cười chua sót. Hôm nay sẽ là một ngày thú vị đây.
Khi anh ra khỏi lều những người khác đã
dậy và đang đứng đợi anh. Trông họ tơi tả và thảm hại: họ cử động cà nhắc như
anh. Sau khi chào hỏi, Roran chỉ về tấm vải băng cánh tay Delwin, băng vết
thương một người chủ quán rượu chém vào. “Đỡ đau chưa?”
Roran nhìn mặt trời đang mọc, tính toán
còn bao lâu sẽ tới trưa. “Đi bộ chút đã,” anh nói.
Roran dẫn những người bạn đồng hành đi từ
trung tâm khu trại dọc ngang các dãy lều, xem xét tình hình quân binh cũng như
quân dụng. Thi thoảng, anh dừng lại hỏi han một binh sĩ trước khi đi tiếp. Hầu
như các chiến binh đều mệt mỏi và nản lòng, dù anh để ý thấy tinh thần có có
phấn chấn đôi chút khi nhìn thấy anh.
Cuộc đi dạo của Roran kết thúc ở góc phía
nam trại như anh đã dự định từ đầu. Anh và những người khác dừng lại nhìn về
thành phố Aroughs.
Thành phố được chia thành hai khu. Khu thứ
nhất thấp và trải dài gồm những tòa nhà quan trọng trong khi khu thứ hai, nhỏ
hơn chủ yếu là những khu nhà cao, thiết kế trang nhã. Bức tường thành bao quanh
cả hai khu. Từ ngoài nhìn vào có thể thấy rõ năm cổng thành: hai cổng lớn dẫn
đường vào thành phố: một phía bắc và một phía đông – ba cổng còn lại nằm cạnh
con kênh chảy từ phía nam vào thành phố. Ở bên kia Aroughs là con sống sóng vỗ
rầm rì, nơi con kênh chảy ra.
Ít nhất họ không có tường hào, anh nghĩ.
Những vết thủng lỗ chỗ trên cổng bắc là
vết tích của chiến tranh. Trên mặt đất cũng hằn những dấu vết của trận chiến.
Anh nhận ra ba vết đạn từ máy bắn ta và bốn vết từ cẩu đá nhờ hồi thuộc đội Cánh Rồng, hai tòa tháp xiêu vẹo ở đằng sau
tường thành. Vài binh sĩ đang ngồi chổm hỗm bên cạnh các cỗ máy chiến tranh hút
thuốc hoặc chơi xúc xắc trên vài tấm da. Những cỗ máy có vẻ trông nhỏ bé tới tội
nghiệp so với thành phố rộng lớn này.
Thành phố Aroughs thấp, bằng phẳng đổ
thoai thoải ra biển. Hàng trăm trang trại điểm xuyết trên đồng bằng xanh rì,
được đánh dấu bằng những hàng rào gỗ và ít nhất một túp lều lợp rạ. Những dinh
thự xa hoa nằm đây đó: những trang viên xây bằng đá được bảo vệ bởi những bức
tường cao và những người bảo vệ. Chắc chắn chúng là tài sản của giới quý tộc
Aroughs và có thể là của những thương nhân làm ăn phát
đạt.
“Anh nghĩ gì?” anh hỏi
Carn.
Pháp sư lắc đầu, đôi mắt cụp của anh trông
buồn hơn bình thường. “Chúng ta sẽ mất rất nhiều binh lính mới chiếm nổi
thôi.”
“Chắc rồi,” Brigman nhận xét khi tiến tới
chỗ họ.
Roran không nói ra những nhận xét của
minhfl anh không muốn những người khác biết anh đang nản lòng vô cùng. Nasuada bị điên nếu tin rằng chúng ta có thể chiếm Aroughs chỉ với
tám trăm binh lính. Nếu mình có tám ngàn quân cùng sự hỗ trợ của Eragon và
Saphira thì còn có nhẽ. Nhưng đằng này...”
Nhưng anh biết anh phải tìm ra cách, vì
tương lai của Katrina.
Roran không nhìn Brigman và nói. “Nói cho
tôi nghe về Aroghs.”
Brigman xoay ngọn giáo vài lần, thân giáo
xoay vài lỗ trên mặt đất, rồi nói. “Galbatorix đã tính toán từ trước; hắn đã cho
dữ trữ lương thực đầy đủ trong thành phố trước khi chúng ta cắt đường chi viện
từ đây với Triều đình. Ngài có thể thấy rằng họ không thiếu nguồn nước. Nếu
chúng ta ngăn sông, họ còn có vài con suối và giếng trong thành phố. Họ có thể
giữ thành cho tới mùa, thậm chí còn lâu hơn, dù tôi nghi họ không thể nào không
ốm lên vì ăn củ cải suốt. Ngoài ra, Galbatorix còn điều số lượng lớn binh sĩ tới
đây – gấp đôi số lượng quân của chúng ta – bổ sung cho binh sĩ trong
thành.”
“Sao ông biết?”
“Nội gián. Nhưng cậu ta không biết về binh
pháp nên đã cung cấp quá nhiều đánh giá chủ quan về những điểm yếu của
Aroughs.”
“Ờ.”
“Cậu ta cũng đã khẳng định rằng cậu ta sẽ
giúp đưa một lượng nhỏ quân chúng ta vào trong thành nhân lúc đêm
tối.”
“Rồi?”
“Chúng tôi đã đợi nhưng cậu ta không xuất
hiện và chúng tôi thấy cậu ta bị bêu đầu vào sáng hôm sau. Giờ vẫn còn treo ở
cổng đông đó.”
“Thì ra là vậy. Ngoài năm cổng này ra còn
cổng nào không?”
“Có ba cổng nữa. Ở gần bến cảng có một
cổng dẫn nước lớn đủ cho ba dòng chảy đi vào cùng lúc và gần đó là một cổng trên
đất liền cho người và ngựa. Ngoài ra còn một cổng trên đất liền ở đầu kia” – ông
ta chỉ về phía tây thành phố - “giống những cổng
khác.”
“Có thể bắn phá được cổng nào
không.”
“Không nhanh được. Bờ biển quá hẹp khiến
chúng tôi không thể bày bố quân hoặc tránh tên và đá của quân đội trong thành.
Vì thế chúng tôi không thể tấn công các cổng gần biển cũng như là cổng tây. Vùng
đất xung quanh thành bị chia cắt vì sông suối quá nhiều cho nên cũng khá nhỏ
hẹp, vì vậy tôi đã quyết định tập trung mũi tấn công vào cổng gần
nhất.”
“Cổng làm bằng
gì?”
“Sắt và gỗ sồi. Chúng còn trụ vững hàng
trăm năm nữa nếu không bị phá dỡ.”
“Chúng có được bảo vệ bởi phép thuật
không?”
“Tôi không rõ vì tiểu thư Nasuada không
gửi pháp sư cho chúng tôi. Halstead có...”
“Halstead?”
“Lãnh chúa Halstead của thành Aroughs.
Chắc ngài từng nghe thấy rồi chứ.”
“Chưa.”
Một quãng im lặng ngắn khiến Roran có thể
cảm nhận sự khinh miệt của Brigman dành cho anh đang lớn dần. Sau đó người đàn
ông đó nói tiếp, “Halstead có riêng một pháp sư phục tùng: một kẻ xấu tính, da
vàng vọt chúng tôi đã có dịp nhìn thấy trên tường thành cố hất ngã chúng tôi
xuống bằng phép thuật. Hắn có vẻ không giỏi gì cho cam, trừ chuyện hắn đã thiêu
cháy hai người tôi bố trí dùng gỗ phá cổng thành.”
Roran liếc mắt nhìn Carn – pháp sư tỏ ra
lo lắng hơn trước – nhưng anh quyết định sẽ thảo luận vấn đề này với nhau
sau.
“Công thành qua đường kênh có dễ hơn
không?” anh hỏi.
“THế chúng ta sẽ đứng ở đâu? Thành phố kề
sát kênh cơ mà. Hơn nữa đi qua lối đó khác nào đưa đầu có chúng giết, chúng có
thể đổ dầu nóng, ném đá, hoặc bắn hỏa tiễn vào bất cứ tên ngu nào đi qua lối
đó.”
“Cánh cổng không thể nào bịt kín được,
phải có lối cho nước lưu thông chứ.”
“Đúng. Bên đưới có hàng lưới mắt cáo bằng
gỗ và sắt để dòng chảy không quá mạnh.”
“Hiểu. Vậy là hầu hết thời gian, kể cả khi
không bị tấn công, Aroughs đều hạ thấp cổng đúng
không?”
“Đêm thì chắc, nhưng tôi tin ban ngày cổng
đó sẽ mở.
“Ừm. Các bức tường xây từ
gì?”
“Đá hoa cương, bề mặt cực kỳ trơn nhẵn và
khít không thể lách nổi một lưỡi dao. Tôi đoán đây là tác phẩm của người lùn
trước thời kỳ thoái trào của Kỵ sĩ Rồng. Tôi đoán lớp bên trong tường được trộn
đá cuôi. Nhưng tôi không dám khẳng định vì chúng ta chưa làm xây sất nổi lớp vỏ
ngoài. Chân tường sâu tới hơn 12 mét nên chúng ta sẽ không thể đào hầm để làm
yếu móng tường hoặc đánh sập tường.”
Brigman bước thêm một bước và chỉ về những
thái ấp ở phía nam và phía tây. “Hầu hết giới quý tộc đều lui vào Aroughs để lại
tùy tùng bảo vệ tài sản. Họ gây rắc rối cho chúng ta, tấn công quân trinh sát,
trộm ngựa...Chúng ta đã chiếm được hai thái ấp...” – ông ta chỉ hai kho thóc lớn
đang cháy cách đó vài dăm – “nhưng giữ lại chúng còn phiền hơn vì thế chúng tôi
đã đốt bỏ. Không may, chúng tôi không có đủ người để bảo vệ phần còn
lại.”
Baldor nói. “Vì sao các kênh lại chạy vào
Aroughs nhỉ? Hình như họ không dùng nó làm hệ thống mương tưới tiêu thì
phải.”
“Ở vùng này không cần tưới nước như người
miền bắc không cần xe trượt tuyết trong mùa đông vậy.”
“Thế mục đích là gì?” Roran thắc mắc.
“Nguồn nước bắt đầu từ đâu? Ông đừng mong tôi tin nhưng con kênh này rẽ nhánh từ
sông Jiet nhé, quá xa.”
“Không,” Brigman chế giễu. “Có một số hồ
nước ở mạn bắc. Nước lợ và bẩn nhưng dân ở đây quen rồi. Một con sông bắt nguồn
từ đó, chia làm ba nhánh sông nhỏ chảy tới đây vào các đập tạo năng lượng giúp
xay bột cung ứng cho thành phố. Nông dân chở lúa mỳ tới các khu xay sát vào vụ
mùa rồi chất các thúng bột lên sà lan chở vào thành phố. Dân cư ở đây cùng lợi
dụng đường sông để chuyên chở hàng hóa như gỗ xẻ và rượu từ các trang ấp vào
thành phố.”
Roran gãi gãi cổ khi tiếp tục quan sát
Aroughs. Những gì Brigman vừa nói đã khiến anh nảy ra một ý nhưng chưa rõ nó có
khả thi không. “Còn điểm gì đặc biệt ở khu ngoại vi
không?”
“Đi dọc bờ biển về phương nam có một mỏ đá
phiến.”
Anh gầm gừ trong khi suy ngẫm. “Tôi muốn
tới xem khu xay sát,” anh nói. “Nhưng trước hết tôi muốn nghe toàn bộ tình hình
từ ông.”
“Mời đi theo tôi thưa Cây búa Dũng
mãnh.”
Trong cả một tiếng đồng hồ sau đó Roran
thảo luận với Roran và hai phó tướng, nghe và hỏi về những lần công thành hay
biết mỗi binh lính còn bao nhiêu lương thực.
Ít ra chúng ta không thiếu vũ
khí, Roran nghĩ khi biết số tử sĩ. Kể cả nếu
Nasuada không giới hạn thời gian nhiệm vụ cho anh thì người và ngựa cũng không
có đủ lương thực mà sống trong hơn một tuần nữa.
Rất nhiều sự kiện và con số Brigman và các
phó tướng đề cập tới được viết trên giấy. Roran không nói ra chuyện mình không
thể đọc nổi những con chữ đen đen loằng ngoằng nên buộc những người kia đọc lên
cho nghe. Dù vậy anh cũng tức vì phụ thuộc vào người khác. Nasuada nói đúng, mình phải học đọc vì nếu không mình không thể
biết người kia có nói dối mình không khi đọc gì đó cho mình... Có lẽ khi về
Varden Carn có thể dạy mình.
Roran càng biết nhiều về Aroughs, anh càng
thấy thông cảm cho những khó khăn của Brigman; vô phương chiếm thành. Dù anh
không thích người đàn ông này nhưng anh nghĩ vị tướng đã làm hết sức có thể.
Roran tin ông ấy thất bại không phải vì không đủ năng lực mà vì ông ấy thiếu hai
yếu tố hết lần này tới lần khác mang lại thắng lợi cho Roran: sự liều
lĩnh và óc tưởng tượng.
Sau khi xem xét tình hình xong, Roran và
năm người đồng hành cùng Brigman đi quan sát tường thành Aroughs ở khoảng cách
gần hơn nhưng đủ xa để giữ an toàn. Lên lưng ngựa lần nữa lại khiến Roran đau
nhưng anh không hề kêu lấy một tiếng.
Khi móng ngựa nện lên con đường rải đá đi
tới thành phố ở gần khu trại, Roran để ý thi thoảng móng ngựa tạo ra những âm
thanh khác thường. Anh nhớ đã nghe thấy âm thanh quen thuộc này trong ngày cuối
chuyến đi.
Anh nhìn xuống và thấy những phiến đá
phẳng hình như có màu bạc mờ, những mạch đá hình thành nên họa tiết hình mạng
nhện khác thường.
Roran gọi lớn hỏi Brigman nhưng Brigman
chỉ bảo “Vữa chất lượng kém nên họ dùng chì để trát
đá.”
Lúc đầu Roran không tin nhưng Brigman rất
nghiêm túc. Anh thấy ngạc nhiên vì người ở đây lại coi kim loại bình thường tới
mức dùng để làm đường.
Họ cẩn trọng quan sát hàng phòng thủ của
Aroughs nhưng chẳng phát hiện ra điều gì mới và càng khiến Roran tin vào chuyện
không thể chiếm nổi thành phố.
Anh đi ngựa tới gần Carn. Pháp sư đang
nhìn Aroughs vẻ thẫn thờ, môi chuyển động không thành tiếng như thể nói chuyện
một mình. Roran đợi tới khi anh dừng lại mới hỏi, “Cổng thành có phủ phép thuật
không?”
“Tôi nghĩ là có,” Carn trả lời. “nhưng tôi
không chắc có bao nhiêu câu thần chú trên đó và dụng ý của từng cái là gì. Tôi
cần thêm thời gian mới biết được.”
“Sao lại khó
thế?”
“Không hẳn. Hầu hết các câu thần chú đều
dễ phát hiện, trừ khi có ai cố giấu chúng. Nhưng kể cả thế, pháp thuật thường để
lại những dấu vết nếu anh biết cách nhìn. Tôi chỉ sợ họ dùng thần chú này để
khởi động thần chú khác, và nếu tôi tiếp cận chúng thì ai biết chuyện gì sẽ xảy
ra? Tôi có thể biến thành một vũng nước ngay trước mắt anh. Nếu có thể tôi sẽ
tránh cái đinh mệnh đó.”
“Anh có muốn ở lại khi chúng tôi đi tiếp
không?”
Carn lắc đầu. “Tôi không nghĩ nên để các
anh đi mà không có sự bảo vệ. Tôi sẽ trở lạ sau khi mặt trời lặn và xem tôi có
thể làm gì. Ngoài ra ở gần cổng thành sẽ giúp tôi hiểu mấy câu thần chú đó,
nhưng giờ tôi không dám tới gần cổng thành khi mấy tay lính canh nhìn thấy tôi
rõ rành rành thế này.”
“Được thôi.”
Khi Roran hài lòng rằng họ đã biết mọi thứ
về thành phố, anh để Brigman dẫn tới khu xay sát gần
nhất.
Khá giống những gì Brigman miêu tả. Nước
từ kênh được dẫn tới những đập cao 20m. Ở chân đập có một guồng nước có gắn mấy cái thùng. Nước chảy
vào thùng làm guồng quay tròn. Các guồng nước được nối vào ba tòa nhà giống y
hệt nhau. Trong các tòa nhà là các cối đá cỡ lớn dùng để xay bột cung cấp đủ cho
dân cư Aroughs.
Anh xuống ngựa ngay khi tới khu xay sát ở
vị trí thấp nhất và đi men theo con đường giữa các tòa nhà, mắt nhìn kênh dẫn
nước làm nhiệm vụ kiểm soát lượng nước lưu thông vào các con đập. Cửa kênh mở
nhưng mực nước trong đập vẫn thấp hơn ba guồng nước đã từ từ chuyển
động.
Anh dừng ở giữa đoạn đường thoai thoải,
chôn chân trên bờ kênh ẩm ướt đầy cỏ, khoanh hai tay lại và cúi đầu chạm ngực
khi suy tính cách chiếm thành. Anh tin mình sẽ có cách hoặc chiến thuật gì đó để
lẻn vào thành, nhưng cách nào thì anh chưa rõ.
Nghĩ mãi tới mệt, anh dừng lại lắng nghe
tiếng trục xoay cọt kẹt và tiếng thác nước đổ ầm ầm.
Những âm thanh đó êm ả nhưng lại gợi lên
cho anh vết thương lòng. Anh nhớ tới xưởng xay bột của chú Dempton ở Therinsford
nơi anh đã tới làm vào ngày tụi Ra’zac đốt nhà và tra tấn cha anh tới
chết.
Roran cố quên ký ức không vui đó đi nhưng
nó vẫn ở đó, vẫn làm anh đau quặn từng cơn.
Giá mình đi muộn vài giờ, mình đã có thể cứu cha
rồi. Ngay lúc đó, phần thực tế trong con người
Roran trả lời, Đúng, và Ra’zac có thể giết mình trước
khi mình kịp giơ tay. Không có Eragon bảo vệ, mình chỉ như một đứa nhỏ sơ sinh,
không hơn.
Baldor lặng lẽ bước tới gần anh. “Những
người còn lại đang muốn biết anh đã có kế gì chưa?” anh ta
hỏi.
“Tôi có vài ý tưởng nhưng chưa có kế
hoạch. Anh sao?”
Baldor cũng khoanh tay lại. “Chúng ta có
thể đợi Nasuada cho Eragon và Saphira tới giúp.”
“Xì.”
Trong một lúc lâu họ lẳng lặng nhìn dòng
nước chảy lững lờ bên dươi. Sau đó Baldor nói, “Nếu anh yêu cầu chúng đầu hàng
thì sao? Có thể chúng sẽ sợ hãi khi nghe tên anh, chúng sẽ tử mình mở cổng, quỳ
dưới chân anh và xin anh tha chết.”
Roran tặc tặc lưỡi. “Tôi không nghĩ tên
tuổi tôi có thể lan tới tận Aroughs này. Nhưng,” Anh gãi gãi râu. “Có lẽ cũng
nên thử, để cho chúng hoang mang chút thôi.”
“Kể cả khi chúng ta mở được cổng thành thì
sao chiến thắng được với số quân ít ỏi thế này?”
“Có thể thắng có thể
thua.”
Họ lặng yên rồi Baldor lên tiếng, “Chúng
ta đã đi một quãng đường rất dài.”
“Đúng.”
Lại một lần nữa không gian chỉ vang lên
tiếng nước chảy và tiếng guồng quay. Cuối cùng vẫn là Baldor mở lời, “Chắc hẳn ở
đây tuyết rơi không nhiều. Vì thế lượng nước do băng tan không lớn như ở quê
hương chúng ta. Nếu không, vào lúc lập xuân, guồng sẽ ngập một nửa
mất.”
Roran lắc đầu. “Chuyện lượng mưa hay lượng
tuyết rơi nhiều hay ít không quan trọng. Cửa đập sẽ khống chế lượng nước chảy
vào các guồng quay để đảm bảo tốc độ cho chúng.”
“Nhưng nếu nước dâng lên ngang cửa thì
sao?”
“Hy vọng là không có ngày đó. Nếu không,
anh buộc phải kéo xích mở cửa đập và thế là....” Roran nghĩ tới một loạt những
hình ảnh, người anh thấy nóng lên như thể anh vừa nốc một hơi hết cả vại rượu
mật ong.
Được không? Anh nghĩ. Liệu có thành công không... hay... Không sao, chúng ta phải thử.
Chúng ta còn làm được gì nữa?”
Anh bước đi trên con đường hẹp trước cái
đập ở giữa, kéo những thanh gỗ nhỏ chèn lên trục điều khiển cửa đập. Thanh điều
khiển khá khó di chuyển dù anh chèn vai đẩy bằng hết
sức.
“Giúp tôi đi,” Anh nói với Baldor đang
đứng trên bờ kênh quan sát với vẻ hứng thú pha chút bối
rối.
Baldor cẩn thận đi tới chỗ Roran đứng. Họ
cùng nhau đóng cửa đập lại. Sau đó, Roran không chịu trả lời câu hỏi nào mà tiếp
tục đóng nốt hai cửa đập còn lại.
Sau khi đã đóng chặt cả ba, Roran đi lại
chỗ Carn, Brigman và những người khác rồi ra hiệu cho họ xuống ngựa ra chỗ anh.
Anh vỗ lên đầu búa trong khi chờ đợi, đột nhiên cảm thấy mất kiên
nhẫn.
“Sao?” Brigman hỏi sau khi họ đã tới
nơi.
Roran nhìn từng người một để đảm bảo họ
hoàn toàn chú ý tới anh rồi nói. “Phải rồi, đây là điều chúng ta sẽ làm...” –
sau đó anh bắt đầu nói, nhanh và căng thẳng trong suốt nửa tiếng đồng hồ, giải
thích từng điều anh nghĩ tới trong khoảng khắc thoáng qua đó. Khi anh nói, mọi
người nghiêm túc hơn, nhưng Mandel đã bắt đầu nhoẻn cười, Baldor, Delwin và
Hamund cũng có vẻ hứng thú với kế hoach táo bạo của
anh.
Phản ứng của họ khiến Roran hài lòng. Anh
đã làm nhiều chuyện để có được sự tín nhiệm từ họ và anh vui vì anh vẫn có thể
tin tưởng họ. Trong đời, anh sợ nhất là mất Katrina, sau là làm những người
chiến hữu thất vọng.
Nhưng có vẻ Carn còn hoài
nghi. Điều này thì Roran đã đoán được nhưng anh chỉ không ngờ nỗi nghi ngờ này
có khi ngang bằng với Brigman.
“Anh điên rồi,” ông ta hét lên khi Roran
vừa nói xong. “Không thể nào thành công được.”
“Ông rút lại lời nói đó đi!” Mandel nói và
nhảy lên phía trước, tay nắm thành quyền. “Vì sao à, Roran đã thắng nhiều trận
chiến hơn ông, và anh ấy đâu cần nhiều quân lính như
ông!”
Brigman rít lên, môi trên cong lên như một
con rắn. “Đồ mất dạy! Tao sẽ dạy cho mày một bài học không thể nào
quên!”
Roran đẩy Mandel lùi lại trước khi cậu
trai trẻ tấn công Brigman. “Thôi nào!” Roran gầm lên. “Hai người xem lại cách
hành xử đi!” Mandel cáu kỉnh ngừng lại nhưng vẫn nhìn Brigman trừng trừng.
Brigman cũng hành động tương tự.
“Chắc chắn đây là một kế hoạch lạ lùng,”
Delwin nói. “Nhưng những kế hoach kỳ lạ của anh đã giúp chúng ta chiến thắng
trong quá khứ.” Những người làng Carvahall khác lên tiếng đồng
tình.
Carn gật đầu nói. “Kế hoach có thể thành
công có thể không. Tôi không chắc. Nhưng chắc chắn nó sẽ khiến kẻ thù của chúng
ta ngạc nhiên và tôi phải thừa nhận rằng tôi tò mò muốn thấy chuyện gì sẽ xảy
ra. Đây là việc vô tiền khoáng hậu.”
Roran cười rạng rỡ. Anh nhìn Brigman và
nói, “Giờ chúng ta cần phải điện. Chúng ta chỉ có hai ngày rưỡi để chiếm
Aroughs. Những biện pháp thông thường không có hiệu quả vậy chúng ta phải mạo
hiểm bằng những kế hoạch bất bình
thường.”
“Có thể thế,” Brigman nói nhỏ. “Nhưng đây
là một kế hoạch liều lĩnh khiến chúng ta tổn thất binh sĩ và tôi không thể nào
đồng tình.”
Nụ cười của Roran rộng hơn khi anh tiến
tới chỉ cách Brigman vài centimet. “Ông không cần phải đồng ý với tôi; ông chỉ
cần làm theo lệnh thôi. Giờ ông có nghe theo lệnh của tôi hay
không?”
Không khí giữa họ nóng lên do hơi thở và
nhiệt độ từ da thịt họ. Brigman nghiến răng và xoắn cây giáo mạnh hơn trước,
nhưng ánh mắt dao động và ông ta lùi lại. “Quỷ tha ma bắt anh đi,” ông ta nói.
“Tôi sẽ làm chó cho anh trong lúc này, Cây búa dũng mãnh ạ, nhưng anh cứ xem
đi,anh sẽ phải trả giá cho quyết định của anh sớm
thôi.”
Miễn là chúng ta chiếm được
Aroughs, Rora nghĩ, tôi chẳng cần quan tâm. “Lên ngựa!” anh ra lệnh. “Chúng ta có việc
cần làm và còn quá ít thời gian! Nhanh lên! Nhanh lên! Nhanh
lên!”
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT